GIỚi thiệu sơ LƯỢc về australia



tải về 0.63 Mb.
trang22/23
Chuyển đổi dữ liệu15.05.2018
Kích0.63 Mb.
#38410
1   ...   15   16   17   18   19   20   21   22   23

Giày dép

Có khoảng 250 nhà máy sản xuất giày dép ở Australia, tuyển dụng 5.500 nhân công. Trong nhiều năm qua, Australia đã không sản xuất các mặt hàng giày dép và phụ kiện cần có một lực lượng lao động quy mô lớn. Tuy nhiên, các nhà sản xuất giày dép ở Australia vẫn giữ được khả năng cạnh tranh bằng việc tập trung nhập khẩu phụ kiện lắp ráp và phát triển sản phẩm nhằm hấp dẫn người tiêu dùng Australia.


Các hãng sản xuất giày dép nhỏ hơn chủ yếu phục vụ cho phân đoạn thị trường của các mặt hàng đặc biệt hay các thị trường ngách như đồ để chơi golf hay giày múa bale. Ngành công nghiệp địa phương vẫn giữ được thế mạnh trong lĩnh vực sản xuất giày dép, đáp ứng tiêu chuẩn an toàn công nghiệp cao. Các trung tâm sản xuất giày dép chủ yếu tập trung quanh Melbourne, Sydney và các trung tâm khu vực chính như Townsville, bờ biển Bắc New South Wales, bờ Nam Queensland, vùng Tasmania và Perth. Ở Australia, sản xuất giày thể thao không nhiều.

Tổng kim ngạch nhập khẩu giày dép năm 2003 của Australia là 917 triệu A$ tính theo giá FOB, tăng hơn so với 384 triệu A$ trong năm 1990/1991. Các sản phẩm nhập khẩu chủ yếu là giày da và sau đó là giày thể thao.

Nguồn cung cấp chính trong lĩnh vực này là Trung Quốc (61,8%), tiếp sau là Italia, Việt Nam, Indonesia, Hong Kong và Ấn Độ. Các nước đang phát triển cung cấp khoảng 746 triệu A$ kim ngạch nhập khẩu giày dép của Australia trong năm 2003, đạt 81% trong tổng kim ngạch nhập khẩu mặt hàng này của Australia.

Các nhà cung cấp mới ở nước ngoài đối với mặt hàng giày dép sẽ thấy rất khó thâm nhập trị trường Australia. Đối với mặt hàng giày da cho phụ nữ, người tiêu dùng Australia thích dùng giày Italia vì hợp thời trang và có chất lượng tương đối. Đối với mặt hàng giày da co nam giới, đa số hàng nhập khẩu thuộc loại rẻ tiền hơn và giày Trung Quốc có giá cả cạnh tranh và chất lượng tương đối tốt. Giày d dành cho nam giới của Italia và giày thông dụng được chú ý bởi hợp thời trang và có chất lượng tốt.

Thị trường giầy thể thao bao gồm các sản phẩm giá rẻ nhập khẩu từ Trung Quốc và Indonesia. Các loại giày chạy bộ và giày tập aerobic có thương hiệu và giá đắt hơn được nhập khẩu từ các nhà sản xuất nước ngoài có thỏa thuận thông qua các văn phòng của những công ty như Nike và Puma đóng trụ sở tại Australia.

Số lượng đặt hàng của các nhà nhập khẩu và bán lẻ Australia yêu cầu thường không lớn nếu so với mức tiêu chuẩn quốc tế, đặc biệt là ở phân đoạn thị trường dành cho mặt hàng giá cao. Đơn đặt hàng thông thường đối với giày thể thao là 10.000 đôi với ba màu.

Triển vọng tốt nhất đối với các nhà cung cấp nước ngoài là phân đoạn thị trường dành cho sản phẩm giá rẻ, Ở phân đoạn thị trường này, việc chào mức giá rẻ hơn so với giá của đối tác Trung Quốc sẽ là một khó khăn lớn. Do vậy, nên chào hàng với số lượng linh hoạt, vận chuyển nhanh và chất lượng tuyệt hảo để cạnh tranh.

Triển vọng cung cấp phụ kiện giày dép cho các nhà sản xuất giày dép ở Australia cũng khá lớn. Thuế nhập khẩu các loại phụ kiện này tương đối thấp và các nhà sản xuất Australia ngày càng quan tâm hơn đến việc tìm nguồn cung cấp mũi giày từ các nhà cung cấp có khả năng cạnh tranh của nước ngoài.

Triển vọng cung cấp các sản phẩm giày dép an toàn cho thị trường Australia tương đối hạn chế. Tiêu chuẩn quy định đối với những mặt hàng giày dép loại này của Australia rất nghiêm ngặt và hầu hết các nước đang phát triển không đủ năng lực đáp ứng.

Chỉ, sợi và các sản phẩm dệt

Ngành công nghiệp dệt Australia bao gồm các công ty hoạt động trong lĩnh vực chuyển các nguyên liệu thô (len, cotton và sợi dệt nhân tạo) sang dạng chỉ, sợi, vải và các loại mặt hàng dệt khác. Nó bao gồm các công đoạn liên quan đến nhuộm, hồ vải cũng như sản xuất các mặt hàng dệt không phải là hàng may mặc. Có khoảng 1.200 công ty dệt ở Australia, tuyển dụng 23.000 nhân công. Việc sản xuất vải sợi nhân tạo đã trở thành công đoạn quan trọng của ngành dệt trong những năm 1998-1999, bên cạnh các loại vải trải sàn, vải dành cho quần áo may sẵn, vải cotton, len vụn và các sản phẩm dệt khác.

Kim ngạch nhập khẩu, sợi, vải dệt và hàng dệt trang trí của Australia năm 2003 là 1,167tỷ A$. Các mặt hàng nhập khẩu chính là chỉ, sợi, vải dệt nhân tạo và vải cotton dệt tay. Đối với mặt hàng chỉ, sợi, các nhà cung cấp nước ngoài hàng đầu là Trung Quốc, New Zealand, Indonesia và Ấn Độ. Đối với các loại vải sợi đặc biệt, các nhà cung cấp chính là Mỹ, tiếp theo là Hàn Quốc, Đức, Trung Quốc và Thái Lan. Hàng dệt may của Ấn Độ, Fiji, Pakistan và Mỹ là những nhà cung cấp chủ yếu. Các nhà cung cấp mới ở nước ngoài có nhiều cơ hội tốt để cung cấp chỉ, sợi và vải dệt cho Australia. Ngành công nghiệp dệt trong nước của Australia tương đối nhỏ và thị trường này thường nhập khẩu phần lớn các loại nguyên liệu phục vụ nhu cầu.

Mặt khác, thị trường này có tính cạnh tranh rất lớn. Một số lượng lớn các nhà cung cấp giá thấp nước ngoài sẵn sang chào giá thấp cho thị trường Australia và các nhà nhập khẩu thường gộp các đơn đặt hàng của họ vào các đơn đặt hàng lớn hơn cho thị trường Bắc Mỹ hay EU. Mức giá mà nhà cung cấp nước ngoài có thể thu được ở thị trường Australia nhìn chung là thấp hơn từ 10-15% so với ở Hoa Kỳ. Một yếu tố quan trọng khác về thị trường Australia là số lượng đặt hàng thấp, đặc biệt đối với mặt hàng vải sợi. Nhiều nhà nhập khẩu chỉ đặt mua 3000m với ba kiểu màu. Các nhà cung cấp mới ở nước ngoài có khả năng cung cấp vải vóc chất lượng tốt với giá cả cạnh tranh có thể phát triển kinh doanh ở Australia, nhưng phải bắt đầu với những lượng đặt hàng thấp, chất lượng ổn định được tính theo cơ sở giá FOB có tính cạnh tranh so với các nhà cung cấp khác như Trung Quốc và Indonesia.

Những triển vọng cho các nhà cung cấp nước ngoài trên thị trường vải dệt gia dụng như sau:

Chăn, ga, gối, vỏ bọc đệm may sẵn: có sự cạnh tranh mạnh mẽ của ngành công nghiệp Australia tại phân đoạn thị trường có mức giá cao. Triển vọng kinh doanh đối với nhà cung cấp nước ngoài tập trung ở phân đoạn thị trường có mức giá thấp.

Ga trải giường: có triển vọng lớn ở tất cả các lĩnh vực thị trường, mặc dù Australia là một thị trường rất nhỏ. Hầu hết các yêu cầu đặt hàng của Australia được đáp ứng từ nguồn cung cấp giá rẻ như Trung Quốc nên sự cạnh tranh là rất lớn.

Vỏ bọc đồ dùng và bọc đệm: Đối với vải lụa trơn dùng làm vỏ bọc, tiềm năng tương đối nhỏ nhưng loại vỏ bọc bằng lụa được dệt thô thì tiềm năng đang tăng lên đáng kể. Triển vong đối với loại vải bọc dệt bằng tay tương đối nhỏ nhưng triển vọng đối với vỏ bọc bằng vải polycotton có in họa tiết khá cao.



Đồ nội thất

Ngành công nghiệp nội thất Australia được chia thành nhiều phân đoạn. Trong lĩnh vực đồ gỗ/ vải bọc gỗ, có khoảng 4000 công ty, 90% trong số đó chỉ tuyển dụng dưới 20 nhân công. Một số công ty của Australia chuyên thầu phụ cho các nhà sản xuất lớn.

Ngành công nghiệp nội thất ở Australia phân bổ rải rác ở tất cả các bang và khu vực lãnh thổ. New South Wales chiếm 32% tổng doanh thu và Victoria chiếm 31%. Các nhà sản xuất có khuynh hướng đặt trụ sở ở các khu công nghiệp tại các thành phố chính, đặc biệt là ở vùng ngoại ô và một số ở các trung tâm khu vực lớn. Trong các năm từ 1998-1999, ngành công nghiệp nội thất Australia đã đạt doanh thu là 7,8 tỷ A$ và tạo công ăn việc làm cho khoảng 70000 người.

Do chi phí vận chuyển ở Australia cao nên phần lớn các nhà sản xuất tập trung các chương trình bán hàng và hệ thống phân phối của họ trong khu vực hay thành phố nơi họ đặt trụ sở.

Có dưới 10 nhà máy sản xuất theo quy mô lớn phân phối các sản phẩm nội thất mang nhãn hiệu của họ trên toàn quốc. Ngành nội thất Australia không định hướng xuất khẩu và đang phải đối mặt với hàng loạt thách thức bao gồm sự cạnh tranh toàn cầu đang gia tăng và thị trường đối với các mặt hàng trong ngành này được chia thành rất nhiều phân đoạn.

Tuy nhiên, các nhà sản xuất Australia hầu như vẫn sản xuất các loại đồ nội thất từ nguyên liệu gỗ trong nước, kim loại và nhựa, và một số lượng hạn chế đồ song mây. Một tỷ lệ nhỏ các công ty nội thất của Australia chuyên sản xuất một dòng sản phẩm đặc thù và hầu hết các công ty còn lại sản xuất ít nhất ba loại sản phẩm khác nhau. Do sự cạnh tranh nhập khẩu đang gia tăng, đặc biệt là ở phân đoạn thị trường dành cho sản phẩm giá thấp đã khiến ngày càng nhiều nhà sản xuất trong nước tập trung vào những phân đoạn thị trường có mức giá trung bình và cao.



Năm 2003, kim ngạch nhập khẩu đồ nội thất và bộ phận tháo rời của đồ nội thất của Australia là 1.515 triệu A$ tính theo giá FOB. Tỷ lệ tăng trưởng theo xu hướng đối với nhập khẩu đồ nội thất trong giai đoạn 5 năm là 14,8%. Các mặt hàng nhập khẩu chính là ghế gỗ, bàn ăn/ bộ bàn ăn bằng gỗ, đồ nội thất bằng kim loại chiếm đa số so với các loại ghế, các bộ bộ phận dành cho ghế và ghế bằng kim loại. Các nhà cung cấp nước ngoài chủ yếu là Trung Quốc, Malaysia, Italia, Indonesia và Mỹ. Indonesia và Philipines là những nhà cung cấp hàng đầu đồ nội thất bằng song mây cho Australia.

Thị trường đồ nội thất Australia từ lâu thường ưa chuộng đồ nội thất bằng gỗ. Tuy nhiên trong những năm trở lại đây, thị trường này đã thay đổi thói quen sử dụng gỗ cứng. Đồ gỗ nội thất được chạm trổ tinh xảo không thông dụng và kiểu trang trí công phu lộng lẫy không được sử dụng ngoại trừ các loại bàn thờ, tràng kỷ, bàn để bên cạnh, và bàn đặt trong phòng ăn mới yêu cầu trang trí them vân gỗ, thớ gỗ để làm đẹp them cho các loại ghế đi kem khác hoặc tạo không gian trong phòng. Đồ nội thất giả cổ khá thông dụng và được nhập khẩu từ nhiều nước.

Cũng như hầu hết các thị trường khác, nhu cầu về đồ nội thất bằng song mây tại thị trường Australia đang có xu hướng chuyển sang các sản phẩm có thiết kế tốt hơn, kết hợp sử dụng gỗ và các phụ kiện kim loại khác. Thị trường đồ ngoại thất cũng có xu hướng chuyển sang các sản phẩm mang phong cách Anh được làm bằng gỗ tếch hay các loại gỗ thích hợp khác.

Các nhà cung cấp đồ nội thất mới ở nước ngoài sẽ thấy rằng các nhà sản xuất Australia rất cạnh tranh ở hầu hết các phân đoạn thị trường.

Một trong những điều làm hạn chế sự mở rộng nhập khẩu, đặc biệt đối với việc nhập khẩu phụ kiện cho sản xuất đồ gỗ là do Ausstralia đã có thời gian nhập khẩu đồ nội thất giá rẻ chất lượng thấp. Các sản phẩm được nhập trong thời gian qua chưa được xử lý hoàn thiện, đánh nhẵn và đánh bóng hợp lý, và kết quả là có chi phí hoàn thiện sản phẩm cao hơn so với chi phí thực hiện ở Australia.

Thông qua phong cách thiết kế, nếu tìm thấy một nhà cung cấp phụ kiện hay sản phẩm giá rẻ có chất lượng ổn định từ nước ngoài thì rất có thể phụ kiện sản phẩm được cung cấp từ Australia, và sau đó những công ty nội thất Australia sẽ sẵn sàng nhập khẩu những mặt hàng này nhiều hơn vào thị trường Australia.



Da và các sản phẩm da

Năm 2003, kim ngạch nhập khẩu của sản phẩm phục vụ du lịch, túi xách tay là 469 triệu A$ tính theo giá FOB. Nhập khẩu các sản phẩm da loại này gồm túi xách tay, cặp da, hộp đựng đồ trang điểm, vali, ví các loại, vv…

Một số lớn các nhà cung cấp đồ da nước ngoài cho Australia bao gồm Trung Quốc, Hong Kong, Pháp, Italia và Ấn Độ. Hầu hết các sản phẩm phục vụ du lịch, cặp da, vv… được làm từ nhựa PVC, PU hay ni long. Thị trường Australia dành cho những mặt hàng da sần tương đối nhỏ. Tuy nhiên, phần lớn các loại ví nam và túi xách làm bằng da chiếm gần 50% thị trường. Các nhà cung cấp da nước ngoài sẽ thấy rằng thị trường Australia về cơ bản yêu cầu hai loại da sau: da chất lượng tốt giá cao, loại không luôn sẵn có ở các xưởng thuộc da địa phương, và các loại da rẻ hơn sử dụng làm vỏ bọc đồ nội thất và sản xuất giày dép. Đối với tất cả các loại da và sản phẩm da, sự cạnh tranh từ các nhà cung cấp nước ngoài hiện tại và các xưởng thuộc da địa phương rất lớn và các nhà cung cấp mới sẽ phải đưa ra mức giá chào cạnh tranh đối với đồ da không bị xước hoặc có in dấu.Các nhà cung cấp nước ngoài mặt hàng cặp da và sản phẩm phục vụ du lịch sẽ thấy thị trường của họ ở Australia tương đối nhỏ.

Có một số nhà sản xuất trong nước sản xuất cặp da và hỗ trợ rất nhiều cho các nhãn hiệu của họ.

Các loại ví da, dây đeo chìa khóa, túi xách tay v.v… có nhiều triển vọng tiêu thụ hơn nhưng sự cạnh tranh đặc biệt là từ các quốc gia như Trung Quốc, Ấn Độ và Thái Lan sẽ rất mạnh mẽ. Để thành công trên thị trường Australia, điều quan trọng là phải đánh bại các mức giá của các nhà cung cấp này và chào những mặt hàng có thiết kế thời trang, hấp dẫn.

Thực phẩm và đồ uống.

Australia là nước sản xuất chủ yếu thực phẩm các loại và có thể tự cung cấp cho nhu cầu tiêu thụ trong nước ở mức độ cao. Tuy nhiên, Australia cũng là nước nhập khẩu chủ yếu các loại thực phẩm đã qua chế biến bao gồm hải sản, rau quả, cà phê, chè, ca cao và gia vị.

Năm 2003, kim ngạch nhập khẩu thực phẩm của Australia đạt trên 5,1 tỷ A$ và kim ngạch nhập khẩu dồ uống và thuốc lá đạt trên 0,960 tỷ A$, trong đó đồ uống có cồn chiếm 0,607 tỷ A$.

Các nước cung cấp chủ yếu cho thị trường Australia mặt hàng thực phẩm chế biến là Ireland, Anh, New Zealand, Hoa Kỳ, Brãin, Pháp, Italia và hàng loạt các quốc gia Châu Âu và Châu Á, đặc biệt là Trung Quốc, Thái Lan, Ấn Độ, Malaysia và Singapore.

Các nước cung cấp chủ yếu đồ uống có cồn cho Australia là Anh, Hoa Kỳ, Pháp, New Zealand, Ireland và Italia.

Các nhà sản xuất đưa ra một khối lượng lớn các yêu cầu của thị trường đối với các mặt hàng thực phẩm chế biến. Mặc dù Australia trồng rất nhiều loại cây nông nghiệp, tuy nhiên, phần lớn cà phê, chè và gia vị được nhập khẩu.

Trong hơn 20 năm qua, khẩu vị người Australia đối với thực phẩm đã có những thay đổi quan trọng. Thực tế hơn 20% người Australia được sinh ra ở nước ngoài. Bởi vậy khẩu vị của họ đối với thực phẩm cũng thay đổi hẳn so với hình thức dùng bữa ăn kiểu Anh truyền thống trong những năm 70. Điều này đã mở ra cơ hội cho các nhà cung cấp nước ngoài với các loại gia vị đặc biệt là thực phẩm Châu Á.

Thị trường Australia đối với thực phẩm chế biến rất phức tạp và đòi hỏi chất lượng rất cao. Các nhà cung cấp nước ngoài không những nên cung cấp hàng hóa có bao gói hấp dẫn mà còn phải tuân thủ các quy định của chính phủ Australia về bao gói và nhãn mác. Australia còn áp dụng các tiêu chuẩn nghiêm ngặt về y tế và kiểm dịch. Các nhà cung cấp nước ngoài phải tính đến những yêu tố này khi dự định xuất khẩu sang thị trường Australia. Các nhà cung cấp mới ở nước ngoài sẽ rất khó thâm nhập thị trường Australia bằng mặt hàng thực phẩm đóng gói bán lẻ.

Ở Australia, đại đa số các mặt hàng được bán với số lượng lớn được sản xuất ở trong nước. Chi phí thâm nhập, các siêu thị lớn cũng là những rào cản cạnh tranh đối với các nhà cung cấp nước ngoài. Tuy nhiên, triển vọng thị trường Australia là khá tốt đối với các nhà cung cấp nước ngoài có khả năng cạnh tranh trong các lĩnh vực sau:


  • Thủy sản: đặc biệt là tôm pandan nguyên con, (lưu ý giá ở Australia thấp hơn nhiều so với ở Nhật Bản);

  • Nước ép IFQ từ quả nhiệt đới: dành cho ngành công nghiệp thực phẩm

  • Cà phê, chè, gia vị: hầu hết được nhập khẩu;

  • Ngô non IQF, hạt dẻ nước, đậu Ha Lan xứ lạnh, champignon, v.v…: mặc dù Australia có một ngành công nghiệp trong nước tương đối lớn nhưng các nhà cung cấp cạnh tranh nước ngoài vẫn sẽ có nhiều cơ hội;

  • Nước mắm và đặc sản của Châu Á; và

  • Thực phẩm nhiệt đới đã qua chế biến: như kem dừa, kẹo trái cây

Các trang web cung cấp thông tin hữu ích về thị trường thực phẩm Australia

Bộ Nông nghiệp, thủy sản và Lâm Nghiệp Australia

Department of Agriculture, Fisheries and Forestry

www.daff.gov.au

Cơ sở Dữ liệu Thông tin Thực phẩm Australia

Food Info Australia

www.daff.gov.au/food.info

Chiến lược của Ngành Thực phẩm Quốc gia Australia

National Food Industry Strategy

www.nfis.com.au

Hội đồng Rau quả và Thực phẩm Australia

Australian Food and Grocery Council

www.afgc.org.au

Cơ quan thực phẩm Australia New Zealand

Australia New Zealand Food Authority

www.foodstandards.gov.au

Cơ quan Kiểm tra và Kiểm dịch của Ausstralia

Australia Quarantine and Inspection Service

www.aqis.gov.au

Cơ quan Quản lý Thủy sản Australia

Australian Fisheries Management Authority

www.afma.gov.au

Hội đồng Ngành Công nghiệp Hải sản Australia

Australian Seafood Industry Council

www.asic.org.au

Công ty Nghiên cứu và Phát triển Thủy sản

Fisheries Research and Development Corporation

www.frdc.com.au

Cục kho học Nông thôn

Bureau of Rural Sciences

www.brs.gov.au

Các trang web cung cấp thông tin hữu ích về thị trường đồ uống Australia

Công ty Rượu vang và Rượu mạnh Australia

Austrlian Wine and Brandy Corporation

www.awbc.com.au

Công ty Nghiên cứu và phát triển Nho và Rượu vang Australia

Australian Grape and Wine Research and Development Corporation

www.gwrdc.com.au

Viện Nghiên cứu Rượu Australia

The Australian Wine Research Institute

www.awri.com.au

Sản phẩm cao su

Australia không sản xuất cao su tự nhiên nhưng có ngành công nghiệp sản xuất các sản phẩm cao su có quy mô tương đối lớn, sản xuất các mặt hàng từ lốp xe cho đến bao cao su. Năm 2003, những sản phẩm cao su nhập khẩu chủ yếu là săm lốp và ống dẫn có kim ngạch đạt 1,154 tỷ A$. Các nhà cung cấp nước ngoài chủ yếu cho sản xuất cao su của Australia là Nhật Bản, Hàn Quốc, Hoa Kỳ, Trung Quốc và Tây Ban Nha. Các nhà cung cấp chủ yếu cao su tự nhiên và cao su tổng hợp là Malaysia, Indonesia, Nhật Bản và Hoa Kỳ.

Triển vọng đối với các nhà cung cấp mới ở những phân đoạn thị trường cao su chính như sau


  • Cao su tự nhiên: số lượng các nhà nhập khẩu/ bán buôn cao su tự nhiên đóng kiện cho các nhà sản xuất rất hạn chế. Lĩnh vực này có triển vọng tốt nhưng các nhà cung cấp mới sẽ cần phải cạnh tranh với Malaysia.

  • Lốp cao su: Hầu hết các nhãn hiệu quốc tế có mặt ở thị trường Australia và sự thành công phụ thuộc vào việc tạo lập nên thương hiệu được thị trường công nhận. Thị trường dành cho sản phẩm sản xuất theo đơn đặt hàng (OEM) được kiểm soát bởi một hay hai công ty; các sản phẩm chất lượng tốt, giá cả cạnh tranh có triển vọng trung bình.

  • Sản phẩm cao su y tế và vệ sinh: có tiềm năng cung cấp ở các thị trường ngách (ví dụ găng phẫu thuật); triển vọng cho bao cao su và găng gia dụng thấp vì thị trường này bị chi phối bởi các nhãn hiệu nổi tiếng ở trong nước.

  • Sản phẩm cao su công nghiệp và khai mỏ: có triển vọng tốt đối với nhiều loại sản phẩm không được sản xuấ ở Australia.

Thị trường Australia có những triển vọng dành cho các nhà cung cấp cao su thô (miễn là có mức tương tự như giá của Malaysia và có chất lượng cao) cũng như sản xuất cao su. Đồng thời, ở Australia cũng có nhiều cơ hội cho các thị trường ngách (ống cao su dùng trong ngành khai mỏ, băng chuyền, ống cao su dành cho hệ thống xả khí trên các động cơ diesel của tàu biển, v.v…) nhưng sự cạnh tranh ở hầu hết các lĩnh vực sản phẩm đều rất mạnh mẽ.

Máy móc thiết bị

Các ngành cơ khí, sản xuất ô tô, chế biến thực phẩm và khai mỏ là những ngành công nghiệp rất phát triển ở Australia và có tính cạnh tranh quốc tế. Tuy nhiên những ngàng này phải phụ thuộc vào máy móc thiết bị chuyên dụng nhập khẩu. Do quy mô thị trường tương đối nhỏ nên việc sản xuất trong nước đối với nhiều loại máy móc chuyên dụng theo yêu cầu của Australia là không khả thi.

Kim ngạch nhập khẩu máy móc thiết bị chủ yếu trong năm 2003 là

Triệu A$ (tính theo giá FOB)

Ô tô chở khách 10.719

Máy vi tính và linh kiện 7075

Máy bay và thiết bị liên quan 4515

Thiết bị viễn thông 4161

Ô tô chở hàng 2897

Phụ tùng ô tô 2249

Máy điện 1832

Thiết bị đo đạc và điều khiển 1883

Động cơ đốt trong 1627

Thiết bị cơ khí dân dụng 1558

Thiết bị nhiệt lạnh 1531

Máy bơm gas 1223

Máy móc chuyên dụng khác 1033

Các nhà sản xuất kim loại và máy móc thông dụng khác của Australia sẽ cạnh tranh mạnh mẽ với các nhà cung cấp mới.

Các nhà cung cấp nước ngoài chủ yếu đối với máy móc thiết bị có kỹ thuật cao là Nhật Bản, Mỹ, Đức, Pháp, Italia, Anh, Thụy Điển, Hàn Quốc, Phần Lan và Đài Loan. Các loại máy văn phòng được nhập chủ yếu từ Trung Quốc, Nhật Bản, Malaysia, Thái Lan và Đức.

Các nhà cung cấp máy vi tính chủ yếu là Trung Quốc, Malaysia, Hoa Kỳ, Singapore và Đài Loan.

Các nhà cung cấp mới ở nước ngoài đối với máy công nghiệp sẽ thấy rằng người sử dụng ở Australia phần lớn quan tâm tới chất lượng, vòng đời của máy móc và khả năng sẵn sàng cung cấp linh kiện thay thế hơn là quan tâm dến giá cả. Một số nhà cung cấp nước ngoài sản phẩm máy móc giá rẻ đã cố gắng thâm nhập thị trường nhưng hiện nay các công ty Australia đã thấy rằng tốt hơn hết là mua hàng theo phương sách giá trị tương xứng với giá cả như một sự đầu tư cho dài hạn.

Ở phân đoạn thị trường máy văn phòng, người tiêu dùng Australia khá trung thành với một số nhãn hiệu mặc dù các bộ phận phần cứng của máy vi tính thuộc dòng”vô tính”cũng đang ngày càng được chấp nhận.

Sự thành công trong lĩnh vực máy móc thiết bị ở thị trường Australia phụ thuộc vào việc xác định các cơ hội thị trường ngạch. Một yếu tố quan trọng của việc cơ cấu lại lĩnh vực công nghiệp của Australia là cải tiến năng suất, giảm số lượng lao động đầu vào nhằm tăng cường đầu tư cho các loại máy móc hiện đại.

Tuy nhiên, các nhà sản xuất thuộc các nước đang phát triển vẫn có những cơ hội cung cấp máy móc thiết bị có giá cả hợp lý cho thị trường Ausstralia. Để làm được điều này, cần thực hiện nghiên cứu, khảo sát thị trường kỹ lưỡng để xác định các cơ hội kinh doanh cụ thể.



Ô tô và phụ tùng

Mặc dù có các hàng ô tô lớn như General Motor, Ford, Mitsubishi và Toyota hoạt động sản xuất ở Australia nhưng nước này vẫn phải nhập khẩu ô tô chở khách với kim ngạch nhập khẩu loại xe này năm 2003 là 10,719 tỷ A$, tăng 11,1%. Các nước cung cấp chính ô tô chở khách cho Australia là Nhật Bản (6,159 tỷ A$), Đức (1,677 tỷ A$), Nam Phi (502,3 triệu A$), Hàn Quốc (501,8 triệu A$) và Mỹ (419,6 triệu A$).

Kim ngạch nhập khẩu ô tô chở hàng năm 2003 của Australia là 2,897 tỷ A$, tăng 5,5% và bị chi phối bởi các nhà cung cấp từ Nhật Bản, Thái Lan và các nguồn cung quan trọng khác như Mỹ, Đức và Braxin.

Kim ngạch nhập khẩu phụ tùng ô tô đạt 2,249 tỷ A$ trong năm 2003 với các nguồn cung cấp chính là Nhật Bản, Mỹ, Đức, Thụy Điển và Đài Loan.



Thiết bị viễn thông

Năm 2003, kim ngạch nhập khẩu thiết bị viễn thông của Australia là 4,161 tỷ A$. Các nguồn cung cấp chính gồm Hàn Quốc (964,8 triệu A$), Hoa Kỳ (616,1 triệu A$), Trung Quốc (578,7 triệu A$), Nhật Bản (230,7 triệu A$) và Thụy Điển (216,6 triệu A$).



Máy vi tính và linh kiện

Kim ngạch nhập khẩu máy vi tính năm 2003 của Australia là 4,84 tỷ A$. Các nguồn cung cấp chủ yếu là Trung Quốc (1.120 triệu A$), Malaysia (720,7 triệu A$), Mỹ (630 triệu A$), Singapore (545 triệu A$) và Đài Loan (477 triệu A$).

Kim ngạch nhập khẩu linh kiện máy vi tính năm 2003 là 2,232 tỷ A$ với các nguồn cung cấp quan trọng là Nhật Bản, Trung Quốc, Mỹ, Singapore và Đài Loan.


Каталог: uploads -> news -> file
file -> ĐẢng cộng sản việt nam
file -> BỘ CÔng thưƠng vụ thị trưỜng châu phi – TÂY Á – nam á
file -> Danh sách doanh nghiệp xnk sản phẩm Giày dép, da, phụ kiện ở Braxin Mã số thuế (cnpj)
file -> Danh sách một số doanh nghiệp xnk dược phẩm – y tế Braxin (07/07/009)
file -> Giới thiệu thị trường algeria vụ châu phi – TÂY Á – nam á BỘ CÔng thưƠng mục lụC
file -> Vụ Thị trường Châu Phi, Tây Á, Nam Á TÀi liệu cơ BẢn cộng hoà djibouti
file -> TÀi liệu tóm tắt cộng hòa djibouti
file -> VỤ thị trưỜng châu phi – TÂY Á – nam á TÀi liệu cơ BẢn nưỚc cộng hòa hồi giáo ap-gha-ni-xtan
file -> Danh sách một số doanh nghiệp xnk săm lốp ôtô, xe, máy Braxin ( 02/06/2009)

tải về 0.63 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   15   16   17   18   19   20   21   22   23




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương