Hà nội, 2009 Mục lục Chương Tổng quan về Thương mại điện tử 7


Chứng thực chữ ký điện tử và dịch vụ chứng thực chữ ký điện tử



tải về 6.11 Mb.
trang18/56
Chuyển đổi dữ liệu01.05.2018
Kích6.11 Mb.
#37659
1   ...   14   15   16   17   18   19   20   21   ...   56

3.2. Chứng thực chữ ký điện tử và dịch vụ chứng thực chữ ký điện tử

3.2.1. Sự cần thiết phải có dịch vụ chứng thực chữ ký điện tử

3.2.1.1. Sự cần thiết của dịch vụ chứng thực chữ ký điện tử


Để tiến hành các giao dịch điện tử trong cả lĩnh vực thương mại và phi thương mại, điều quan trọng nhất là cần có những phương pháp cụ thể để xác định các bên thực hiện những giao dịch đó. Trong các phương pháp này, chữ ký số sử dụng công nghệ mã hóa công khai (public key cryptography) đã và đang được sử dụng rộng rãi trong những năm gần đây. Cần lưu ý ở đây, “chữ ký điện tử” được hiểu là các dạng dữ liệu điện tử được sử dụng để xác thực chủ thể ký thông điệp dữ liệu, trong khi đó “chữ ký số” là một dạng chữ ký điện tử cao cấp sử dụng công nghệ mã hóa công khai (PKI). Giao dịch điện tử phổ biến nhất hiện nay là qua thư điện tử và tại các website bán hàng (B2C), tuy nhiên cản trở lớn nhất là các bên tham gia không thể thực hiện các giao dịch với giá trị lớn vì không có biện pháp và công cụ thuận tiện, an toàn để xác thực chính xác người đang giao dịch với mình là ai. Cụ thể hơn, trong các giao dịch điện tử, người nhận thông điệp dữ liệu như đặt hàng, hợp đồng... cần có công cụ để xác định một số vấn đề như:

- Ai là người thực sự gửi thông điệp dữ liệu đó. Bằng chứng về thời gian, địa điểm gửi thông điệp.

- Bằng chứng ràng buộc trách nhiệm của người gửi đối với thông điệp đó.

- Nội dung của thông điệp không bị thay đổi sau khi đã ký và trong quá trình truyền gửi qua mạng.

Từ giữa thập niên 70, chữ ký số với công nghệ khóa công khai đã được sử dụng để mã hóa các thông điệp dữ liệu. Tuy nhiên, chỉ đến trong vài năm gần đây, một số tổ chức và công ty mới bắt đầu cung cấp chữ ký số và dịch vụ chứng thực chữ ký số một cách rộng rãi để các doanh nghiệp sử dụng. Những công ty này vẫn hoạt động độc lập với nhau và các chữ ký số của họ không hoạt động kết hợp với nhau được vì sử dụng những công nghệ mã hóa khác nhau. Tại một số nước phát triển, khi các giao dịch điện tử trở nên phổ biến, nhu cầu giao dịch với các đối tác mới qua mạng đòi hỏi phải có chữ ký số. Tuy nhiên, các chứng chỉ số thường vẫn chỉ do một vài tổ chức cung cấp với phạm vi hẹp, giới hạn về lĩnh vực hoạt động (tài chính, ngân hàng, thương mại hàng hóa...) hoặc giới hạn về số lượng các bên tham gia (thành viên của hiệp hội hoặc tổ chức).

Tình huống giao dịch sau được phân tích nhằm minh họa sự cần thiết của dịch vụ chứng thực điện tử đối với tất cả các bên tham gia giao dịch điện tử.

Trong tình huống này công ty A là một nhà phân phối đồ nội thất gia đình và văn phòng, công ty B là nhà cung cấp sản phẩm cho A.

- Công ty B nhận được một email từ Bill (giám đốc mua sắm của công ty A) đặt mua 1000 bộ nội thất do B sản xuất.

- Email được nhận trong bối cảnh hai công ty đã có quan hệ kinh doanh lâu nay và đã có thỏa thuận cụ thể giữa Bill và giám đốc cung cấp của công ty B.

- Email được nhận vào ngày 23/2/2005, hai ngày sau khi B đã tăng giá bộ nội thất 30%, nguyên nhân do tỷ giá hối đoái biến động, nội thất này được công ty B sản xuất từ nguyên liệu ngoại nhập.

- Công ty B giao hàng kèm theo hóa đơn yêu cầu thanh toán sau 30 ngày từ ngày nhận được hàng.

- Công ty B không nhận được thanh toán đúng hẹn và điều tra thấy A đang gặp khó khăn về tài chính, hàng tiêu thụ chậm hơn dự kiến.



- Công ty A nếu muốn tìm cách không chịu trách nhiệm thanh toán lô hàng (thực tế đã được giao đến kho của A), và tìm cách thoát khỏi trách nhiệm, công ty A có thể đưa ra một số lý do như sau:

+ Email đặt hàng chưa hề được A chính thức gửi cho B, email mà B đưa ra làm bằng chứng thực ra là do B hay bên nào đó giả lập mà có.

+ Email được gửi đi từ máy tính của Bill nhưng do ai đó truy cập trái phép vào đó và làm như vậy.

+ Email được gửi đi từ ngày 19/2/2005, hai ngày trước ngày B tăng giá, do đó A đòi B chấp nhận thanh toán với mức giá thấp.

+ Email đặt hàng được gửi đúng như trên, nhưng ngay sau đó Bill đã gửi một email khác hủy đơn đặt hàng, tuy nhiên B không nhận được email sau.

+ Email thực sự được gửi nhưng số lượng đặt hàng chỉ có 100 bộ thay vì 1000 bộ. Thực tế có ai đó đã thay đổi nội dung email trong quá trình truyền gửi.

Trong bối cảnh trên, hai bên đã có quan hệ thương mại từ trước, khả năng giải quyết tranh chấp có thể được thực hiện qua thương lượng. Tuy nhiên, với sự phát triển mạnh mẽ của Internet và các giao dịch điện tử, người mua và người bán thường thỏa thuận trên khả năng cung cấp của người bán và khả năng thanh toán của người mua mà không có những liên hệ hay quan hệ từ trước. Chính những giao dịch này đòi hỏi có chữ ký điện tử và dịch vụ chứng thực chữ ký điện tử.

Do tính chất kỹ thuật của bản thân chữ ký điện tử, trong khi các loại chữ ký điện tử thông thường được sử dụng trong các mạng đóng (nội bộ doanh nghiệp, ngân hàng với khách hàng, hải quan với cá nhân, hoặc trong nội bộ một ngành như visa điện tử, xuất xứ điện tử...), chữ ký số được sử dụng trong môi trường mở (giữa cá nhân với cá nhân, tổ chức với tổ chức, nhiều cá nhân với nhiều tổ chức...). Chính vì tính chất này, việc sử dụng chữ ký số đòi hỏi phải có bên trung gian thứ ba đứng ra xác thực chữ ký số của các bên tham gia.

Đối với việc sử dụng chữ ký điện tử như vân tay, giọng nói, mật khẩu, võng mạc hay các thông điệp dữ liệu khác để xác thực các cá nhân hay tổ chức, việc xác thực được thực hiện bởi chính cơ quan hay tổ chức mà các đối tác đó đang giao dịch (ví dụ như ngân hàng kiểm tra chữ ký điện tử của khách hàng, doanh nghiệp kiểm tra chữ ký điện tử của nhân viên, hải quan kiểm tra chữ ký điện tử của doanh nghiệp...). Việc sử dụng chữ ký số đòi hỏi phải xác định được ai đang nắm giữ khóa bí mật tương ứng với khóa công khai (được dùng để giải mã chữ ký số) để từ đó xác định danh tính của người/tổ chức đã tạo ra chữ ký số đó. Mặc dù có thể dùng một số phương pháp đế xác minh chủ sở hữu của khóa công khai, phương pháp phổ biến nhất hiện nay là sử dụng cơ quan chứng thực (certification authority) để cung cấp các thông tin về danh tính người nắm giữ khóa bí mật tương ứng với khóa công khai đang được sử dụng trong các giao dịch điện tử và có trách nhiệm tham gia giải quyết các tranh chấp phát sinh liên quan đến chữ ký điện tử và chữ ký số.

Vai trò cụ thể của cơ quan chứng thực được thể hiện rõ trong mô hình giao dịch điện tử sau: “Trước hết, người gửi thông điệp dữ liệu đăng ký với cơ quan chứng thực để nhận được một chứng chỉ số (electronic certificate), thực chất là một file dữ liệu (đặc biệt) lưu trữ các thông tin cần thiết như: thông tin về người gửi, khóa công khai của người gửi... và chữ ký số của cơ quan chứng thực và một khóa bí mật tương ứng với khóa công khai trên chứng chỉ. Khóa bí mật này cũng là một thông điệp dữ liệu, được dùng kết hợp với phần mềm ký số để tạo ra chữ ký số. Người gửi sau khi tạo ra chữ ký số sẽ gắn với thông điệp cần gửi cùng với chứng chỉ số của mình đến cho người nhận. Người nhận sẽ kiểm tra danh tính của người gửi bằng chữ ký số và khóa công khai kèm trong chứng chỉ số của người gửi. Bằng cách này, người nhận có thể xác nhận được người gửi thông điệp dữ liệu có đúng là người có thông tin nêu trong chứng chỉ số hay không. Đồng thời cũng xác thực được nội dung dữ liệu được ký có toàn vẹn sau khi ký hay không.”

Trong các loại chữ ký điện tử hiện nay, chỉ có chữ ký số dùng công nghệ khóa công khai kể trên có thể đảm bảo tương đương về chức năng của chữ ký và dấu. Do đó, cần phải có khung pháp lý điều chỉnh chữ ký điện tử, đặc biệt là chữ ký số. Đồng thời, để cung cấp và xác thực chữ ký số cần phải có cơ quan chứng thực cung cấp dịch vụ chứng thực và cũng cần có khung pháp lý điều chỉnh quan hệ pháp lý giữa các bên tham gia giao dịch điện tử và cơ quan chứng thực.

Đến nay, các nước như Mỹ, Đức, Nhật Bản đều đã triển khai dịch vụ chứng thực điện tử thành công. Gần đây nhất là Nhật Bản, với sự tham gia của Bộ tài chính, Bộ Công thương, Bộ Bưu chính Viễn thông đã triển khai thành công dịch vụ này. (Nguồn: www.moj.go.jp, Báo cáo về hệ thống luật điều chỉnh thương mại điện tử Nhật Bản).

Tại Việt Nam, việc nhanh chóng triển khai dịch vụ chứng thực điện tử sẽ góp phần quan trọng vào nâng cao năng lực công nghệ thông tin, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, đồng thời thúc đẩy các giao dịch điện tử.

3.2.1.2. Nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và của quốc gia


Với sự phát triển không ngừng của công nghệ thông tin, việc ứng dụng công nghệ thông tin trong thương mại đang mở ra nhiều cơ hội mới cho nền kinh tế toàn cầu nói chung và Việt nam nói riêng. Hiện nay, thương mại điện tử đã phát triển mạnh mẽ ở một số quốc gia trên thế giới như Mỹ, Canada, EU, Nhật Bản, Singapore, Hàn Quốc,… Nhiều quốc gia đã nhận thức được tầm quan trọng của thương mại điện tử và đang nỗ lực thúc đẩy phát triển thương mại điện tử nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh.

Thương mại điện tử là kết quả của việc ứng dụng công nghệ thông tin vào mọi hoạt động thương mại. Đặc biệt, với sự phát triển như vũ bão của Internet đã tạo tiền đề cho việc ứng dụng thương mại điện tử tại các nước khác nhau trên thế giới. Thương mại điện tử không những giúp doanh nghiệp mở rộng thị trường kinh doanh, tạo ra kênh bán hàng mới để xuất khẩu hàng hóa mà còn thúc đẩy sự phát triển của những ngành có lợi nhuận cao và đẩy nhanh sự tiếp cận của kinh tế quốc gia vào nền kinh tế số hóa.

Trong thời đại công nghệ thông tin đang phát triển như vũ bão, theo dự báo của nhiều chuyên gia trong lĩnh vực công nghệ thông tin, một nước nếu không nhanh chóng nắm bắt công nghệ và tham gia vào nền kinh tế số thì trong khoảng một thập kỷ nữa nước đó có thể sẽ bị bỏ cách, trở nên cô lập với nền kinh tế thế giới và không thể hội nhập được. Để tiến hành các giao dịch thương mại điện tử, đặc biệt là giao dịch thương mại điện tử quốc tế, việc sử dụng chữ ký điện tử và chữ ký số là điều kiện tiên quyết. Hiện nay, một số nước Châu Âu có xu hướng hạn chế giao dịch thương mại điện tử với các nước, các vùng lãnh thổ không có biện pháp đảm bảo an toàn thông tin trên mạng. Ví dụ, Amazon (website bán hàng trực tuyến lớn nhất thế giới) không chấp nhận các giao dịch mua hàng trực tuyến từ Việt nam, và một số nước khác trên thế giới do còn nhiều rủi ro về xác thực danh tính khách hàng giao dịch qua mạng. Để các doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân có thể tích cực tham gia thương mại điện tử với các đối tác trong và ngoài nước, điều cần thiết nhất hiện nay là phải có cơ quan chứng thực chữ ký điện tử làm nhiệm vụ cung cấp công cụ và dịch vụ hỗ trợ các doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân tiến hành các giao dịch điện tử.

Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, việc phát triển dịch vụ chứng thực điện tử sẽ góp phần thúc đẩy các doanh nghiệp triển khai thương mại điện tử tạo tiền đề cho sự phát triển kinh tế Việt nam hòa nhập với nền kinh tế thế giới, rút ngắn khoảng cách về trình độ phát triển kinh tế, sự tăng trưởng kinh tế của Việt nam với các nước trên thế giới. Cụ thể hơn, việc phát triển dịch vụ chứng thực điện tử là điều kiện để triển khai các dịch vụ điện tử trong quản lý Nhà nước như Chính phủ điện tử, Hải quan điện tử, trong cung cấp dịch vụ y tế, đào tạo, tài chính, ngân hàng điện tử.

Nhận thức được vai trò quan trọng của dịch vụ chứng thực điện tử đối với sự phát triển thương mại điện tử đất nước. Ngày 07/10/2004 Chính phủ có công văn số 38/CP-CN về việc triển khai dịch vụ chứng thực điện tử tại Việt Nam và Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện nghị quyết trung ương khóa IX tại quyết định 51/2004/QĐ-TT ngày 31/3/2004 do Bộ Bưu chính viễn thông chủ trì, phối hợp với các bộ ngành có liên quan xây dựng dự thảo Nghị định của chính phủ về chữ ký số và dịch vụ chứng thực điện tử.

Bộ bưu chính viễn thông nay là Bộ Thông tin và Truyền thông từ năm 2004 cũng đã khẩn trương triển khai các hoạt động xây dựng dự thảo, phối hợp với các Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Nội vụ, Bộ Công An, Bộ Tư Pháp, Ban cơ yếu Chính phủ và Văn phòng Chính phủ soạn thảo và đã tổ chức giới thiệu các chuyên gia nước ngoài về công nghệ, ứng dụng và hạ tầng pháp lý cho chữ ký số và dịch vụ chứng thực điện tử.


3.2.1.3. Đáp ứng yêu cầu an toàn, bảo mật trong giao dịch điện tử


Do chữ ký số và dịch vụ chứng thực điện tử là căn cứ để đảm bảo an toàn cho việc truyền thông tin trên mạng, việc sử dụng chữ ký số và dịch vụ chứng thực điện tử mà các giao dịch liên quan đến tài chính như ngân hàng, thuế, bảo hiểm,… và những giao dịch yêu cầu tính pháp lý cao có thể được thực hiện qua mạng Internet khi dịch vụ này được triển khai. Các giao dịch điện tử dù giữa cá nhân với doanh nghiệp (B2C) hay giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp (B2B) sẽ không thể thực sự phát triển đúng với tiềm năng của nó nếu không có chữ ký điện tử hay chữ ký số, điều này cũng dễ hiểu như trong thương mại truyền thống, không thể có các giao dịch lớn nếu hai bên không có con dấu, chữ ký và các phương tiện đảm bảo và hỗ trợ việc ký kết các hợp đồng có giá trị lớn.

Tuy nhiên, việc phát triển dịch vụ chứng thực điện tử ở Việt Nam cần phải được tiến hành sao cho phù hợp với điều kiện kinh tế, trình độ của cơ quan quản lý, và người sử dụng hiện nay, đảm bảo tính khả thi và đem lại hiệu quả thiết thực góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế.

Ở Việt nam, nhu cầu về dịch vụ chứng thực chữ ký điện tử đã xuất hiện trong nhiều lĩnh vực như thanh toán điện tử đối với các ngành ngân hàng, hải quan điện tử, thuế điện tử, cấp phép điện tử cho các hoạt động đầu tư, thương mại. Có thể thấy điển hình tại một số hoạt động như sau:

(i) Đáp ứng yêu cầu về an toàn cho các giao dịch tài chính, ngân hàng điện tử

Thanh toán điện tử tại Việt Nam đang trong giai đoạn thử nghiệm ứng dụng, được sự hỗ trợ của Ngân hàng thế giới với dự án “Hiện đại hóa ngân hàng và các hệ thống thanh toán” đã khởi động từ tháng 5/1994, bắt đầu thực hiện từ năm 1997 và hoàn thành giai đoạn I vào cuối năm 2003. Năm 2004 dự án này tiếp tục được triển khai tại một số ngân hàng thương mại. Đến năm 2007 một số ngân hàng đã cung cấp dịch vụ thanh toán trực tuyến qua Internet cho một số doanh nghiệp điển hình như Pacific Airlines, 123mua.com,... Các thử nghiệm ban đầu tạo cơ sở cho Ngân hàng nhà nước ban hành một số văn bản thừa nhận chứng từ điện tử và chữ ký điện tử áp dụng cho một số nghiệp vụ thanh toán nội bộ hệ thống ngân hàng.

Trước 2007, một số ngân hàng đã tự triển khai dịch vụ thanh toán điện tử cho khách hàng như Ngân hàng ngoại thương, Ngân hàng công thương. Những ngân hàng này tự xây dựng quy chế hoạt động cho cung ứng dịch vụ thanh toán điện tử, thường có điều khoản giới hạn trách nhiệm của mình khi tranh chấp xảy ra, vì vậy chưa tạo được niềm tin cho người sử dụng. Sau khi Chính phủ ban hành các nghị định 26/2007/NĐ-CP ngày 23/2/2007 về Giao dịch điện tử trong hoạt động tài chính, số lượng giao dịch điện tử đã tăng lên nhanh chóng. Điển hình là Ngân hàng ACB cung cấp dịch vụ Homebanking (eBanking) qua website www.acb.com.vn, người sử dụng dịch vụ có thể thông qua website để thực hiện các tiện ích như chuyển khoản, thanh toán hóa đơn, chuyển tiền hoặc xem số dư tài khoản. Khách hàng sử dụng dịch vụ thanh toán trực tuyến của ACB chủ yếu do tin tưởng vào uy tín của ngân hàng và sẽ dựa vào các thông tin hướng dẫn và cam kết bảo mật trên website.

Tuy nhiên, xét về mặt an toàn đối với các giao dịch ngân hàng điện tử, các bên tham gia chưa thể yên tâm về tính bảo mật cũng như xác thực đối tác đang giao dịch điện tử vì thiếu công cụ cơ bản và quan trọng đó là chữ ký điện tử. Công cụ phổ biến nhất đang được sử dụng hiện nay vẫn là mật khẩu (PIN), một công cụ được xếp hạng rất thấp về tính bảo mật.

Thanh toán điện tử là lĩnh vực có sự tham gia của nhiều chủ thể kinh tế bên cạnh các tổ chức tín dụng. Thanh toán điện tử đòi hỏi sự công nhận về mặt pháp lý của chữ ký điện tử cùng với sự phát triển của dịch vụ chứng thực điện tử. Khi sử dụng dịch vụ chứng thực điện tử, thông tin được truyền tải sẽ đảm bảo tính toàn vẹn và tính xác thực.

Chỉ khi sử dụng chữ ký số và công nghệ mã hóa của chữ ký số, các bên tham gia dịch vụ thanh toán trực tuyến qua Internet mới có thể yên tâm thực hiện các giao dịch qua Internet. Đặc biệ trong bối cảnh công nghệ hiện nay, việc sử dụng dịch vụ chứng thực điện tử đối với thanh toán điện tử là rất cần thiết khi số tội phạm ăn cắp thẻ tín dụng ngày một gia tăng. Với sự trợ giúp của dịch vụ chứng thực điện tử, thông tin cá nhân của khách hàng cùng với số thẻ tín dụng sẽ được an toàn hơn do đã được mã hóa khi gửi đi đảm bảo an toàn trong quá trình giao dịch.



(ii) Chữ ký điện tử giúp đẩy mạnh quá trình triển khai Hải quan điện tử

Luật Hải quan ban hành ngày 29/6/2001 đã có một số qui định về dịch vụ hải quan điện tử, cụ thể khoản 3, Điều 20 quy định: “Người khai hải quan được sử dụng hình thức khai điện tử…”; Điều 39 khuyến khích các hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa bằng phương thức thương mại điện tử.

Nghị định 101/2001/NĐ-CP ngày 31/6/2001 quy định chi tiết thi hành một số điều khoản của luật Hải quan về thủ tục Hải quan, chế độ kiểm tra, giám sát hải quan cũng khuyến khích, tạo điều kiện để triển khai các dịch vụ hải quan điện tử. Cụ thể, Điều 7.4.d quy định: “Người khai hải quan được khai hải quan bằng cách khai trên máy tính của mình được nối mạng máy tính với cơ quan hải quan theo quy định của pháp luật…”. Ngoài ra, Nghị định cũng cho phép chủ hàng nộp hợp đồng mua bán hoặc các giấy tờ có giá trị pháp lý tương đương hợp đồng khi khai báo hải quan, nhưng với điều kiện người đứng đầu doanh nghiệp hoặc người đại diện hợp pháp phải xác nhận, ký tên đóng dấu trên các giấy tờ này. Những giấy tờ nói trên có thể là các bản chào hàng, đặt hàng, chấp nhận hàng... được gửi qua fax, email… Điều này cho thấy, chính phủ khuyến khích doanh nghiệp tiến hành giao dịch điện tử và sử dụng dịch vụ hải quan điện tử.

Tổng cục Hải quan đã ban hành công văn số 2236/TCHQ-CNTT ngày 19/5/2003 hướng dẫn chi tiết khai báo bằng phương tiện điện tử trong khâu đăng ký hồ sơ hải quan. Công văn hướng dẫn chi tiết các cục Hải quan thực hiện khai điện tử, lựa chọn phương án thích hợp và mở rộng khai điện tử cho các loại hình.

Từ đầu năm 2002, Tổng cục Hải quan đã áp dụng thí điểm khai hải quan điện tử đối với loại hình gia công xuất nhập khẩu tại 5 cục Hải quan: TP. Hồ Chí Minh, Hà Nội, Hải Phòng, Đồng Nai, Bình Dương với 3 hình thức: truyền số liệu qua mạng điện thoại tới máy tính của Hải quan; chuyển dữ liệu khai báo qua đĩa mềm; khai báo tại máy tính của cơ quan Hải quan (đối với đơn vị có điều kiện về mặt bằng và trang thiết bị). Tính tới thời điểm tháng 10/2004, phương thức khai hải quan điện tử vẫn chưa mở rộng và thu hút được đông đảo các doanh nghiệp tham gia, cả nước mới chỉ có 38 doanh nghiệp đăng ký khai báo hải quan điện tử nối mạng, với số lượng tờ khai chưa đến 50.000 tờ. Đến nay, số doanh nghiệp áp dụng hình thức khai hải quan điện tử trên cả nước đạt khoảng 500 doanh nghiệp đã thông quan điện tử.

Trong hội thảo về khai hải quan điện tử tháng 10/2004 do Cục công nghệ thông tin và thống kê hải quan tổ chức, nhiều ý kiến cho rằng lý do dẫn tới việc kê khai hải quan điện tử chưa thể phát triển vì chưa có một cơ sở pháp lý đầy đủ cho hoạt động giao dịch điện tử như những quy định pháp lý về dữ liệu điện tử, chữ ký, chứng từ điện tử… Đặc biệt chưa có chữ ký số và dịch vụ chứng thực chữ ký số để đảm bảo an toàn cho các hoạt động này.

Rõ ràng, các doanh nghiệp khi sử dụng dịch vụ hải quan điện tử vẫn chưa thực sự an tâm vì không có công cụ ràng buộc trách nhiệm các bên và đảm bảo tính bí mật của các giao dịch điện tử này. Đồng thời, hải quan cũng chưa có công cụ để xác định chính xác và bảo mật thông tin khai báo, cũng như xác thực chủ thể đang tiến hành khai hải quan điện tử vì không có công cụ điện tử nào tương đương về chức năng như con dấu, chữ ký như trong thương mại truyền thống. Điều này sẽ có thể được giải quyết triệt để với sự tham gia của cơ quan chứng thực chữ ký điện tử.

(iii) Chữ ký điện tử giúp triển khai hệ thống quản lý và cấp chứng nhận xuất xứ điện tử (eCoSys)

Cùng với việc triển khai hệ thống truyền visa dệt may điện tử (ELVIS), trong hai năm 2006-2007, Bộ thương mại (nay là Bộ Công Thương) đã tích cực triển khai xây dựng hệ thống cấp chứng nhận xuất xứ điện tử eCoSys như một trong các dịch vụ công điện tử đầu tiên của ngành thương mại.

Giai đoạn 1 của eCoSys chủ yếu tập trung vào công tác quản lý các số liệu C/O do các tổ chức cấp C/O trên cả nước cấp. Các tổ chức cấp C/O khi tham gia eCoSys không phải cài đặt phần mềm riêng mà sử dụng ngay phần mềm do Bộ thương mại xây dựng dựa trên công nghệ web. Đối với C/O do các phòng quản lý xuất nhập khẩu cấp, các phòng có thể cập nhật dữ liệu trực tuyến trên hệ thống eCoSys tại địa chỉ http://ecosys.mot.gov.vn. Đến cuối năm 2007, Bộ Công Thương đã thu thập được thông tin của khoảng 700.000 bộ C/O trên phạm vi cả nước.

Giai đoạn 2 của eCosys bắt đầu triển khai từ tháng 7/2006 và hệ thống cấp chứng nhận xuất xứ điện tử eCoSys đã được chính thức khai trương vào ngày 27/11/2007. Để triển khai hoạt động này đến mọi doanh nghiệp xuất nhập khẩu, các doanh nghiệp phải có máy tính kết nối Internet và trang bị thiết bị đọc thẻ kết nối với hệ thống chứng thực điện tử của Bộ thương mại (trước đây là MOT-CA nay là MOIT-CA). Đồng thời, doanh nghiệp phải đáp ứng các yêu cầu tại Quyết định số 018/2007/QĐ-BTM ngày 30/7/2007 của Bộ thương mại. (Nguồn: Báo cáo Thương mại điện tử Việt Nam, 2007)

(iv) Giá trị pháp lý của chứng từ điện tử trong các giao dịch tài chính, ngân hàng

Tại Việt Nam hiện nay, cùng với sự phát triển của thương mại điện tử, chứng từ điện tử đang trở nên khá phổ biến trong giao dịch giữa các đối tác kinh doanh đặc biệt ở những bước tiến tới giao kết hợp đồng điện tử. Về mặt pháp lý, các giao dịch điện tử, Nghị định TMĐT, Nghị định về giao dịch điện tử trong hoạt động tài chính đã cung cấp đủ cơ sở để doanh nghiệp có thể sử dụng chứng từ điện tử trong các giao dịch thương mại nói chung.

Tuy nhiên, cần có những biện pháp kỹ thuật để đảm bảo giá trị pháp lý của chứng từ điện tử trong trường hợp xảy ra tranh chấp.

Theo quy định tại Điều 3, Nghị định về Giao dịch điện tử trong hoạt động tài chính, “chứng từ điện tử là thông tin được tạo ra, gửi đi, nhận và lưu trữ bằng phương tiện điện tử trong hoạt động tài chính. Chứng từ điện tử là một hình thức của thông điệp dữ liệu, bao gồm chứng từ kế toán điện tử, chứng từ thu, chi ngân sách điện tử; thông tin khai và thực hiện thủ tục hải quan điện tử, thông tin khai và thực hiện thủ tục thuế điện tử, chứng từ giao dịch chứng khoán điện tử, báo cáo tài chính điện tử, báo cáo quyết toán điện tử và các loại chứng từ điện tử khác phù hợp với từng loại giao dịch theo quy định của pháp luật.” Điều 5, khoản 3 của Nghị định này cũng quy định điều kiện để chứng từ điện tử có giá trị pháp lý là “Chứng từ điện tử phải có đủ chữ ký điện tử của những người có trách nhiệm ký chứng từ”. Điều này cho thấy sự cần thiết của dịch vụ chứng thực chữ ký điện tử đối với các hoạt động trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng điện tử.



Каталог: books -> kinh-doanh-tiep-thi
kinh-doanh-tiep-thi -> CHƯƠng tổng quan môn học quản trị logistics kinh doanh 1Logistics trong nền kinh tế hiện đại
kinh-doanh-tiep-thi -> BÀi giảng quản trị chiến lưỢC Đối tượng: hssv trình độ Đại học, Cao đẳng, tccn ngành đào tạo: Quản trị Kinh doanh
kinh-doanh-tiep-thi -> Ứng dụng mô HÌnh 5 Áp lực cạnh tranh của michael porter trong kinh doanh siêu thị trêN ĐỊa bàn thành phố ĐÀ NẴNG
kinh-doanh-tiep-thi -> Có đáp án Trong quá trình sản xuất dịch vụ các yếu tố nào là đầu vào ngoại trừ
kinh-doanh-tiep-thi -> MỤc lục hình 3 MỤc lục bảng 3
kinh-doanh-tiep-thi -> Giới thiệu công ty: Lịch sử hình thành và phát triển
kinh-doanh-tiep-thi -> ĐẠi học duy tân khoa Ngoại ngữ Bài giảng ĐẠO ĐỨc nghề nghiệP
kinh-doanh-tiep-thi -> Khoa kinh tế du lịch giáo trình quản trị HỌC
kinh-doanh-tiep-thi -> TRƯỜng đẠi học kinh tế VÀ quản trị kinh doanh
kinh-doanh-tiep-thi -> Tài liệu – Nghệ thuật lãnh đạo Th. S vương Vĩnh Hiệp nghệ thuật lãnh đẠO

tải về 6.11 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   14   15   16   17   18   19   20   21   ...   56




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương