Cơ sở cho sự hình thành văn minh phương Đông



tải về 72.05 Kb.
trang15/16
Chuyển đổi dữ liệu15.05.2024
Kích72.05 Kb.
#57626
1   ...   8   9   10   11   12   13   14   15   16
Các vấn đề của văn minh phương Đông

* Những thành tựu khoa học tự nhiên của Arập.
+ Do sự bành trướng của đế quốc Arập, sự giao lưu văn hóa, khoa học với các nền văn minh xung quanh như Ấn Độ, Trung Quốc, Hy Lạp, Ai Cập … có điều kiện để phát triển. Người Arập đã tiếp thu các thành tựu văn hóa của các nền văn minh có trước mình, sáng tạo ra một nên văn hóa mang bản sắc dân tộc độc đáo.
-Sau khi lập nước một thời gian, năm 830, triều Abassid xây dựng một trung tâm khoa học gồm viện khoa học, đài thiên văn và thư viện. Trung tâm khoa học này đã tiến hành dịch nhiều tác phẩm viết bằng tiếng Hy Lạp, Sanskrit … người đứng đầu đội ngũ dịch thuật này là Hunai Ibn Ishak (Hunai Ibơn Isac). Tương truyền, riêng ông đã dịch được hơn 100 tác phẩm ra tiếng Arập, trong đó có kinh Cưu Ước và nhiều tác phẩm của Aristote, Platon … tiền thù lao cho công việc dịch thuật cũng được trả rất hậu, tác phẩm cân nặng bao nhiêu thì được trả bấy nhiêu vàng, riêng bản dịch đầu tiên tác phẩm của Aristote được trả công bằng cách đặt lên cân một bên là sách bên kia là kim cương. Đến giữa thế kỉ IX, có thể nói rằng hầu hết các tác phẩm lớn về toán học, thiên văn, y học … của Hy Lạp đã được dịch sang tiếng Arập.
- Người Arập trên con đường chinh chiến cũng rất chú trọng đến việc tiếp thu các thành tựu văn hóa và chú ý lưu giũ các tác phẩm nghệ thuật, những công trình khoa học, sách vở… chính vì vậy nhiều tác phẩm có giá trị được phát minh ở Hy Lạp, Ấn Độ, nhưng sau đó lại được tìm thấy và phổ biến rộng rãi ở Arập.
+ Toán học: Người Arập tiếp tục phát triển các môn đại số, lượng giác, hình học và hoàn thiện hệ thống chữ số thập phân của người Ấn Độ ma cho đến ngày nay người ta vẫn quen gọi là chữ số Arập. Các khái niệm trong môn lượng giác: Sin, Cosin, Tang, Cotang mà ngày nay chúng ta sử dụng là do nhà toán học Abu Apdala al-Battani của Arập đặt ra.
+ Vật lí: Có nhà khoa học tiêu biểu Al Haitham là tác giả cuốn “Sách quang học”, được coi là tác phẩm có tính chất khoa học nhất thời trung đại.
+ Hóa học: Người Arập cũng có những long góp rất to lớn, có thể nói rằng nhờ họ mà hóa học mới trở thành một ngành khoa học. Họ tìm ra nhiều hóa chất mới, chế tạo ra nồi nước cất trước tiên và đặt tên là Al-ambik biết nấu rượu Roum từ đường mía.
+ Sinh học: Người Arập đã biết ghép cây, tạo ra các giống cây trồng mới từ rất sớm.
+ Y học: Họ biết chữa trị rất nhiều loại bệnh nội, ngoại khoa, và đặc biệt giỏi về nhãn khoa. Nhiều tác phẩm y học nổi tiếng được biên soạn như “Mười khái luận về mắt” của Ishak; “Sách chỉ dẫn cho các thầy thuốc khoa mắt” của Isha; “Tiêu chuẩn y khoa” của Sihna …
3. Ấn Độ:
+ Thiên văn học: Người Ấn Độ biết chia một năm thành 12 tháng, mỗi tháng 30 ngày, cứ năm năm thì có một tháng nhuận. Họ đã biết Trái đất và Mặt Trăng hình cầu, biết được các hành tinh Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Đặc biệt họ đã biết tổng kết những hiểu biết về thiên văn học trong tác phẩm Sidhanta, một tác phẩm thiên văn cổ vào loại sớm nhất thế giới.
+ Toán học: Người Ấn Độ đã phát minh ra 10 chữ số tự nhiên, đã đưa ra được những khái niệm cơ bản về hình học và lượng giác, hoàn thiện hệ thống số thập phân có số 0.
+ Y học:
- Có nhiều thành tựu cả trên lĩnh vực lí thuyết và thực hành, không chỉ dừng lại kinh nghiệm mà đã tổng kết để viết thành sách. Nỗi tiếng là các tác phẩm “Y học toát yếu”, “Luận khảo về trị liệu”…
- Người Ấn Độ đã biết mô tả các dây gân, cách chắp xương sọ, cắt màng mắt, theo dõi được qua trình phát triển của thai nhi …
- Người Ấn Độ đã biết đề cao y đức của người thầy thuốc. Thầy thuốc Saraca sống vào thế kỉ II, đã đưa ra câu nói nỗi tiếng về đạo đức của người thầy thuốc: “Trị bệnh thì đừng nghĩ tới mình, đừng vì lợi mà chỉ nên nghĩ đến nhiệm vụ cứu nhân độ thế mà thôi”.
+ Vật lí và hóa học:
Người Ấn Độ đã nêu ra thuyết nguyên tử, biết chế những chiếc la bàn đơn giản phục vụ cho các nhà hàng hải, biết được sức hút của Trái Đất … thời Gúpta, nghề nấu sắt đã phát triển khá cao, một số nghề khác cũng phát triển như nghề nhuộm, thuộc da, nấu thủy tinh, xi măng …
4. Trung Quốc
a. Khoa học tự nhiên:
+ Toán học:
Trung Quốc là nước biết sử dụng phép ghi số tính mười bậc sớm nhất thế giới. Đời Chu đã rất coi trọng việc giáo dục toán học trong nhà trường… Thời Tây Hán có sách “Chu bể toán kinh”, thời Đông Hán sách toán đã đạt trình độ nhất định và thành hệ thống. Nhà toán học Tổ Xung Chi (429-500) đã tìm ra số Pi chính xác đến con số thập phân thứ 10, đi trước thế giới 1000 năm.
+ Thiên văn học:
Để phục vụ sản xuất nông nghiệp, thiên văn học ra đời rất sớm. Đời nhà Thương (cách đay 3000 năm) người ta đã ghi chép đúng về hiện tượng nhật thực, nguyệt thực. Bộ sách “Cam Thạch kinh tinh” thời Chiến Quốc là sách ghi chép về các hành tinh sớm nhất thế giới. Người Trung Quốc đã biết chế tạo ra nhiều dụng cụ để đo bóng Mặt Trời tính lịch (Thổ Khuê), đo động đất (Hồn thiên nghi)…
+ Lịch pháp:
Từ thời Ngũ đế, người Trung Quốc đã biết làm lịch,đến nhà Hạ, người ta làm lịch dựa trên sự vận hành của Mặt Trăng (gọi là Hạ lịch, hay âm lịch) nay vẫn dùng ở cả Trung Quốc và Việt Nam. Thời Tây Hán, Tư Mã Thiên và những người khác soạn ra “Lich Thái Sơ” nỗi tiếng (chỉ ra chu kì nhật thực là 135 tháng, chia một năm ra 24 tiết…) có ý nghĩa quan trọng đối với sản xuất nông nghiệp. Năm 1230, Quách Thủ Kính (đời Nguyên) soạn ra “Thụ Thời lịch”. Chia một năm ra 365,2425 ngày đi trước nhân loại rất xa về cách tính lịch.
+ Nông học:
Nghề trồng trọt có cách đây khoảng 7000 năm, bên cạnh trồng ngũ cốc, còn trồng dâu, chè… “Trà kinh” của Lục Dã là sách đầu tiên trên thế giới viết về trà. Giả Hiệp với cuốn “Tề dân yếu thuật” viết về trồng trọt và chăn nuôi sớm nhất thế giới… Từ Quang Khải (nhà Minh) viết cuốn “Nông chính toàn thư” trên 50 vạn chữ, lí giải tường tận mọi mặt của nghề nông được xem là đỉnh cao của sự am hiểu về nền nông học cổ đại Trung Quốc.
+ Y dược học:
Nền y học Trung Quốc đã có nhiều thành tựu đáng khâm phục. Về lí thuyết, thời chiến Quốc có sách “Hoàng đế nội kinh”, được coi là bộ sách kinh điển bậc nhất của y học cổ truyền Trung Quốc. Thời Hán có “Thương hàn tạp bệnh” của Trương Trọng Cảnh, thời Đường có “Tiên thụ lí thương, kế tục mật phương” của Lan Đạo Nhân…
Về Đông y: Có rất nhiều sách viết về các dược liệu như “Sơn hải kinh” (Tiên Tần), “Thần nông bản thảo kinh”(Hán), “Bào cứu luận”(Nam Triều)… Đặc biệt “Bổn thảo cương mục” do Lí Thời Trân (nhà Minh) soạn đã phê phán và kế thừa được những tinh túy của các sách thuốc trước đó, đồng thời giới thiệu các loại thuốc mới…. được dịch ra tiếng Latinh và nhiều thứ tiếng khác. Darwin coi đây là bộ “bách khoa toàn thư” của Trung Quốc cổ đại.
+ Địa lí học:
- Địa lí tự nhiên đã được nghiên cứu và viết thành sách từ cuối thời Xuân Thu như cuốn “Sơn hải kinh”, vào cuối thời Chiến Quốc như cuốn “Vũ Cống”, giúp người đời sau tìm hiểu lịch sử, địa lí thời Tần.
- Địa đồ học có từ thời Chu, Bản đồ vẽ trên gỗ phát hiện vào năm 1986 ở ngôi mộ Tần sớm hơn bản đồ sớm nhất thế giới hơn 300 năm. Các ông Bùi Tú, Giả Đam, Thẩm Quát… đã để lại nhiều kinh nghiệm và tác phẩm quý cho ngành địa đồ học.
b. Bốn phát minh quan trọng:
+ Phát minh thuốc súng:
Thuôc súng còn gọi là “hỏa dược” (thuốc lửa), do ngẫu nhiên mà các nhà luyện đạn cổ phát hiện ra. Đầu TK.X, thuốc súng được dùng làm vũ khí, từ đó được ứng dụng rộng rãi làm cho hệ thống vũ khí và cả khoa học quân sự biến đổi hẳn. Càng ngày thuốc súng càng được lan truyền rộng sang cả phương Tây.
+ Phát minh kim chỉ nam:
Từ việc biết được từ tính và chỉ hướng của nam châm, người ta đã làm ra kim chỉ nam mà thời đó gọi là “Tư nam”. Đến thời Bắc Tống, người Trung Quốc chế tạo ra la bàn, và cải tiến nó ngaỳ càng hoàn chỉnh hơn.
+ Phát minh ra nghề làm giấy:
Trước khi làm ra giấy, người Trung Quốc dùng qua nhiều loại “giấy” nhưng chất lượng còn kém, mặt không phẳng khó viết và khó bảo quản. Năm 105, Thái Luân đã làm ra giấy từ các nguyên liệu dễ kiếm như lưới cũ, giẻ rách và cỏ cây… có chất lượng tốt hơn. Như vậy, người Trung Quốc đã làm ra giấy trước châu Âu hàng nghìn năm. Đó chính là một cuộc cách mạng trong việc truyền bá chữ viết, trao đổi tư tưởng phổ biến kiến thức của con người.
+ Phát minh nghề in
Vốn có nghề truyền thống khắc vào đá, đến đời Tùy nghề in khắc bản ra đời và ngày một cải tiến: từ in chữ rời bằng đất sét nung của Tất Thăng đến in chữ rời bằng gỗ, thiếc, đồng, chì… kỹ thuật in của Trung Quốc đã đi trước người Đức 400 năm. Bốn phát minh trên được hậu thế đánh giá rất cao.

tải về 72.05 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   8   9   10   11   12   13   14   15   16




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương