CÔng trình dự thi giải thưỞng “ sinh viên nghiên cứu khoa họC” NĂM 2010 Tên công trình



tải về 0.6 Mb.
trang6/6
Chuyển đổi dữ liệu14.08.2016
Kích0.6 Mb.
#18799
1   2   3   4   5   6

Bảng kết quả hồi quy 2

Biến phụ thuộc = 1 nếu cá nhân làm thuê.




Các biến

Hệ số

Độ lệch chuẩn

Thống kê z

Xác suất

GTINH

0.740159

0.150991

4.901991

0.0000

TSNGUOI

-0.070171

0.046172

-1.519784

0.1286

TUOI

0.061108

0.069599

0.877998

0.3799

TUOI2_100

-0.107573

0.078868

-1.363952

0.1726

KINH

2.795209

1.929782

1.448459

0.1475

GOCHOA

2.997969

1.996152

1.501874

0.1331

TAY

2.827507

1.972864

1.433199

0.1518

DTKHAC

3.125216

1.934306

1.615678

0.1062

KOBANGCAP

-0.018459

1.246082

-0.014814

0.9882

TIEUHOC

-0.369444

0.225073

-1.641436

0.1007

THCS

-0.369414

0.225176

-1.640555

0.1009

THPT

0.221240

0.237484

0.931600

0.3515

CAODANG

1.551717

0.575485

2.696365

0.0070

DAIHOC

2.414348

0.372859

6.475232

0.0000

SCNGHE

0.365455

0.214930

1.700339

0.0891

TCNGHE

0.560577

0.257710

2.175221

0.0296

CDNGHE

1.173912

0.735238

1.596642

0.1103

SONHASD

0.079467

0.143198

0.554948

0.5789

LOGTGTNHA

-0.243329

0.059104

-4.116943

0.0000

KINHNGHIEMLV

0.016947

0.007028

2.411353

0.0159

COMANG

-0.266976

0.248886

-1.072685

0.2834

COMAYTINH

0.223773

0.194487

1.150577

0.2499

NUOCMAYSH

0.129250

0.124708

1.036417

0.3000

NGUONDIEN

-0.630938

1.175714

-0.536642

0.5915

COVOCHONG

0.455533

0.300169

1.517589

0.1291

VCLAMTHUE

0.808343

0.323816

2.496308

0.0125

VCLAMNONG

-0.609191

0.332674

-1.831196

0.0671

VCTUDOANH

-0.801665

0.324037

-2.473993

0.0134

VCDANGLAM

-0.381728

0.356420

-1.071007

0.2842

VCCONGCHUC

-0.123092

0.266470

-0.461935

0.6441

VCLAMTHEM

0.537351

0.287955

1.866092

0.0620

VCKHONGBANGCAP

-0.604776

0.936773

-0.645595

0.5185

VCTIEUHOC

-0.085597

0.238210

-0.359336

0.7193

VCTHCS

-0.286070

0.239504

-1.194424

0.2323

VCTHPT

-0.295122

0.262864

-1.122717

0.2616

VCCD

-1.189151

0.491228

-2.420772

0.0155

VCDH

0.023090

0.417426

0.055315

0.9559

4.5.3. Trình độ học vấn

Để đại diện cho trình độ học vấn chúng tôi sử dụng các biến nhị phân, các cấp độ giáo dục (bằng cấp cao nhất) bao gồm: không bằng cấp, tốt nghiệp tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông, cao đẳng, đại học, sau đại học (thạc sỹ, tiến sỹ) và đào tạo nghề bao gồm: sơ cấp nghề, trung cấp nghề và cao đẳng nghề. Tuy nhiên, trong quá trình sử lý biến thạc sỹ và tiến sỹ được đưa ra khỏi mô hình. Việc cá nhân không có bằng cấp, hay đã tôt nghiệp trung học phổ thông, nhận chứng chỉ sơ cấp và cao đẳng nghề không có ý nghĩa trong mô hình phân tích, điều này có thể do hạn chế về số liệu. Do không có bộ số liệu tốt nhất, chuyên biệt hỗ trợ cho công việc nghiên cứu này.

Ở các cấp độ giáo dục thấp hơn như cá nhân không có bằng cấp, đã tốt nghiệp tiểu học hay tốt nghiệp trung học cơ sở có tác động tiêu cực tới xác suất quyết định làm việc trong khu vực làm công ăn lương. Điều này có thể lý giải rằng, việc cá nhân ở một mức độ giáo dục thấp hơn có lẽ trình độ kỹ thuật, nhận thức và quản lý của họ kém, không được đào tạo nên khó khăn trong việc tìm kiếm một việc làm lương với mức thu nhập ổn định (bảng 2). Điều thú vị đó là cá nhân có trình độ giáo dục thấp hơn lại có tác động tích cực đến xác suất quyết định trở thành người tự chủ kinh doanh trong khu vực chính thức, không chính thức và kinh doanh hộ gia đình. Mặc dù, các hệ số của các biến không bằng cấp và tốt nghiệp trung học cơ sở không có ý nghĩa trong mô hình hồi qui: các yếu tố tác động tới xác suất quyết định tự mở doanh nghiệp riêng (bảng 1). Đây là do đặc điểm bộ số liệu được chọn trong bài nghiên cứu. Nhưng dấu của các hệ số này đều mang dấu dương, điều này cũng cho ý nghĩa tương tự. Khó khăn tìm kiếm một việc làm lương với mức thu nhập ổn định thúc đẩy xu hướng cá nhân làm việc ở khu vực phi chính thức. Họ cũng có thể dễ dàng thay đổi công việc của mình do chi phí cơ hội thấp hơn.

Ngược lại, ở trình độ giáo dục cao hơn từ chỗ cá nhân đã trải qua các khóa đào tạo nghề hay học lên cấp cao hơn như cao đẳng, đại học xu hướng họ làm việc trong khu vực việc làm lương (các hệ số đều mang dấu dương, bảng 2). Tác động của việc học lên cấp cao đẳng, đại học là khá mạnh. Do được giáo dục và đào tạo một cách bài bản và có hệ thống, họ có thể làm tốt công việc được đào tạo, chuyên về một nghề hay lĩnh vực nào đó nên dễ dàng hơn trong việc tìm kiếm một công việc phù hợp cho mức thu nhập ổn định. Nhất là khi họ được đào tạo nghề mà các biến đại diện ở đây là sơ cấp nghề, trung cấp nghề và cao đẳng nghề. Mặt khác, học lên các bậc giáo dục cao hơn cùng với công việc cho mức thu nhập cao và ổn định làm cho chi phí cơ hội lớn hơn trong việc đi đến quyết định sở hữu doanh nghiệp cho riêng mình. Cũng có thể với mức thu nhập cao, ổn định họ dễ dàng thỏa mãn các nhu cầu cá nhân nên bằng lòng với công việc mình đang làm hiện tại. Do đó không thúc đẩy họ đi điến quyết định tự làm chủ công việc của mình.



Kết quả cũng phù hợp khi chúng tôi tiến hành hồi qui mô hình đối với khu vực tự làm chủ (bảng 1). Dấu các hệ số của các cá nhân có bằng cấp cao hơn mang dấu âm. Cho thấy rằng, việc học lên cấp cao hơn như cao đẳng hay đại học lại ảnh hưởng tiêu cực đến xác suất quyết định tự chủ kinh doanh của một cá nhân. Điều này cũng có thể lý giải tương tự, việc cá nhân đã tốt nghiệp cao đẳng, đại học hay sau đại học. Mặt khác, trình độ học vấn cao dường như sẽ trợ giúp cho việc tìm được một công việc được trả lương cao và do đó làm giảm khả năng việc đi đến quyết định tự làm chủ doanh nghiệp. Họ là những công nhân có trình độ kỹ thuật cao, kỹ sư, cán bộ kinh tế, chuyên gia,… Với trình độ của họ thật không khó khăn trong việc tìm kiếm một công việc tốt, phù hợp cho riêng mình với mức thu nhập tương đối cao và ổn định. Có một đặc điểm khác biệt đối với Việt Nam là do bối cảnh lịch sử. Khoảng thời gian 20 – 30 năm về trước, nền giáo dục nước ta chưa phát triển, trình độ học vấn của thế hệ đó chưa được cao. Sau đổi mới, cùng với việc trỗi dậy, phát triển mạnh mẽ của khu vực tư nhân họ là những người được trao nhiều cơ hội hơn trong việc quyết định lựa chọn tự chủ kinh doanh và những cá nhân được điều tra thường sống trong khoảng thời gian đó.

CHƯƠNG 5

KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ CHÍNH SÁCH
Bài nghiên cứu của chúng tôi tiến hành phân tích, đánh giá các yếu tố tác động tới quyết định của các cá nhân khi tham gia vào khu vực làm thuê hay tự làm chủ. Trong đó tập trung chủ yếu vào các biến tài chính, giáo dục và gia cảnh của mỗi cá nhân. Các bảng phân tích hồi quy đưa ra cho chúng ta thấy được kết quả tương đồng đối với từng khu vực.

  1. Tóm tắt kết quả nghiên cứu

Tổng kết những kết quả nghiên cứu với việc sử dụng bộ số liệu điều tra mức sống hộ gia đình năm 2008. Có thể thấy rằng: tổng số người trong gia đình không có ý nghĩa trong mô hình xác suất quyết định trở thành người làm thuê nhưng có ý nghĩa trong mô hình tự làm chủ và có tác động tích cực. Việc có vợ hoặc chồng cũng không ảnh hưởng tới quyết định của cá nhân. Nhưng tình trạng nghề nghiệp, loại hình công việc của vợ hoặc chồng lại có ảnh hưởng cụ thể: nếu vợ hoặc chồng là làm thuê thì tác động tích cực đến quyết định làm thuê và làm giảm xác suất quyết định tự làm chủ của cá nhân. Nếu vợ hoặc chồng tự kinh doanh thì sẽ có tác động tích cực, đáng kể và làm tăng xác suất quyết định tự làm chủ. Tác động là ngược lại đối với khu vực làm thuê. Các biến vợ (chồng) đang làm việc tuy không có ý nghĩa thống kê nhưng chúng cho ta thấy sự tác động tiêu cực tới xác suất trở thành người làm thuê. Biến tài chính mà đại diện ở đây là giá trị nhà sở hữu tác động tích cực, đáng kể và làm tăng xác suất trở thành người tự chủ kinh doanh ngược lại với khu vực làm chủ. Trình độ học vấn hay cấp độ giáo dục cao không phải là yếu tố quyết định nhất đối với một cá nhân trong việc đi đến quyết định tự chủ kinh doanh. Với bộ số liệu chúng tôi có, được sử dụng trong bài nghiên cứu này. Trong mô hình phân tích, giáo dục (việc sở hữu bằng cấp cao) xuất hiện như là một yếu tố tác động tiêu cực đến xác suất quyết định tự làm chủ (tự làm thuê cho chính mình) hay việc đi đến quyết định khởi đầu một doanh nghiệp. Ngược lại, trình độ học vấn cao hơn lại tác động mạnh mẽ, tích cực và làm đến xác suất cá nhân làm việc trong khu vực làm công ăn lương.

  1. Khuyến nghị chính sách

Dựa trên kết quả nghiên cứu và phân tích thực nghiệm, chúng tôi đề xuất một vài khuyến nghị sau:

  • Tiềm lực tài chính của cá nhân có tác động mạnh tới quyết định tự làm chủ (làm thuê cho chính mình) hay ban đầu thành lập một doanh nghiệp. Do đó để hỗ trợ cũng như khuyến khích cá nhân đi đến quyết định sở hữu doanh nghiệp cho riêng mình cần quy định rõ quyền sở hữu tài sản. Thúc đẩy, khuyến khích khu vực tư nhân phát triển. Tạo môi trường kinh doanh thuận lợi, hạn chế dào cản việc gia nhập thị trường. Việc tiếp cận các nguồn lực tài chính là rất quan trọng đối với các cá nhân khi ban đầu quyết định khởi động một doanh nghiệp. Do vậy, cần phát triển các công cụ tài chính, quĩ tài chính riêng hỗ trợ cá nhân khi họ có ý tưởng tốt thành lập doanh nghiệp,… tạo điều kiện thuận lợi hơn cho họ tiếp cận nguồn tín dụng.

  • Giáo dục, định hướng nghề nghiệp cho học sinh ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường. Đặc biệt là học sinh cấp tiểu học và trung học cơ sở. Từ đó, học sinh có thể định hướng rõ cơ hội nghề nghiệp trang bị tốt kiến thức và kỹ năng cho con đường lập nghiệp của mình. Cung cấp cho cá nhân thông tin về các yếu tố tác động tới hành vi lựa chọn nghề nghiệp, từ đó cá nhân có thể định hướng tốt hơn nghề nghiệp trong tương lai. Kết quả cho thấy rằng, việc học lên cấp cao hơn cao đẳng, đại học có tác động mạnh tới xác suất lựa chọn trở thành người làm thuê. Hàm ý giáo dục cao đẳng – đại học ở Việt Nam chưa thực sự phù hợp. Vì nếu so sánh với những nghiên cứu khi họ sử dụng các phương pháp phân tích chuyên sâu sẽ thấy điều ngược lại ở các nước đang phát triển. Chúng tôi khuyến nghị rằng, trong chương trình giáo dục nên lồng ghép chương trình thực tiễn. Mô phỏng nền kinh tế, môi trường, cơ hội kinh doanh, cách thức tạo lập doanh nghiệp,… Điều này thực sự hữu ích đối với những sinh viên, nghiên cứu sinh ban đầu manh nha ý tưởng tự làm chủ công việc của mình. Hỗ trợ họ tốt hơn trong việc ban đầu khởi động một doanh nghiệp.

  1. Hạn chế của đề tài và hướng nghiên cứu tiếp theo

3.1 Hạn chế

Bài nghiên cứu vẫn còn nhiều thiếu sót do hạn chế của bộ số liệu sử dụng trong bài nghiên cứu. Bộ số liệu (VLSS 2008) được điều tra chung bao gồm những câu hỏi về giáo dục, y tế, sức khỏe, đặc điểm nhân khẩu học, điều kiện kinh tế, hoạt động kinh tế, cơ sở hạ tầng, giao thông vận tải, sản xuất nông nghiệp,…. Không phải là bộ số liệu điều tra chuyên biệt và tốt nhất để phục vụ mục đích nghiên cứu của chúng tôi. Các biến đại diện cho trình độ học vấn khá đầy đủ nhưng biến đại diện cho gia cảnh cá nhân còn thiếu. Ví dụ như biến số người phụ thuộc, vợ (chồng) sở hữu doanh nghiệp riêng,... Đặc biệt các biến đại diện cho tiềm lực tài chính còn quá ít, mới chỉ dừng lại ở số lượng và giá trị tài sản sở hữu. Các biến tiếp cận nguồn lực tài chính, thu nhập của vợ, đầu tư thu nhập… Do hạn chế số liệu nên chưa thể đưa vào mô hình. Điều này gây ra hạn chế trong việc đánh giá sự tác động của tiềm lực tài chính tới quyết định của mỗi cá nhân.

Tiếp đó, là hạn chế của mô hình nghiên cứu khi mô hình sử dụng trong việc phân tích tác động của các yếu tố đến xác suất quyết định tự làm chủ của cá nhân. Khi chúng tôi chỉ sử dụng mô hình logit để đánh giá xác suất tác động của các nhân tố. Điều này, một phần cũng do thời gian không cho phép. Cũng phải nói đến sự hạn chế về trình độ nghiên cứu, cụ thể trong quá trình sử lý số liệu và biến cho từng lĩnh vực xem xét còn nhiều biến chưa được xem xét và nhiều biến đưa vào mô hình gây ra các khuyết tật của ước lượng. Do vậy phải đưa ra khỏi mô hình.

Tuy nhiên, bài nghiên cứu đã giải thích được chiều hướng tác động của các biến tới quyết định lựa chọn của mỗi cá nhân mà trong bài nghiên cứu chúng tôi đã tập trung vào ba nhóm nhân tố: Trình độ học vấn, tiềm lực tài chính và gia cảnh cá nhân. Kết quả phát hiện phù hợp với mục đích nghiên cứu cũng như trong điều kiện thực tế tại Việt Nam. Mặt khác, bộ số liệu (VLSS 2008) lần đầu tiên được chúng tôi sử dụng cho mục đích nghiên cứu về chủ đề này. Trước đó, không có nhiều nghiên cứu về các yếu tố quyết định đến sự lựa chọn nghề nghiệp của cá nhân ở Việt Nam. Có ý nghĩa như là kim chỉ nam, tài liệu hướng dẫn cho mỗi cá nhân khi quyết định tự làm chủ (làm thuê cho chính mình) hay khởi đầu một doanh nghiệp. Bài nghiên cứu của chúng tôi phần nào bổ xung những thiếu sót này.



3.2 Hướng nghiên cứu tiếp theo

Để có được kết quả thuyết phục và có ý nghĩa hơn chúng tôi đề nghị nên mở rộng mô hình và phạm vi nghiên cứu. Bằng việc sử dụng các mô hình hồi quy probit dạng cấu trúc, rút gọn tương tự như (Ree và Shah, 1986 hay Bernhardt, 1994) và mô hình hai thời kỳ của Heckman (1979) để tính toán xác suất quyết định tự làm chủ của cá nhân. Cũng có thể sử dụng kết hợp mô hình logit và probit hay các phương pháp phân tích chuyên sâu để đánh giá tác động của các yếu tố đến quyết định tự làm chủ kinh doanh với việc sử dụng các bộ số liệu VLSS qua các năm. Đặc biệt là so sánh giữa bộ số liệu 2006 và năm 2008. Sẽ thấy được sự khác biệt giữa các nhân tố này. Hơn nữa, trong mô hình mẫu được giới hạn trong phạm vi nghiên cứu với những cá nhân làm việc trong khu vực thành thị. Chúng ta có thể mở rộng mẫu và thực hiện nghiên cứu trên phạm vi quốc gia. Để thấy được sự tác động khác biệt của các yếu tố. Các nhân tố này tác động như thế nào tới việc quyết định khởi đầu một doanh nghiệp của cá nhân. Sẽ rất tốt nếu có thể mở một cuộc điều tra riêng phục vụ cho mục đích nghiên cứu về chủ để này.


TÀI LIỆU THAM KHẢO


  • D.G. BlanchOwer and A.J.Oswald. What makes an entrepreneur? Journal of labour Economics, 16:26-60, 1998.

  • A. Constant and K. F. Zimmermann. The making of entrepreneurs in germany: Are native men and immigrant alike? Small Business Economics, 26:279-300, 2006.

  • G. de Wit. Model of self-employment in a competitive market. Journal of Economic Surveys, 7:367-397, 1993.

  • G. Destré and V. Henrard. The determinants of occupational choice in colombia : an empirical analysis. Cahiers de la Maison des Sciences Economiques, Maison des Sciences Economiques, Université Paris 1 Panthéon-Sorbonne, 2004.

  • D.S. Evan and B. Jovanovic. An estimated model of entrepreneurial choice under liquidity constraints. Journal of Political Economy, 79:808-827, 1989.

  • D.S. Evans and L. S. Leighton. Some empirical aspect of entrepreneurship. Americanc Economic Review, 79:519-535, 1989.

  • A.M. Gill. Choice of employment status and the wages of employees and the self-employed: some further evidence. Journal of applied econometrics, 3:229-234, 1988.

  • J.J. Heckman. Sample selection bias as a specification error. Econometrica, 47:153-161, 1979.

  • J.J. Heckman and G. Sedlacek. Self-selection and the Distribution of hourly wages. Journal of labour economics, 8:S329S363, 1990.

  • K. Kan and W.D. Tsai. Entrepreneurship and risk aversion. Small Business Economics, 26:65-474, 2006.

  • M. P. Kidd. Immigrant wage differential and the role of self-employment in Australia. Australia Economic Papers, 32:92-115, 1993.

  • A. Kolev. Determinants of the labor supply in Russia and the informal economy. Revue d'études comparatives EST/OUEST, 31, 2000.

  • A.T. Le. Empirical studies of self-employment. Journal of Economic Surveys, 13:381-417, 1999.

  • A.T. Le. Self-employment and earnings among immigrant in Australia. International Immigration, 37:383-412, 1999b.

  • L.F. Lee. Some approaches to the correction of selectivity bias. The Review of Economic Studies, 49:355-372, 1982.

  • B. Lentz and D. Laband. Entrepreneurial success and occupational inheritance among proprietors. Canadian Journal of Economics, 23:563-579, 1990.

  • Perkins, Dwight H and Vu Thanh Tu Anh. Vietnam’s Industrial Policy Designing Policies for Sustainable Development. Prepared under UNDP – Havard Policy Dialogue, Papers “Serires on Vietnam’s WTO Accession and International Competitiveness Research”, mimeo, 2008

  • H. Rees and A. Shah. An empirical analysis of self-employment in the UK. Journal of Applied Econometrics, 1:101-108, 1986.

  • To Trung Thanh, Nguyen Duc Thanh, Pham Thi Huong, Hoàng Thi Chinh Thon, Pham Thi Thuy. Literature Review on Business Environment in Vietnam. CEPR Working paper NC-10/2009, 2009

  • W.P.M. Vijverberg and J. Houghton. Household enterprises in Vietnam: Survive, growth and living standards. World Bank, Policy Research Working Paper, PS2773, 2002.

  • Tổng cục Thống kê, Niên giám Thống kê, 2008, 2009.



tải về 0.6 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương