CÔng trình dự thi giải thưỞng “ sinh viên nghiên cứu khoa họC” NĂM 2010 Tên công trình



tải về 0.6 Mb.
trang3/6
Chuyển đổi dữ liệu14.08.2016
Kích0.6 Mb.
#18799
1   2   3   4   5   6

Nguồn: dựa vào Niên giám thống kê tóm tắt - 2009, Tổng cục Thống kê, 2010.
Xét về trình độ người lao động thì số lao động có trình độ chuyên môn thấp, chưa qua đào tạo chiếm phần lớn với 65,2% vào năm 2007, tỉ lệ công nhân kỹ thuật còn thấp (1/5 tổng số lao động đang làm việc). Có nhiều lí do để tin rằng nguồn lao động đông đảo, trẻ tuổi, tay nghề thấp này sẽ gia nhập đội quân lao động giá rẻ chứ không tự đứng ra làm chủ bởi hạn chế trong tiếp cận vốn và khả năng điều hành doanh nghiệp. Tỉ lệ lao động chưa qua đào tạo ở nông thôn cao hơn so với thành thị, phản ánh khả năng tiếp cận các cơ sở giáo dục đào tạo không bình đẳng giữa 2 khu vực và những người di dân từ nông thôn lên thành thị kiếm việc làm thì phần lớn trong số này có trình độ thấp và không cạnh tranh được các vị trí đòi hỏi tay nghề và kỹ năng cao.

Tuy nhiên có thể nhận thấy xu hướng gia tăng số lao động qua đào tạo, lao động chất lượng cao và sự giảm sút lao động không có kỹ năng trong 2 năm thống kê được (xem bảng phía dưới). Những nỗ lực cải thiện chất lượng nguồn nhân lực từ Chính phủ là đáng ghi nhận. Nguồn nhân lực chất lượng cao không chỉ là động lực thúc đẩy quá trình phát triển lâu dài, phá vỡ bẫy thu nhập trung bình mà còn mở ra cho người lao động nhiều cơ hội lựa chọn nghề nghiệp hơn.



Bảng 5 : Tỉ lệ lao động có việc làm phân theo trình độ chuyên môn kỹ thuật phân chia theo khu vực




Chưa qua đào tạo



Sơ cấp, có chứng chỉ nghề

Công nhân kỹ thuật

Trung học chuyên nghiệp

Cao đẳng và đại học trở lên

2006

2007

2006

2007

2006

2007

2006

2007

2006

2007

Cả nước

68.49

65.19

2.16

2.67

19.24

20.07

4.47

5.18

5.65

6.26

Theo khu vực




Thành thị/Urban

42.15

40.42

4.17

4.58

28.58

27.69

8.97

9.80

16.13

17.52

Nông thôn/Rural

77.09

73.33

1.50

2.04

16.19

18.40

2.99

3.66

2.22

2.57

Nguồn: Tổng cục Thống kê, 2010.
Đối với ngành nông nghiệp thì trong khi chiếm số lao động đông đảo nhất thì năng suất lao động ngành này là thấp nhất với trung bình 12,4 triệu đồng/người (2009) nhưng có tốc độ tăng tới 2 lần so với năm 2005. Ngược lại, với các ngành chiếm số lao động ít hơn nhưng có vốn đầu tư/sản xuất cao hơn thì năng suất cao hơn với tốc độ tăng chậm hơn. Trong số đó, hoạt động khoa học và công nghệ có năng suất cao nhất, đạt 395,8 triệu đồng/người, tiếp theo là ngành công nghiệp khai thác mỏ, sản xuất và phân phối điện, kinh doanh và tư vấn bất động sản, tài chính tín dụng. Hầu hết các ngành này đều yêu cầu kỹ năng lao động rất cao, kén lao động có tay nghề và trình độ chuyên môn, đào tạo bài bản và rõ ràng có sự thiếu hụt về cung lao động trong những ngành này. Và khi đối chiếu với thu nhập bình quân, cho dù chỉ ở khu vực Nhà nước, thì thu nhập đối với lao động trong nông nghiệp cũng thuộc hàng thấp, khoảng 2,8 triệu đồng/người/tháng, bằng một nửa lương của lao động trong ngành khai thác mỏ, hay chỉ 1/3 lương trong ngành tài chính tín dụng. Với mức thu nhập thấp và không ổn định bởi tính mùa vụ của nông nghiệp, việc chuyển sang tự kinh doanh có lẽ không phải là quyết định phù hợp cho các đối tượng này mà thay bằng di cư lên thành thị tìm kiếm việc làm thuê.

3.2. DOANH NGHIỆP VIỆT NAM

Theo định nghĩa Luật Doanh nghiệp 2005, “doanh nghiệp” là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định luật pháp nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh. Đối với mọi nền kinh tế, doanh nghiệp luôn được coi là lực lượng chủ công, do vậy việc xây dựng và phát triển doanh nghiệp phải coi là nhiệm vụ hàng đầu. Đối với nước ta đang trong quá trình đổi mới và phát triển, nhiệm vụ này càng có ý nghĩa cấp bách, quyết định thành công trong sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. Thực tiễn cho thấy những doanh nghiệp kinh doanh hiệu quả thường đem lại tốc độ tăng trưởng kinh tế trong phạm vi cả nước, cũng như trong từng địa phương.

Trước 1986, không có khu vực kinh tế tư nhân chính thức tại Việt Nam. Khu vực kinh tế nhà nước, bao gồm cả doanh nghiệp nhà nước (DNNN) hoặc khu vực hợp tác xã đóng vai trò chủ đạo. Các khu vực tự làm việc có tồn tại trong nền kinh tế tuy nhiên kích thước của nó khá nhỏ và không có số liệu thống kê về nó. Đối mặt với sự lan rộng của khủng hoảng kinh tế xã hội, Chính phủ Việt Nam đã đã phải tiến hành một chương trình cải cách kinh tế trong những năm cuối của thập kỷ 1980. Do đó các doanh nghiệp tư nhân trong khu vực kinh tế đã chính thức được thấy “ánh sáng cuối đường hầm” khoảng 20 năm trước đây. Cùng với sự đầu tư trực tiếp nước ngoài, cơ cấu kinh tế nói chung và lao động cơ cấu thị trường nói riêng đã dần dần thay đổi từ đó.

Trong giai đoạn rẽ của quá trình chuyển đổi, khu vực kinh tế nhà nước đặc biệt là doanh nghiệp nhà nước suy giảm mạnh (McCarty, 1999). Tuy nhiên trong những năm gần đây, khu vực này đã phục hồi và đã dần ổn định và ước tính khoảng ít hơn 10% theo số liệu của Tổng cục thống kê (TCTK).



Bảng 6: Tỉ trọng lao động trong nền kinh tế Việt Nam qua các năm:




2000

2001

2002

2003

2004

2005

2006

2007

2008

Tổng số (%)

100

100

100

100

100

100

100

100

100

Kinh tế nhà nước

9,31

9,34

9,49

9,95

9,88

9,50

9,11

9,02

9,07

Kinh tế ngoài nhà nước

89,70

89,49

89,01

88,14

87,83

87,84

87,81

87,44

87,20

Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài

0,99

1,16

1,49

1,91

2,29

2,66

3,08

3,54

3,73

Nguồn: Tổng cục Thống kê, nhiều năm
Có nhiều cách để phân loại doanh nghiệp, nhưng chủ yếu các doanh nghiệp được phân loại và đánh giá theo 3 quan điểm: Thứ nhất, đánh gia xếp loại DN phải gắn với đặc điểm từng ngành và phải tính đến số lượng vốn và lao động được thu hút vào hoạt động sản xuất kinh doanh. Thứ hai, doanh nghiệp được đánh giá theo đặc điểm kinh tế kĩ thuật của ngành tính đến 3 yếu tố vốn, lao động và doanh thu.Thứ ba, dựa vào nghành nghề kinh doanh và số lượng lao động. Việt Nam dựa vào cả 2 tiêu thức: số vốn và số lao động để đánh giá một doanh nghiệp.
Bảng 7 : Số lượng doanh nghiệp phân theo quy mô vốn đến 31/12/2007:

Tổng số

Phân theo quy mô vốn

Dưới 0,5 tỷ đồng

Từ 0,5 đến dưới 1 tỷ đồng

Từ 1 đến dưới 5 tỷ đồng

Từ 5 đến dưới 10 tỷ đồng

Từ 10 đến dưới 50 tỷ đồng

Từ 50 đến dưới 200 tỷ đồng

Từ 200 đến dưới 500 tỷ đồng

Từ 500 tỷ đồng trở lên

155771

18646

23631

72342

17269

16353

5286

1355

889

Nguồn: Tổng cục Thống kê, Niên giám thống kê, 2008
Bảng 8: Số lượng doanh nghiệp phân theo quy mô lao động đến 31/12/2007:

Tổng số

Phân theo quy mô lao động

Dưới 5 người

5 - 9 người

10-49 người

50-199 người

200-299 người

300-499 người

500-999 người

1000-4999 người

5000 người trở lên

155771

34856

51041

50588

13333

1962

1694

1283

928

86

Nguồn: Tổng cục Thống kê, Niên giám thống kê, 2008
Bảng 9: Số doanh nghiệp hoạt động kinh doanh sản xuất tại thời điểm 31/12 hàng năm:




2000

2001

2002

2003

2004

2005

2006

2007




42288

51680

62908

72012

91756

112950

131318

155771

Thay đổi (%)




22.21

21.73

14.47

27.42

23.09

16.26

18.62

Nguồn: tính toán từ số liệu của Tổng cục Thống kê, Niên giám thống kê, 2008
Từ số liệu của Tổng cục Thống kê, dễ dàng nhận thấy rằng số lượng doanh nghiệp ngày càng tăng với tốc độ hai con số. Quá trình đổi mới và sự tác động của nền kinh tế thị trường đã khiến khu vực tư nhân (chủ yếu là các doanh nghiệp) bùng nổ mạnh mẽ. Tuy nhiên, đa số vẫn là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Số doanh nghiệp có vốn từ 0.5 tỷ đồng đến 5 tỷ chiếm tỷ trọng lớn (61,61% ); tương tự đối với các doanh nghiệp có số lao động từ 5 đến 49 người, chiếm 101629 trên tổng số 155771 doanh nghiệp (hay 65,24%). Số lượng doanh nghiệp có vốn và lao động ít chiếm phần lớn thể hiện sự nhỏ lẻ của nền kinh tế Việt Nam, tuy nhiên đó có thể là môi trường có ảnh hưởng tích cực đến sự lựa chọn tự làm chủ của cá nhân.

Quá trình đổi mới đất nước diễn ra chỉ mới hơn 20 năm, cộng với định hướng phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa đem đến những đặc trưng cơ bản cho doanh nghiệp Việt Nam

- Về hình thức sở hữu: bao gồm sở hữu Nhà nước, tập thể, tư nhân và hỗn hợp.

- Hình thức pháp lý: Các DN được hình thành theo luật doanh nghiệp và những văn bản dưới luật . Đây là những công cụ pháp lý xác định tư cách pháp nhân rất quan trọng để điều chỉnh hành vi các doanh nghiệp nói chung trong đó có các DN, đồng thời xác định vai trò của Nhà nước đối với doanh nghiệp trong nền kinh tế.

- Lĩnh vực và địa bàn hoạt động: DN chủ yếu phát triển ở nghành dịch vụ,thương mại(buôn bán).Ở lĩnh vực sản xuất chế biến và giao thông (tập trung ở 3 ngành: Xây dựng, công nghiệp,nông lâm nghiệp, thương mại ,dịch vụ) địa bàn hoạt động chủ yếu ở các thị trấn thị tứ và đô thị.

- Công nghệ và thị trường: khả năng tài chính thấp nên các doanh nghiệp Việt Nam thường là sử dụng những công nghệ lạc hậu, đặc biệt có những nơi doanh nghiệp sử dụng công nghệ lạc hậu đến hàng thập kỷ để sản xuất. Do đó, thị trường chủ yếu là trong nước, tuy nhiên cũng có một số doanh nghiệp thuộc các ngành khai thác khoáng sản, các doanh nghiệp chế biến nông lâm thủy sản có những mặt hàng giá trị xuất khẩu cao.

- Trình độ tổ chức quản lý: trình độ tổ chức quản lý và tay nghề của người lao động còn thấp, các doanh nghiệp hầu hết hoạt động độc lập và chưa tạo được sự liên kết.

Dù còn nhiều hạn chế về vốn và trình độ quản lý sản xuất, nhưng không thể phủ nhận đóng góp to lớn của các doanh nghiệp (cả tư nhân và nhà nước) vào sự phát triến kinh tế của Việt Nam. Phát triển kinh tế tư nhân làm giảm đáng kể tỷ lệ thất nghiệp (hấp thụ đến 85% số lao động trong độ tuổi), đóng góp cho Nhà Nước khoản thuế lớn, đóng góp lớn vào GDP.


Bảng 10: Đóng góp vào GDP (tính theo %) của các khu vực:

Năm

2000

2001

2002

2003

2004

2005

2006

2007

2008

Khu vực Nhà Nước

38,52

38,40

38,38

39,08

39,10

38,40

37,39

35,93

34,35

Khu vực ngoài Nhà nước

48,20

47,84

47,86

46,45

45,77

45,61

45,63

46,11

46,97

Khu vực FDI

13,28

13,76

13,76

14,47

15,13

15,99

16,98

17,96

18,68

Nguồn: Tổng cục Thống kê, Niên giám thống kê, 2008.
Ở đây, dường như tỷ trọng đóng góp vào GDP của khu vực nhà nước có lúc tăng, có lúc giảm qua các năm. Xét trên cả chuỗi thời gian thì xu thế này mức đóng góp này giảm xuống. Năm 2000 khu vực nhà nước đóng góp 38,52% nhưng đến năm 2008 lại chỉ còn 34,35% giảm 12,14%. Tình hình tương tự với khu vực ngoài nhà nước. Trong khi đó khu vực có vốn đầu tư nước có mức đóng góp vào GDP ngày càng tăng. Điều này có thể thấy được tính hiệu quả trong khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Theo Tổng cục Thống kê, xuất khẩu năm 2008 của các doanh nghiệp trong nước là 27.785,1 triệu USD (44,3 phần trăm tổng xuất khẩu) còn xuất khẩu của các doanh nghiệp FDI (kể cả dầu thô) là 34.900,0 triệu USD. Đáng lưu ý, nếu phân tích chi tiết thì thấy xuất khẩu của các DNNN chủ yếu là xuất tài nguyên và chính chúng gây ra nhập siêu lớn của Việt Nam (số liệu thống kê cho thấy khu vực FDI luôn xuất siêu, trừ 2008 có thâm hụt nhỏ; khu vực tư nhân trong nước có lẽ cân đối được xuất nhập nếu không xuất siêu). Báo cáo giám sát cho rằng năm 2008 các DNNN tạo ra 39,5% giá trị sản xuất công nghiệp, trên 50% kim ngạch xuất khẩu.

Bảng 11: Giá trị sản xuất công nghiệp theo giá thực tế phân theo thành phần kinh tế (theo %):

Năm

2000

2001

2002

2003

2004

2005

2006

2007

Khu vực Nhà nước

34,2

31,4

31,4

29,3

27,4

25,1

22,4

20,0

Khu vực ngoài Nhà nước

24,5

27,0

27,0

27,6

28,9

31,2

33,4

35,4

Khu vực FDI

41,3

41,6

41,6

43,1

43,7

43,7

44,2

44,6


tải về 0.6 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương