Chương XXI việt Nam chia hai (1954-1965) 3 A. Miền Nam 3


Cảm giác bất an Thời đại kĩ nghệ điện tử



tải về 0.87 Mb.
trang4/10
Chuyển đổi dữ liệu24.04.2018
Kích0.87 Mb.
#37094
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10

Cảm giác bất an
Thời đại kĩ nghệ điện tử

Thay đổi đồ dùng, thay đổi chỗ ở, thay đổi nghề nghiệp, thay đổi vợ chồng… cái gì cũng phù du, tạm thời, do đó mà con người có cảm giác bấp bênh, bất an.

Ở nước ta chưa đến nỗi như vậy, nhưng vì tình hình thế giới cứ căng lại giãn, lạnh lại nóng từ sau thế chiến đến nay, cứ phập phồng vì thế chiến thứ ba, vì họa nguyên tử; nhất là vì tình hình trong nước, chiến tranh liên tiếp ba chục năm, trải biết bao "triều đại", thấy bao cảnh tang thương, cảnh sụp đổ, cảnh lên voi xuống chó, phá giá đồng bạc… cho nên cũng sinh ra ưu tư. Thuốc an thần bán đã gần chạy như châu Âu, và người ta đã bắt đầu thấy thiếu nhiều y sĩ chuyên trị thần kinh.

Làm sao không có cảm giác bất an cho được? Kiến thức của loài người trong 25 năm tăng lên gấp 4 lần. Những điều tôi học hồi xưa nay hóa ra lạc hậu hết, nhất là môn toán. Con tôi phải học thuộc lòng bảng cửu chương như tôi, nhưng con nó sẽ khỏi phải học như nó vì có cái máy tính điện tử nhỏ bằng bàn tay giá chỉ độ 100 quan làm thay bốn phép và thêm một vài phép nữa cho chúng. Các trường đại học Âu Mĩ mỗi năm mỗi mở thêm nhiều môn học, sinh viên muốn lựa môn nào tùy ý. Nghe nói người ta có thể sẽ bỏ những kì thi đại học nữa. Cũng chẳng cần tới giảng đường: cứ ở nhà tự học bằng ti vi, bằng máy điện tử, tùy theo chương trình, nhịp tiến của mình.

Đồ gì cũng chỉ dùng trong ít năm rồi liệng bỏ. Sách cũng vậy. Một tác giả nổi tiếng được dăm năm là nhiều, một lác phẩm bán được ba bốn năm là khá lắm rồi.

Hiện nay ở nước ta, gia đình còn là nơi vững bền, ổn cố nhất trong xã hội; ở thôn quê, vợ chồng, cha mẹ, con cái còn thắm thiết gần như xưa, nhưng rồi đây với trào lưu hôn nhân tự do, hôn nhân thử, trào lưu dùng thuốc và dụng cụ ngừa thai, trào lưu thoát li gia đình, cả ở Âu lẫn Á, ở các nước tư bản lẫn các nước xã hội chủ nghĩa, thì gia đình sẽ ra sao?

Ở phương Tây, còn thêm một nguyên nhân lo lắng, bất an nữa: đời tư của cá nhân bị kiểm soát chặt chẽ.

Mới trên ba chục năm trước (1947), Wiener viết một cuốn sách (nhan đề là Cybernétics) về kĩ thuật các hệ thống tự điều khiển, rồi mươi năm sau các máy tính điện tử bắt đầu được phổ biến ở Mĩ, ngày nay các máy điện tử (ordinateur) lan tràn khắp châu Âu và vài xứ châu Á, mở màn cho một cuộc cách mạng nữa, cho một thời đại, thời đại kĩ nghệ điện tử (technétronique).

Chỉ trong vài chục năm nay các máy điện tử phát triển, tiến bộ ghê gớm: trước kia phải dùng một hệ thống máy chật mấy căn nhà thì nay chỉ cần dùng một cái máy nhỏ xíu mỗi chiều vài li (?); trong mười năm, giá máy giảm đi ngàn lần.

Người ta phải tạo một môn học - môn informatique - để dạy cách sử dụng các máy đó và môn này cũng phát triển song song với máy; hiện nay đã có một tự điển gồm một vạn thuật ngữ. Tôi không hiểu môn đó, nhưng đọc báo chí, tôi đoán công dụng của máy như sau: ta biết được một điều gì đó, chẳng hạn ta gởi vào ngân hàng bao nhiêu tiền, hôm nào rút ra bao nhiêu, hôm nào bỏ thêm vô bao nhiêu v.v..., máy ghi hết cho ta; nửa năm hay một năm sau, ta muốn biết còn bao nhiêu tiền thì chỉ bấm một cái nút, máy cho ta biết liền; hoặc ta muốn rút ra một số lớn hơn số ta còn trong trương mục thì máy tự động báo cho ta biết rằng ta không còn đủ tiền. Máy nhớ giùm cho ta, tính toán giùm ta, lại có thể cho ta biết nên làm ra sao nữa. Đó là thí dụ đơn giản nhất. Máy có thể làm những việc phức tạp, khó khăn gấp ngàn, gấp triệu lần như thế.

Hiện nay hết thảy các nước tiến bộ ở Mĩ, Âu, cả Nhật nữa đều dùng máy điện tử trong việc hành chánh và trong kĩ nghệ, thương mãi. Sinh viên đại học cũng dùng rồi. Ở nước ta năm 1979 đã thấy bán lậu những máy tính nhỏ, những đồng hồ điện tử.

Ở Pháp năm 1978, nhà Julliard xuất bản cuốn L’informatisation de la société. Cuốn đó là bản báo cáo của hai nhân viên quan trọng trong bộ tài chánh gởi lên tổng thống Valéry Giscard d'Estaing về ảnh hưởng của máy điện tử tới xã hội.

Đại khái thì về:

- hành chánh sẽ có sự phân tán trách nhiệm, các cơ quan thấp sẽ đươc một phần tự trị, nhiều cơ quan phải rút bớt nhân viên như sở Bưu chính (tư nhân có thể tự in lấy báo), sở Công an, sở Thuế…; dân chúng sẽ đòi được cùng với nhà cầm quyền lập các kế hoạch cho quốc gia;

- kĩ nghệ, sản xuất sẽ tăng mạnh. nhưng nhân viên văn phòng không tăng;

- thương mãi cũng vậy, phát triển hơn, nhưng nhân viên giảm đi. nhất là tại các ngân hàng;

- kinh tế: sẽ có nhiều người thất nghiệp, để giảm số người đó, sẽ phảí rút bớt giờ làm việc đi.

Dịch vụ (hoạt động tam đẳng) sẽ tăng lên: nhiều thì giờ rảnh, người ta sẽ đọc sách, chơi nhạc, bơi lội, du lịch…; kĩ nghệ chuyên chở sẽ phát triển...

- giáo dục: sinh viên có máy điện tử nhỏ, riêng, có thể tự học, nhanh hay chậm tùy sức mỗi người, họ không cần nhớ nhiều nữa mà cần có óc tưởng tượng, có sáng kiến, khéo dùng những điều máy điện tử chỉ cho họ.

Tóm lại là máy điện tử sẽ tạo một lối phát triển mới, một xã hội mới. Phát minh đó quan trọng hơn tất cả các phát minh từ trước tới nay, kể cả phát minh chữ viết thời thượng cổ. Về mặt lợi ích thì rất nhiều, nhưng hại thì cũng có thể rất lớn: chính phủ nào cũng có thể kiểm soát từng hành vi của mỗi người dân, chẳng hạn ông lớn nào đã chuyển bao nhiêu tiền hôm nào qua ngân hàng nào ở ngoại quốc, đã nói với "đào" những gì, đêm nào, tại đâu… hết thảy đều được máy ghi lại, phân loại rồi khi nào cần dùng thì chỉ bấm một nút là máy “trình” ngay cho chính phủ. Tới lúc đó thì không còn chút tự do cá nhân nào nữa như Aldous Huxley và G. Orvell đã tiên đoán trong hai cuốn Le meilleur des mondes 1984.

Tác giả (tôi quên tên) cuốn Une société sans défense (một xã hội mà cá nhân không có cách tự vệ) bảo muốn ghi lí lịch của trên 200 triệu dân Mĩ (lí lịch mỗi người khoảng 12 trang) thì chỉ cần 1.400 mét băng từ khí (bande magnétique); và hiện nay ở Mĩ đã có 70 triệu người (tức 1 trên 3 người) lí lịch bị thâu băng rồi.

Một ngày kia con người ở khắp nơi, từ lúc sinh tới lúc tử sẽ bị dò xét, ghi các tội lỗi, tật xấu, các hành dộng, cả tư tưởng nữa... và bị băng từ khí của máy điện tử cột tay cột chân, bịt miệng, y như xác ướp trong các kim tự tháp Ai cập.

Chúng ta hiện nay chưa phải lo như dân chúng Mĩ, nhưng đã thấy rằng khoa học càng tiến bộ thì chính quyền càng có nhiều phương tiện kiểm soát, đàn áp cá nhân, và cá nhân càng biến thành con số không trước quyền lực vô biên của bộ máy cai trị.

Tóm lại quân đội Mĩ qua nước ta chỉ trong khoảng mươi năm, mới cho ta thấy tận mắt vái nét về văn minh tiêu thụ, văn minh hậu kĩ nghệ của họ mà ta đã có cảm giác bất an về mọi phương diện:

- bất an vì nhân số tăng mau mà thực phẩm sẽ thiếu,
- bất an vì các giá trị cổ truyền sẽ sụp đổ, con người không biết bám víu vào đâu,
- bất an vì các thị hiếu, các đồ dùng thay đổi hoài,
- bất an vì kinh tế bấp bênh,
- bất an vì đời sống quay cuồng. lúc nào cũng bận rộn, trí óc không được thảnh thơi,
- bất an vì các tự do cá nhân mỗi ngày một mất thêm, đời ta mỗi ngày bị kiểm soát chặt chẽ hơn.

Làm sao chống được với làn sóng bất ổn, bất an, quay cuồng của thời đại đó để khỏi bị nó nhận chìm?

Trong bài Chúng la phải làm gì? (Bách khoa số 424 ngày 1-3-75) tôi đã đưa đề nghị: phải thay đổi nhân sinh quan, xét lại quan niệm về hạnh phúc, định lại giá trị và mục đích. Phải sống bình dị, trở về thiên nhiên, không tính hạnh phúc theo lợi tức như người Mĩ, vì hạnh phúc không thể mua được, đánh giá bằng tiền được. Phải trở về với một số giá trị cổ truyền, giữ một số tục lệ, lễ nghi để chặn bớt sự thay đổi quá mau của thời đại, nhất là giữ tình gia đình, tình họ hàng, tình bạn bè, nói chung là tình cảm con người.

Alvin Toffler trong cuốn Le choc du futur (Mediations - 1973) còn khuyên: không theo thời thượng, mà trọng những đồ cũ; không mua những đồ nào chỉ dùng một lần rồi liệng đi; không dự những tổ chức, những cuộc hội họp vô ích; và nếu ở sở phải thường thay đổi công việc thì ở nhà cứ rán giữ những công việc hằng ngày, giữ một thời khắc biểu không thay đổi.

Sống như vậy có thể sẻ bị nhiều người cho là cổ hủ, lạc hậu, nhưng chúng ta không nên sợ dư luận. mà phải có bản lãnh sống theo ý mình và như Tofller nói, "xã hội nào cũng sẽ cần những nhóm người biết đứng riêng ở ngoài sự đổi mới."

Phong hóa suy đồi

Cuối chương XIV tôi đã nói trong thập niên 30, tuy có phong trào vui vẻ trẻ trung, nhưng chỉ một số ít thanh niên vì đua đòi, theo "mốt" mà chơi bời, bê tha, chứ xã hội và gia đình vẫn giữ được truyền thống của phương Đông.

Trong thế chiến II, một phần vì kinh tế suy, đời sống khó khăn, một phần nữa vì tình hình thế giới, khiến ai cũng thắc mắc về tương lai của dân tộc, của bản thân, nên phong trào đó tự nhiên xuống lần, thanh niên hóa đứng đắn hơn.

Thế chiến vừa chấm dứt, tiếp ngay là cuộc kháng Pháp, tinh thần toàn dân lên cao, ai cũng mong giành lại độc lập và tự do trước hết. Người ở thành thị thì bỏ nhà cửa, tài sản ra bưng sống như nông dân, cực khổ mà vui vẻ. Ngay một số phụ nữ quen đài các cũng hóa ra đảm đang, buôn thúng bán mẹt để mưu sinh trong khi chồng con theo kháng chiến. Sau vài ba năm, vì lí do này hay lí do khác, một số phải trở về thành, nhưng sống giản dị, cần kiệm, một phần vì lo xây dựng lại, một phần vì phải giúp đỡ bà con ở vùng tự do. Vả lại, đồng bào còn phải đổ máu mà mình sống cuộc đời sa hoa thì lương tâm không yên. Nhiều người bỏ sở. kiếm sạp bán báo, bán vải, hoặc bán phở, bán bún. Vì tất cả những lẽ trên, tôi cho rằng thời kháng Pháp là thời dân tộc mình có đạo đức nhất. Khi quốc gia lâm nguy, chúng ta càng tỏ ra xứng đáng với tổ tiên.

Sau khi non sông chia hai, trong mươi năm đầu (1954-64), riêng ở miền Nam, xã hội không thay đổi bao nhiêu, vì aỉ cũng lo kiến thiết lại. Chỉ từ khi trên nửa triệu quân Mĩ đổ vào miền Nam, xã hôi mới xáo động mạnh. Đầu chương XXII, tôi đã kể qua cái họa bọn lính Mĩ gây ra chỉ vì chúng vung tiền ra nhiều quá, khiến cho dân mình xa đọa, y như ở Trung hoa trong những năm 1945-49.

Mĩ mướn thư kí trả lương gấp 3, gấp 5 chính phủ mình, thuê nhà cũng vậy; mướn người ở gái, trả công gấp 10 chủ Việt, nếu chịu bán thân cho chúng, được chúng “bao" thì không có giá nào cả, có thể một sớm một chiều, từ một gái quê thành bà nọ, bà kia. Một bọn người ham tiền, bán linh hồn cho quỉ: có những ông phán dời bàn thờ tổ tiên xuống một căn nhà sau, bên cạnh bếp, để nhà trên cho Mĩ mướn; có những thiếu phụ, thiếu nữ bỏ chồng, bỏ cha mẹ để theo Mĩ trắng, Mĩ đen mà được ăn sung mặc sướng; đàn ông thì bỏ sở, xin làm cho Mĩ, rồi theo gái bán "bar", lợi dụng gái dể buôn lậu… Tiền kiếm dễ dàng quá, người ta tha hồ huy hoắc trong những "snack bar" (quán ăn cho Mĩ), những "bia ôm" (quán bán bia mà cô bán hàng để cho khách ôm dưới ánh đèn mờ mờ), những nhà "tắm hơi", những quán cà phê có nhạc giật gân, phía trong chiếu "film con heo". Chỗ nào có lính Mĩ đóng thì chỉ vài ba ngày, những ổ trụy lạc đó mợc lên rồi, làm ăn rất thịnh vượng. Do dó mà sinh ra đủ các tệ đoan: nghiện xì ke, ma túy, ăn cắp, hổi lộ, đĩ điếm; gia đình tan rã, em tố cáo chị theo Viêt cộng, vợ phản chồng, giết chồng…

Bê bối nhất là bọn quân nhân; tướng tá mua quan bán chức, một ghế tỉnh trưởng, quận trưởng giá bao nhiêu đó, mua được rồi thì đua nhau ăn hối lộ, làm sao cho trong một năm hay sáu tháng "gỡ gạc" lại đủ vốn; tất nhiên, như mọi thời, có kẻ bắt vợ làm điếm cho Mĩ để được thăng chức. Họ buôn lậu vàng, ma túy; họ xin hoặc chiếm đất lập đồn điền, cất nhà. Ở Long xuyên họ lấp một cái hồ trong một khu yên tĩnh nhất để chia nhau cất biệt thự (cuối 1976 đã bị tịch thu). Họ thành một giai cấp bạo phát, hống hách.

- Trong thời Ngô Đình Diệm, như tôi đã nói, Công giáo phát triển rất mau; từ khi Diệm bị giết. Phật giáo phát triển còn mạnh hơn nhiều: chùa mọc lên như nấm (ngay trước nhà tôi, trong hẻm Kì đồng, người ta dựng xong một ngôi chùa cây trong một đêm), cả những người không bao giờ bước chân tới chùa cũng tự xưng là Phật tử, các Thầy được kính như Phật sống; dĩ nhiên hạng chân tu rất hiếm. Vị trụ trì một ngôi chùa nọ bảo tôi: "Có ở trong mền, mới thấy mền có rận. Không một nhà sư nào dưới sáu mươi tuổi mà không phạm giới; trong ngũ giới - sát sinh, trộm cắp, tà dâm. vọng ngôn, uống rượu - họ chỉ tránh được giới cuối cùng. Tôn giáo nào cũng vậy, nhất là Phật giáo rất tự do, không có qui chế chặt chẽ, hễ phát mạnh quá thì chỉ có lợi cho giáo đường mà giáo lí phải suy, vì người ta phải theo những luật của các tổ chức kinh doanh, phải làm vừa lòng một số tín đồ, lập các đàn chay, hội hè, phải cúng sao, giải hạn… càng ngày càng xa đạo lí nguyên thủy. Một số thượng tọa thời đó được chính quyền kính nể, vì có công lật đổ chế dộ nhà Ngô, nên họ muốn gì được nấy; ai theo họ thì được họ ủng hộ để giành quyền hành. Trong dân gian đã có câu: "Nhất đĩ, nhì Thầy, tam tướng, tứ ?... (tôi quên). Câu đó tóm được tình trạng xã hội sau năm 1963.

Trường học công còn giữ được chút kỉ luật, nhưng càng về sau trường thi càng mất trật tư, thí sinh ngang nhiên đánh phép, có thí sinh quân nhân vô phòng rồi, đặt súng sáu trên bàn để dọa giám thị, rồi mở sách ra chép bài, thậm chí một số giám thị không dám gác phòng thi nữa, và một giáo sư giám khảo bị thí sinh giết ở giữa thị xã Nha trang vì nghiêm khắc với chúng. Do đó học sinh cũng không chịu học, chỉ luyện cách lén đem tài liệu vào phòng thi để "quay phim".

Trường tư thì khỏi phải nói: không còn được là nơi bán chữ nữa mà chỉ là nơi bán chứng chỉ, học bạ. Học sinh làm chúa trong lớp, giáo sư cứ giảng mà chúng cứ nói chuyện, đùa nghịch với nhau.

- Thời càng loạn thì những môn bói, lí số càng được nhiều người tin. Chiến tranh liên miên mấy chục năm, xã hội lại bất công, có khả năng, có gắng sức cũng vô ích, vậy thì biết tin ở gì bây giờ? Các "mét" coi chữ kí, chỉ tay, các cô bói bài tây, các thầy bói, gần như không khu nào không có. Báo chí đua nhau đăng mục Tử vi hằng ngày (!); các sách tử vi, tử bình, bói xuất hiện nhan nhản, bán chạy hơn cả sách báo khiêu dâm. Sự mê tín cơ hồ như bất tử. Xã hội còn bất công, còn những kẻ nghèo khổ, bị áp bức thì không sao dẹp mê tín được. Họ phải mê tín để có chút hi vọng. Từ 1945 đến nay, tôi thấy cái lí trí của loài người, kể cả hạng người gọi là trí thức, yếu ớt một cách thảm hại, luôn luôn bị tình cảm chi phối.

Biết bao nhiêu người vì lẽ này hay lẽ khác không chịu chấp nhận thực tế, đêm ngày chỉ mơ tưởng một cuộc thay đổi để trở lại đời sống cũ, xã hội cũ. Họ thco dõi kĩ thời cuộc, đi đây đi đó để ngóng tin tức, đọc báo, bắt các đài thông tin ngoại quốc, chỉ rình những tin hợp với ước vọng của họ, gạt bỏ những tin khác, có khi lại giải thích tin tức một cách rất vô lí, theo ước vọng của họ, bất chấp sự thực, bất chấp lô-gíc. Chẳng hạn được tin Việt nam sẽ "xuất khẩu” 15.000 công nhân qua Đông Âu, họ hoan hỉ, bảo: "Đúng rồi. Chính thể này sắp sụp đổ rồi. Chúng lo di tản trước, những đảng viên trung kiên, "gạo cội" nhất, rồi tới phút chót, chúng sẽ chuồn cho dễ; chứ đâu phải là xuất khẩu công nhân; tụi Đông Âu đâu có cần công nhân của một nước lạc hậu như mình."

Hai câu sấm: "Mã đầu dương cước anh hùng tận, Thân dậu niên giai kiến thái bình" của Trạng Trình, những năm 1956-57 (Bính thân, Đinh dậu), đi đâu cũng nghe thấy người ta nhắc tới; hai năm Thân, Dậu sau (1968, 1969) người ta lại lôi ra để hi vọng chiến tranh sắp chấm dứt, sắp thái bình; rồỉ năm ngoái (1980) tôi lại được nhiều người bảo năm Canh thân này hai câu ấy mới ứng, "vì trong sấm giảng của Thầy Tư Hòa hảo cũng bảo "năm năm sáu tháng cơ hàn" mà từ ngày 30 tháng tư năm 1975 tới tháng 10 d.l. này, đúng 5 năm 6 tháng, sẽ hết cơ hàn, hết nạn cộng sản". Tôi bảo câu của Thầy Tư phải sửa là "năm năm tháng tháng cơ hàn" thì mới đúng, họ làm thinh.

1980 đã qua, 1981 cũng sắp qua, tôi không biết họ có tìm được câu sấm nào khác không, nhưng tôi chắc chắn 10-11 năm nữa tôi lại sẽ được nghe hai câu sấm Trạng Trình nữa, nếu tôi còn sống.

Không kiếm được câu sấm Việt nào, họ tìm cả sấm của Nostradamus của Pháp; nếu cũng không có nữa thì họ lục những bài giáng bút - nhiều vô số - trong các buổi cầu cơ của khắp các đàn xa gần, để có một chút hi vọng trong một thời gian.

Họ là những người ghét thực tế, rồi đâm ra trốn thực tế, sợ sự thực, luôn luôn sống trong mộng, tưởng tượng ra một bọt bèo để bám vào, mong khỏi chết đuối; bọt bèo đó tan hay chìm, họ lại tưởng tượng bọt bèo khác, cứ như vậy luôn ba chục năm, từ 1945 đến nay. Họ là những người đáng thương nhất trong thời đại này.

Lính Mĩ chỉ đóng ở những thành phố lớn như Sài gòn, Tourane, Cần thơ, Huế, Đà lạt, và những nơi quan trọng về quân sự như Biên hòa, Vũng tàu, Cam ranh.... nên chỉ ở những nơi đó xã hội mới sa đọa nhiều. Còn ở những tỉnh nhỏ như Long xuyên, Rạch giá, Sa đéc, nhất là ở thôn quê, trong những gia đình tiểu tư sản (thầy kí, thầy giáo, tiểu thương) và nông dân, thì truyền thống vẫn giữ được

Mà chúng cũng chỉ đóng ở miền Nam có mươi năm, sau ngày 30-4, trong nửa năm đầu, nạn trụy lạc gần như mất hẳn. Nhưng chỉ cuối năm 1975, sau khi đổi tiền lần đầu, người Nam thấy một số khá đông cán bộ ở Bắc vô, ở bưng về cũng thối tha, hối lộ, ăn cắp, đĩ diếm, thèm khát mọi khoái lạc, nên đã bắt đầu coi thường họ; và chỉ hai ba năm sau, họ cũng sa đọa gần như thanh niên Sài gòn, chỉ thiếu cái tật "phi xì ke", và chính quyền phải vội vàng chặn lại. Nghe nói thanh niên Hà nội cũng bị lây nữa, nhưng nhẹ hơn.

Đó là lỗi của xã hội. Một xã hội muốn cho lành mạnh, có đạo đức thì phải ổn định, mà muốn ổn định thì phải công bằng, ai cũng có công ăn việc làm, đủ ăn đủ mặc. không có kẻ giàu quá, kiếm tiền dễ quá, cũng không có kẻ nghèo quá, làm tối tăm mặt mũi mà vẫn xác xơ, phải ăn độn quanh năm với rau muống, mỗi năm không được một bộ quần áo.

Xã hội Việt nam từ 1945 trở về trước tương đối ổn định vì sự cách biệt giữa người giàu quá và kẻ nghèo quá không đến nỗi lộ liễu, chướng mắt. Từ 1965, ở miền Nam, quân đôi Mĩ ồ ạt vào, làm mất sự ổn định: nhiều kẻ dựa vào Mĩ kiếm tiền rất dễ, làm giàu rất mau, huy hoắc không thể tưởng tượng được, mà họ thường thiếu tư cách, cho nên phong hóa phải suy đồi. Hiện nay (1981), ở Nam cũng có một số cán bộ và con buôn, nhờ hổi lộ, buôn lậu mà làm giàu, trong khi đa số người lương thiện có học chịu cảnh thất nghiệp, bữa cơm bữa cháo, xã hội do đó không ổn định, lành mạnh được. Nhà cầm quyền chắc hiểu điều đó mà chưa tìm được biện pháp nào hữu hiệu. Nhưng quốc gia ổn định nhất, dân có đạo đức nhất là những nước tài sản của dân gần quân bình, ai cũng đủ ăn hay dư một chút. như Finlande, Suède, Norvège… Nhà cũng vậy: giới tiểu tư sản thường có đạo đức nhất vì họ không giàu quá mà cũng không nghèo. Nghèo quá thì sinh ăn trộm, gian tham, thiếu tư cách, mà giàu quá thì hóa trụy lạc. Bàí học đó chúng ta nên nhớ.


Chú thích
[1] Đoạn này trích trong Mười câu chuyện văn chương, bài kỉ nguyên tiêu thụ và nghể viết văn. Chỗ nào sửa lại, tôi đặt trong dấu ngoặc đơn.

[2] Coi chú thích trên.

CHƯƠNG XXX

Chế Độ Tập Thể ở Miền Nam

Cảm Tình Của Tôi Với Kháng Chiến

Cho tới năm 1974 tôi đã được biết ba xã hội: xã hội nông nghiệp của ông cha chúng ta, xã hội tư bản của Tây phương do ảnh hưởng của Pháp và vài nét xã hội tiêu thụ (Société de consommation) ở thời kì hậu kĩ nghệ (post-industriel) của Mĩ; ba xã hội đó tôi đã phác qua vài nét trong các phần trên.

Từ 1975 tôi lại được biết thêm một xã hội nữa mà người ta gọi là xã hội Xã hội chủ nghĩa (1).

Tôi vốn có cảm tình với Việt minh, với cộng sản; ghét thực đân Pháp, Mĩ, nhất là từ 1965 khi Mĩ đổ quân ào ạt vào miền Nam; tôi khinh những chính phủ bù nhìn của Pháp, Mĩ. Tôi phục tinh thần hi sinh, có kỉ luật của anh em kháng chiến và mỗi lần có thể giúp họ được gì thì tôi sẵn lòng giúp.

Từ năm 1954 tôi đã được đọc nhiều bài Tố cộng của chính phủ Ngô Đình Diệm; hơn nữa, tôi được nhiều bạn của tôi di cư vô Sài gòn kể cho tôi nghe chính sách điền địa ở Bắc tàn nhẫn tới mức bỏ tù, giết cả những người kháng chiến, có con ở trong kháng chiến, chỉ vì họ có 4-5 mẫu ruộng (chưa đầy hai hecta) và bị liệt vào hạng điền chủ, tư sản bóc lột kẻ nghèo. Chính những bạn tôi đó cũng đã giúp kháng chiến, đều có lòng ái quốc, đều là những người đứng đắn, tốt, mà không thể sống ở ngoài đó được, phải bỏ cả mồ mả tồ tiên, nhà cửa, bà con họ hàng vô đây với hai bàn tay trắng, sống chen chúc trong những khu lao động, can đảm lập lại cuộc đời.

Tôi lại được đọc một số sách Pháp hoặc Nga, Anh... dịch ra tiếng Pháp viết về đời sống ở Nga, Trung cộng như: J'ai Chosi la Liberté của V.A Kravchenko (Self - 1948), Zigzags à Travers la Vie Soviétique của Raymond Henry (Albin Michel - 1947), Un étudiant Africain en Chine của E.J. Hevi, người nước Gana, Phi châu (Edition Internationales - 1965); vài cuốn nữa tôi quên tên kể những vụ đại thanh trừng trong các năm 1935-1938 ở Nga, thời Staline; kể một vụ án hoàn toàn do một chính quyền cộng sản (Hung gia lợi thì phải?) dựng lên từ đầu đến cuối, bắt giam hàng chục người, tra tấn, buộc phải khai những điều họ không hề làm, buộc họ tố cáo một đảng viên quan trọng mà đảng muốn bôi nhọ, thủ tiêu, rốt cuộc chính nhân vật này cũng phải khai những điều mình không làm mà chịu tử hình, hi vọng đảng sẽ giữ lời hứa mà "khoan hồng" với vợ con.

Năm 1968 nghe những tin tức và những hình ảnh về cuộc tàn sát rùng rợn ở Huế trong biến cố Mậu Thân, tôi hoang mang, đau lòng cho đồng bào Huế và lo lắng cho tương lai dân tộc.

Năm 1968 tôi lại được đọc trên báo Pháp những lời chỉ trích chính phủ Nga của hai nhân vật Nga nổi danh khắp thế giới: nhà bác học Sakharov, "cha sinh ra bom H" của Nga, và nhà văn Soljenitsyne, tác giả những cuốn Pavillon des Cancéreux, Premier Cercle, được giải Nobel năm 1970, L’Archipel du Goulag...

Ấy là chưa kể tác phẩm của những văn hào Pháp André Gide, Anh Bertrand Russell... mới đầu có cảm tình với Nga rồi sau chê; của những nhà văn như Koestler, Georghiu, Djilas... mới đầu đã tận tâm hoạt động trong đảng, lãnh những trách nhiệm quan trọng, mà sau phải bỏ đảng, trốn ra nước ngoài, vì chính sách tàn bạo hoặc đường lối sai lầm của đảng.

Đọc trước sau khoảng hai chục cuốn viết về cộng sản Nga, Trung hoa, Đông âu như vậy, tôi tuy ghét, tởm Staline, Mao Trạch Đông... nhưng vẫn tin rằng chế độ cộng sản công bằng hơn chế độ tư bản; nhất là cộng sản Bắc Việt dưới sự lãnh đạo thời kháng chiến của Hồ chủ tịch mà tám chín phần mười người Việt kính mến, khắp thế giới phục thì không thề nào tàn nhẫn như Nga, Trung hoa được, đảng có lỗi lầm thì sửa sai ngay. Đó là tâm lí chung của đa số trí thức Sài gòn, chứ chẳng của riêng tôi.

Hơn nữa, chúng tôi còn phục Bắc Việt là trong cuộc kháng chiến lâu dài, gay go chống Pháp, chống Mĩ mà vẫn kiến thiết về văn hóa, khảo về Nguyễn Du, thơ đời Lí, đời Trần, soạn tự điển, khai quật các di tích vùng đền Hùng (2), sáng tác về ca, nhạc... Chúng tôi nhờ các bạn ở Pháp mua rồi gởi lén về cho sách báo Bắc, truyền tay nhau coi những đồ quốc cấm đó; lại sang một băng nhạc có những bài Bắc Việt trình diễn ở Paris (năm nào tôi quên rồi), say mê nghe những bài Ai đưa con sáo sang sông (Ái Liên ca), Quảng bình quê tôi, Làng tôi (hợp ca tám giọng nữ và đàn tranh)... mà khen anh chị em ngoài đó có tinh thần yêu nước cao.

Khi hội nghị Paris kết thúc năm 1973, chúng tôi mừng rằng chiến tranh sắp chấm dứt sau non ba chục năm dai dẳng, khốc liệt, toàn dân sẽ nắm tay nhau kiến thiết quốc gia. Tôi không được đọc toàn văn Hiệp ước đó, chỉ do báo chí mà biết đại khái rằng Bắc Việt, Mĩ, Mặt trận giải phóng và Chính phủ dân chủ miền Nam thỏa thuận với nhau sẽ có ba thành phần ở miền Nam: người của Mặt trận, người của Chính phủ miền Nam, và một số người ở trong nước và ngoài nước, không theo phe nào (tức thành phần thứ ba) ở giữa dung hòa hai thành phần trên.

Tôi đoán công việc đó khó khăn nhưng có thể thực hiện được nếu những người trong sạch, có tư cách, nhiệt tâm ở miền Nam và ở ngoại quốc về chịu ra đảm đương việc nước, và nếu Mặt trận vẫn tỏ ra vẻ ôn hòa như họ thường tuyên bố. Như vậy, sau bốn năm năm, miền Nam ổn định rồi, có thể thống nhất quốc gia được, Bắc Nam dung hòa nhau, Nam hồng thêm lên một chút, để cùng nhau kiến thiết mà tạo hạnh phúc cho dân. Riêng tôi, tôi sẵn sàng bỏ một ít tự do đi, sống thanh bạch hơn nữa, miễn là hết thấy cái nạn tham nhũng, ăn cắp, ăn cướp, phè phỡn, bóc lột và thấy con người có tư cách hơn. Tôi vẫn thường nói với nhà tôi: cộng sản vào đây thì chỉ nội 48 giờ là hết cái tệ đó




tải về 0.87 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương