Bảng chữ viết tắt



tải về 0.77 Mb.
trang6/8
Chuyển đổi dữ liệu21.08.2016
Kích0.77 Mb.
#24874
1   2   3   4   5   6   7   8

Nguồn: Maud Hemlin, Bhargavi Ramamurthy and Per Ronnas: Phân tích động lực của sản xuất tư nhân quy mô nhỏ tại Việt Nam, Trường Kinh tế Stockholm, Các ấn phẩm về kinh tế và tài chính số 236, tháng 5 năm 1998.

Về tổng thu nhập: doanh nghiệp khu vực kinh tế tư nhân ở đô thị có tổng thu nhập cao hơn 3 đến 4 lần so với doanh nghiệp khu vực kinh tế tư nhân ở nông thôn, căn cứ vào mẫu thu được năm 1996. Điều này là một điểm bất lợi cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam tham gia vào nền kinh tế thế giới. Sự mất cân bằng về thu nhập giữa các vùng địa lý luôn gây ra mâu thuẫn và là nguồn của các bất ổn kinh tế và xã hội trong tương lai.

Giá trị gia tăng trên một công nhân là chỉ số biểu thị sự khác nhau giữa các mức năng suất lao động trong khu vực chính thức và bán chính thức. Giá trị gia tăng trên một công nhân trong khu vực chính thức gấp gần hai lần so với khu vực bán chính thức. Chỉ số này tại các doanh nghiệp ở thành thị cao hơn 1.5 lần so với doanh nghiệp ở nông thôn. Kết quả này có liên quan tới hai yếu tố khác là tỷ lệ nhân công được trả lương trong khu vực chính thức cao hơn khu vực bán chính thức và quan hệ kinh tế trong các doanh nghiệp ở đô thị chặt chẽ hơn ở nông thôn. Điều này đặt ra một vấn đề quan trọng là sức cạnh tranh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ khu vực nông thôn sẽ yếu hơn so với các doanh nghiệp đồng hạng ở thành phố, dẫn tới việc các doanh nghiệp vừa và nhỏ nông thôn sẽ gặp nhiều khó khăn hơn trong quá trình cạnh tranh tại các đấu trường nước ngoài.



  1. Thực trạng hội nhập quốc tế của các PSSME:

              1. Thực trạng hội nhập quốc tế :

Hội nhập quốc tế là một phạm trù phức tạp, như đã trình bày ở chương I. Trong 3 mặt chính của nó luận văn này tập trung vào nghiên cứu khía cạnh hội nhập kinh tế. Hội nhập kinh tế có nhiều mặt: thương mại quốc tế, đầu tư quốc tế, cạnh tranh quốc tế, thị trường toàn cầu...

Để hiểu về thực trạng hội nhập quốc tế của các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp vừa và nhỏ khu vực tư nhân nói riêng đòi hỏi phải có một quá trình nghiên cứu kỹ lưỡng. Ở đây tầm cỡ một bài luận văn không cho phép đi sâu đến như vậy. Người viết chỉ có thể cố sức trình bày những hiểu biết hết sức sơ lược về tình hình hội nhập quốc tế của các doanh nghiệp Việt Nam thông qua một số số liệu về tình hình xuất khẩu và nhập khẩu của Việt Nam



Kim ng¹ch xuÊt nhËp khÈu qua c¸c n¨m (tham kh¶o)

§VT: 1000 000 USD

N¨m

NhËp khÈu

XuÊt khÈu

Tæng kim ng¹ch

1989

2565.8

1946.0

4511.8

1990

2752.4

2404.0

5156.4

1991

2274.2

2087.0

4361.2

1992

2515.0

2571.0

5068.0

1993

3924.0

2985.0

6909.0

1994

5283.8

3890.4

9174.2

1995

8155.0

5448.9

13603.9

1996

11144.0

7255.9

18399.9

1997

11271.0

9269.0

20540.0

1998

11600.0

9380.0

20980.0

1999

11742.0

11541.4




2000

15635.0

14448.0




2001

16162

15027

31189

2002

19300

16530

35830

Nguồn: lấy từ trang web của Bộ Thương mại http://www.mot.gov.vn/Baocao/bieudo.htm và Bổ sung từ trang http://www.mot.gov.vn/Baocao/2002/bc122002.htm

Hoặc để dễ nhìn hơn ta hãy xem xét biểu đồ dưới đây



Kim ng¹ch xuÊt nhËp khÈu qua c¸c n¨m

§¬n vÞ tÝnh: 1 triÖu (1000 000) USD

Nguồn: lấy từ trang web của Bộ Thương mại http://www.mot.gov.vn/Baocao/bieudo.htm



Ta thấy rằng trong suốt thời kỳ từ 1989 tới 2002, trừ một ngoại lệ đáng chú ý là năm 1992, Việt Nam lâm vào tình trạng nhập siêu liên tục, với kim ngạch xuất khẩu tăng mỗi năm với tốc độ dương nhưng luôn thấp hơn tốc độ tăng của kim ngạch nhập khẩu. Để tìm hiểu cơ cấu xuất nhập khẩu của Việt Nam ta hãy xem xét cán cân xuất nhập khẩu 2 năm 2001 và 2002:




Đơn vị

T/h năm 2001

Ước t.hiện T12/02

Ước t.hiện 2002

(%)2002 so 2001




tính

Số lượng

Trị giá

Số lượng

Trị giá

Số lượng

Trị giá

Số lượng

trị giá

Tổng số xuất khẩu

Tr USD




15.027




1.540




16.530




110,0

- Các DN có vốn đầu tư Nhà nước

Tr USD




6.799




775




7.769




114,3

Mặt hàng chủ yếu XK




























1. Thủy sản

Tr USD




1.778




170




2.024




113,8

2. Gạo

1000 T

3.729

625

100

19

3.241

726

86,9

116,1

3. Cà phê

1000 T

931

391

60

36

710

315

76,3

80,6

4. Rau quả

1000 T




330




14




200




60,7

5. Cao su

1000 T

308

166

46

31

444

263

144,2

158,6

6. Hạt tiêu

1000 T

57

91

2

3,0

77

108

135,4

118,4

7. Nhân điều

1000 T

41

152

6

21

63

212

154,8

139,4

8. Chè các loại

1000 T

68

78,4

5,0

5,0

75

83

109,9

105,9

9. Lạc nhân

1000 T

78

38

4

2

107

52

136,7

135,0

10. Dầu thô

1000 T

16.732

3.126

1.470

316

16.850

3.228

100,7

103,3

11. Than đá

1000 T

4.290

113

400

10

5.870

149

136,8

131,9

12. Hàng dệt và may mặc

Tr USD




1.975




280




2.710




137,2

13. Giày dép các loại

Tr USD




1.559




180




1.828




117,2

14.Hàng đ/tử & LK m/tính

Tr USD




595




53




505




84,9

15.Hàng thủ công mỹ nghệ

Tr USD




235




29




328




139,5

Nguồn: http://www.mot.gov.vn/Baocao/2002/bc122002.htm





Đơn vị

T/h năm 2001

Ước t.hiện T12/02

Ước t.hiện 2002

(%)2002 so 2001




tính

Số lượng

Trị giá

Số lượng

Trị giá

Số lượng

Trị giá

Số lượng

trị giá

Tổng số nhập khẩu

Tr USD




16.162




1.828




19.300




119,4

- Các DN có vốn đầu tư NN

"




4.985




670




6.604




132,5

Mặt hàng chủ yếu NK




























1. Ôtô nguyên chiếc các loại

Chiếc

28.266

197

2.618

29

27.200

250

96,2

126,6

2. Ôtô dạng linh kiện lắp ráp

Bộ

21.182

234

3.000

34

28.880

335

136,3

143,1

3. Thép thành phẩm

1000 T

2.178

636

200

78

2.772

878

127,3

138,1

4. Phôi thép

"

1.760

329

200

49

2.133

450

121,2

136,8

5. Phân bón các loại

"

3.189

404

400

46

3.650

453

114,5

112,1

- Phân bón URE

"

1.605

195

200

25

1.735

208

108,1

106,7

6. Xăng dầu

1000 T

8.998

1.828

900

196

10.000

2.022

111,1

110,6

7.Xe gắn máy

1000 Bộ

2.503

668

259

62

1.250

360

49,9

54,0

8. Giấy các loại

1000 T

302

159

40

20

372

193

123,2

121,7

9. Chất dẻo nguyên liệu

1000 T

736

494

80

62

895

617

121,6

124,9

10. Sợi các loại

1000 T

210

247

20

25

265

312

126,2

126,3

11.Bông

1000 T

113

132

5

5

94

94

83,2

71,2

12. Hoá chất nguyên liệu

Tr USD




352




38




404




114,8

13. Máy móc,TB, PT khác

"




2.741




350




3.700




135,0

14. Tân dược

"




295




30




312




105,8

15. Linh kiện điện tử

"




668




61




650




97,3

16.Nguyên, phụ liệu dệt may

"




1.606




225




1.781




110,9

Nguồn: http://www.mot.gov.vn/Baocao/2002/bc122002.htm

Trong số các mặt hàng xuất khẩu ta thấy 5 mặt hàng có tốc độ tăng 2001-2002 lớn nhất với kim ngạch lớn (hơn 100 triệu USD) là:

Cao su tăng 158%, kim ngạch năm 2002 là 263 triệu USD

Nhân điều 139,4% 212

Than đá 131,9% 149

Hàng dệt may 137,2% 2710

Hàng thủ công mỹ nghệ 139,5% 328

Trong số các mặt hàng nhập khẩu 4 mặt hàng có tốc độ tăng lớn hơn 130% và kim ngạch nhập khẩu lớn và một mặt hàng đáng chú ý là:

Ôtô dạng thiết bị lắp ráp 143,1% 335

Thép thành phẩm: 138,1% 127,3

Phôi thép 136,8% 121.2

Máy móc thiết bị và phương tiện khác:

135,5% 3700

Xăng dầu 110,6% 2022


Ta thấy rằng các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam phần lớn là các mặt hàng nguyên liệu và sản phẩm sử dụng nhiều lao động (labour intensive). Các mặt hàng này có giá trị thấp, thể hiện qua kim ngạch nhỏ. Trong khi đó các mặt hàng nhập khẩu của Việt Nam đa phần là các sản phẩm hoàn chỉnh, các máy móc thiết bị có giá trị cao, phục vụ cho nhu cầu xây dựng và phát triển kinh tế của Việt Nam. Một cơ cấu xuất nhập khẩu điển hình của nước đang phát triển mà Việt Nam cần phải thoát ra càng nhanh càng tốt

Cơ cấu thị trường xuất khẩu chuyển dịch theo hướng tích cực: so với năm 2001, tỷ trọng của thị trường châu Mỹ tăng từ 9,7% lên 15,9%, trong đó Hoa Kỳ tăng từ 7% lên 14%; châu Đại Dương tăng từ 7,2% lên 8,1%; châu Âu ổn định, giữ nguyên tỷ trọng; châu á giảm từ 58,4% xuống 51,9%, châu Phi giảm từ 1,2% xuống 0,8%. Cơ cấu thị trường nhập khẩu có sự chuyển biến theo hướng: giảm nhập khẩu từ các thị trường thuộc khu vực châu á và tăng nhập khẩu từ khu vực Châu Mỹ và Châu âu, chủ yếu là các mặt hàng như: máy móc, thiết bị, phụ tùng... (nguồn: http://www.mot.gov.vn/Baocao/2002/ bc122002.htm).

Sự thay đổi này có thể quy một phần về việc Hiệp định thương mại với Mỹ có hiệu lực từ năm 2001.

Một mặt quan trọng của hội nhập kinh tế quốc tế là tham gia vào dòng vốn luân chuyển quốc tế, trong đó có việc đầu tư ra nước ngoài. Nhưng trong mặt này các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam nói riêng, các doanh nghiệp Việt Nam nói chung chưa tham gia mạnh mẽ cho lắm. Tính đến 31/10/2001 tổng số vốn doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngoài mới chỉ lên tới 32 triệu USD, đầu tư vào 50 dự án (nguồn: Báo Thương mại, số 92(904) ngày 16/11/2001, Mục Vấn đề và Sự kiện, tr.1). Cũng trong năm 2001, hơn 3 tỷ USD đầu tư vào Việt Nam trong đó có 460 dự án cấp mới với số vốn 2436 triệu USD (nguồn: Thời báo Kinh tế Việt Nam số 157 (879) ngày 31/12/2001). Khi ta so sánh hai con số đó với nhau ta thấy rõ sự khác biệt. Sự bé nhỏ của dòng vốn đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp vừa và nhỏ nói riêng phản ánh sự chưa chín muồi của hoạt động này. Em nghĩ rằng, trong thời gian này chúng ta có thể không cần để ý đến hoạt động đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam. Sự chưa chín muồi cả về quy mô lẫn kinh nghiệm của các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam sẽ khiến cho hoạt động này trong thời gian 5 năm tới là nhỏ giọt và không đáng kể.

Dòng vốn đầu tư vào Việt Nam chủ yếu đổ vào các dự án lớn mà bỏ qua các dự án nhỏ và cực nhỏ. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ khu vực tư nhân có vốn đầu tư nước ngoài, theo các phân tích đã trình bày ở Chương I, có số lượng rất ít, có thể nói là không đáng kể. Vì vậy ta cũng có thể nói rằng hiện nay các PSSMEs của Việt Nam chưa được tham gia vào hoạt động đầu tư nước ngoài. Và ta cũng có thể an toàn bỏ qua vấn đề này khi nghiên cứu, ít nhất là trong tương lai gần. Trong 5 năm nữa tình hình này có thể có biến chuyển nhẹ nhưng còn tuỳ vào sự cải thiện môi trường hoạt động của các doanh nghiệp vừa và nhỏ khu vực tư nhân ở Việt Nam.

Vậy trong hai mặt của hội nhập kinh tế quốc tế là thương mại và đầu tư thì các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam tham gia mạnh nhất vào thương mại quốc tế. Các hoạt động liên quan đến đầu tư quốc tế của các doanh nghiệp này còn nhỏ về quy mô và ít về số lượng. Sự mất cân bằng này trong hội nhập quốc tế của các doanh nghiệp vừa và nhỏ mang tính chất tạm thời nhưng để tác động đến nó cần phải có sự can thiệp có ý thức và mạnh mẽ của Nhà nước Việt Nam.

2. Những mặt mạnh mặt yếu của các PSSME trong quá trình hội nhập quốc tế


  1. Trình độ nguồn nhân lực và chất lượng quản lí:

Vấn đề này có hai mặt chính là trình độ người lao động trong xí nghiệp và trình độ của chủ doanh nghiệp. Đây là hai mặt một vấn đề mà nếu thiếu một trong hai thì doanh nghiệp không thể trở nên mạnh mẽ và trưởng thành được. Một chủ doanh nghiệp có tài mà trong doanh nghiệp chỉ có những người lao động yếu tay nghề thì anh ta (hoặc chị ta) cũng khó lòng đưa được xí nghiệp đi lên trong môi trường quốc tế. Và một doanh nghiệp gồm toàn những người tài giỏi mà chủ doanh nghiệp lại thiếu hiểu biết về kinh doanh, về cách dùng người, không dám giao quyền hành cho người có năng lực, không biết điều hành doanh nghiệp... thì doanh nghiệp đó cũng không có cách nào hoạt động kinh doanh có hiệu quả được. Và những người tài trong xí nghiệp đó cũng sẽ lần bỏ đi. “Quân giỏi không chịu tướng dở, Tướng giỏi không có quân dở” là như vậy.

Trình độ nguồn nhân lực của các doanh nghiệp vừa và nhỏ :

Trình độ nguồn nhân lực trong khu vực chính thức và bán chính thức có sự khác biệt lớn. Số lượng lao động lành nghề và lao động có trình độ văn hoá cao (tốt nghiệp trường dậy nghề hoặc đại học) trong hộ kinh doanh cá thể công nghiệp là 3.14% , trong khi tỷ lệ này ở các doanh nghiệp công nghiệp chính thức là 35.4%

Khoảng 73% các doanh nghiệp nhỏ và cực nhỏ công nghiệp tiến hành đào tạo nghề tại chỗ cho nhân công.. Theo điều tra của Phòng Thương mại và Công Nghiệp Việt Nam năm 2001, 18.6% giám đốc đánh giá tốt về các cơ sở đào tạo của Nhà nước. Thực trạng này bắt nguồn từ một thực tế là phần lớn lao động làm việc trong doanh nghiệp nhỏ và cực nhỏ đều “không lành nghề” và các chủ doanh nghiệp phải luôn đối mặt với những khó khăn trong việc tìm nguồn tài chính để gửi nhân viên của mình đi đào tạo. Phần lớn các khoá đào tạo nghề ở ngoài doanh nghiệp cần kinh phí hỗ trợ của doanh nghiệp, hơn nữa học phí lại đắt hơn so với đào tạo tại chỗ. Trong khi đó mô hình “đào tạo tại chỗ một cách bài bản” vẫn còn chưa được phổ biến ở Việt Nam.

Bảng 2.9: Trình độ công nhân tại các doanh nghiệp – so sánh giữa các thành phần kinh tế



Trình độ chung của chủ doanh nghiệp :

Theo kết quả điều tra mẫu của đề tài KX.07.14 (trường Đại học Kinh tế Quốc dân) 30% chủ doanh nghiệp xuất thân từ công nhân viên chức từ khu vực kinh tế nhà nước chuyển ra; 40% chủ doanh nghiệp có trình độ lớp 7; 35% có trình độ lớp 10 (hệ đào tạo cũ); 25% có trình độ lớp 12; 1% có trình độ sau đại học; 3% có trình độ đại học; 14 % có trình độ trung cấp hoặc tương đương; 7% chủ doanh nghiệp có trình độ nghề đào tạo phù hợp với hoạt động sản xuất kinh doanh. Theo điều tra của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam năm 2001: trong số các chủ doanh nghiệp nhỏ và cực nhỏ thì 33% đã tốt nghiệp phổ thông trung học và gần 30% tốt nghiệp đại học hoặc cao đẳng. Con số này cũng là kết quả từ thực tế đầu tư của Chính phủ cho giáo dục từ năm 1996 tăng với mức tăng hàng năm gần 12% so với dưới 5% năm 1989.

Những con số nói trên là rất đáng khích lệ đối với một quốc gia đang phát triển như Việt Nam. Tuy nhiên chúng ta phải nhận rõ là các con số đó không sánh ngang được với con số của các nước phát triển. Trình độ của chủ doanh nghiệp ảnh hưởng tới khả năng quản lý về kỹ thuật và kinh doanh cũng như tiếp cận với thị trường và công nghệ sản xuất mới. Trình độ của các chủ doanh nghiệp cần được tìm cách để nâng cao hơn nữa so với hiện tại, đặc biệt là với các doanh nghiệp vừa và nhỏ đang tiến hành các hoạt động buôn bán với nước ngoài.


  1. Thuế đánh vào các doanh nghiệp:

So sánh thuế giữa các nước, ta sẽ thấy một điểm nổi bật là thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp, thu nhập cá nhân, thuế nhập khẩu của Việt Nam đều thuộc loại cao của khu vực.

Ngoài vấn đề thuế cao trong mỗi sắc thuế còn có nhiều quy định chưa hợp lý. Có quá nhiều quy định hướng dẫn về thuế (với thuế GTGT có khoảng 400 tài liệu hướng dẫn) và các hướng dẫn thay đổi nhiều nhưng không thông báo trước, thậm chí quy định hiệu lực thi hành sớm hơn thời điểm văn bản được công bố. Việc thực hiện các văn bản hướng dẫn không thống nhất trong cả nước.

Một môi trường thuế không ổn định, không rõ ràng, với các mức thuế cao đang gây ảnh hưởng xấu đến các doanh nghiệp vừa và nhỏ tư nhân Việt Nam. Các chi phí phát sinh thêm trong một môi trường như vậy khiến các doanh nghiệp vừa và nhỏ bị giảm hiệu suất sử dụng vốn, giảm tính cạnh tranh và gặp nhiều khó khăn trong hoạt động kinh doanh. Khi tiến ra thương trường quốc tế các PSSMEs của Việt Nam gặp nhiều bất lợi hơn do bị thiếu đi các nguồn lực đã dành cho môi trường thuế đó.


  1. Thanh tra, kiểm tra của nhà nước

Trong các thành phần kinh tế thì các doanh nghiệp tư nhân là đối tượng được thường xuyên thanh tra nhất.

Bảng 2.11: Số lần các nhân viên Nhà nước đến thăm doanh nghiệp nhỏ và cực nhỏ trong 2 năm 2000, 2001




Số phần trăm doanh nghiệp “được thăm viếng”

Hơn 10 lần

5.4

Hơn 5 lần

6.7

Hơn 2 lần

15.7

2 lần hoặc ít hơn

5.1

Không lần nào

67.1

Tổng số

100.0

Nguồn: Điều tra của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam năm 2001.

Mức độ thường xuyên của các cuộc thanh tra kiểm tra thay đổi từ nơi này sang nơi khác. Các thanh tra viên bao gồm từ công an kinh tế đến thanh tra phòng cháy chữa cháy từ Bộ Công an, các nhân viên quản lý thị trường từ Bộ Thương mại, cán bộ thuế từ Bộ Tào chính, các nhân viên từ thanh tra nhà nước... Các điều tra của Cơ quan thanh tra Nhà nước, của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam và Dự án hỗ trợ Phát triển Mêkông (MPDF) cho thấy tình trạng chồng chéo của các đợt thanh tra, của rất nhiều các cơ quan khác nhau. Kết quả các điều tra này chỉ ra rằng có từ 65% đến 88% số doanh nghiệp bị thanh tra, kiểm tra với số lượng trung bình là 14.4 lần trong ba năm. Trong khi đó, 77% chủ doanh nghiệp bị thanh tra không đồng ý với các kết luận của thanh tra viên. Họ cũng không biết ai sẽ là trọng tài vì có quá nhiều kết luận khác nhau.

Tình trạng lộn xộn này bắt nguồn từ chính sách thanh tra doanh nghiệp được ban hành bằng Nghị định số 61/CP năm 1998 đã trở nên lạc hậu. Nghị định không quy định rõ các tổ chức nào có quyền thanh tra hoặc trong điều kiện nào doanh nghiệp bị thanh tra, quyền và nghĩa vụ của các thanh tra viên như thế nào nếu đưa ra các kết luận không đúng dẫn đến mất mát về vật chát và tinh thần của doanh nghiệp.

Các mất mát về vật chất và tinh thần đó chính là sự tổn thất các nguồn lực mà đáng ra các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể đầu tư vào các hoạt động hội nhập với quốc tế. Mỗi doanh nghiệp vừa và nhỏ có nguồn lực không lớn. Các mất mát như vậy gây tổn hại cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, tương đối mà nói, lớn hơn các tổn hại do các nguyên nhân tương tự gây ra cho các doanh nghiệp lớn. Muốn tăng cường khả năng hội nhập quốc tế của các PSSMEs Việt Nam thì chính phủ cần phải làm giảm đi các nguyên nhân gây thiệt hại đó.



  1. Trình độ kỹ thuật công nghệ, chất lượng sản phẩm và dịch vụ

Các doanh nghiệp vừa và nhỏ được trang bị máy móc có nguồn gốc từ Liên Xô cũ, Trung Quốc, các nước Đông Âu, ASEAN, Bắc Âu và các nước khác thuộc các thế hệ khác nhau. Máy móc thiết bị, dây chuyền sản xuất lạc hậu so với thế giới từ 10 đến 20 năm. Trong điều kiện hiện nay, công nghệ đóng một vai trò quan trọng trong đo lường chất lượng sản phẩm và quyết định khả năng cạnh tranh của hàng hoá. Kỹ thuật và dây chuyền sản xuất lạc hậu sẽ gây khó khăn trong xây dựng hình ảnh sản phẩm trong lòng khách hàng, đặc biệt là khách hàng ngoài nước, những điểm nổi trội của sản phẩm. Tâm lý khách hàng nước ngoài rất coi trọng các ưu điểm của công nghệ sản xuất hiện đại như công nghệ “sạch”, thân thiện với môi trường. Các điểm này, về mặt tâm lý mà nói, không đi liền với hình ảnh các công nghệ sản xuất lạc hậu. Bên cạnh đó công nghệ lạc hậu còn khiến cho chi phí hao tổn trong quá trình sản xuất-kinh doanh tăng cao, hạn chế khả năng cạnh tranh bằng giá. Mà giá là vũ khí chính của các doanh nghiệp Việt Nam nói chung, các doanh nghiệp ASEAN nói riêng trong việc cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài.

Bên cạnh giá, chất lượng sản phẩm cũng là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường quốc tế. Tính đến cuối năm 1999 chỉ có khoảng 15% đạt tiêu chuẩn chất lượng xuất khẩu. Số lượng doanh nghiệp được cấp giấy chứng nhận đạt tiêu chuẩn ISO/9000 là 105 doanh nghiệp trong đó 70 doanh nghiệp Nhà nước (tất nhiên là ISO là dùng để đo chất lượng quản lý chứ không phải đo chất lượng sản phẩm nhưng nhiều trường hợp người ta nhìn nhận là sản phẩm của một dây chuyền sản xuất được quản lý tốt thì sẽ có chất lượng tốt). Hệ thống tiêu chuẩn chất lượng ngành và tiêu chuẩn chất lượng Việt Nam so với tiêu chuẩn quốc tế còn khá xa vời, do đó chưa có khả năng xây dựng những thương hiệu mạnh, có giá trị thương mại cao.

Đối mặt với tiến trình hội nhập kinh tế thế giới, các doanh nghiệp Việt Nam phải đáp ứng một nhánh thị trường mới bên cạnh thị trường các khách hàng trong nước: đó là các khách hàng nước ngoài. Thị trường mới này có yêu cầu và lựa chọn khác với thị trường trong nước cả về chất lượng hàng hoá, dịch vụ đến giá cả và hàm chứa những đối thủ cạnh tranh mới cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam là các tập đoàn tư bản lớn của nước ngoài cũng như các doanh nghiệp vừa và nhỏ của quốc gia mà doanh nghiệp Việt Nam định thâm nhập. Để đương đầu với thách thức mới này giá cả và chất lượng sản phẩm là những vũ khí chính và trực tiếp giúp các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam có thể tồn tại trong môi trường quốc tế với xu hướng toàn cầu hoá.


  1. Khả năng tiếp cận nguồn vốn

Do quy mô nhỏ, năng lực hạn chế nên các doanh nghiệp vừa và nhỏ dễ bị tổn thương trong cơ chế thị trường. Quy mô nhỏ tạo cho doanh nghiệp một số lợi thế nhưng lại khiến cho doanh nghiệp thiếu vốn mỗi khi muốn mở rộng sản xuất kinh doanh, thay đổi công nghệ. Đây là hiện tượng phổ biến và nghiêm trọng trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Tính khả thi của những định hướng chiến lược mở rộng sản xuất và nâng cấp quy trình công nghệ bị hạn chế, khiến cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ ít chủ động tính đến phương án này (nâng cấp công nghệ). Hậu quả là các doanh nghiệp loại hình vừa và nhỏ rất dễ bị tụt hậu về công nghệ.

Theo tính toán của các nhà nghiên cứu (Thị trường tài chính tiền tệ tháng 1 năm 2002) có tới 70% đến 80% số doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nước ta thiếu vốn sản xuất kinh doanh, cần đầu tư chiều sâu, trang bị mới máy móc, thiết bị, dự trữ nguyên vật liệu, nhưng do điều kiện vay vốn còn thiếu nên các ngân hàng thương mại không thể mở rộng cho vay vốn tín dụng. Rất nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ đang phải sử dụng nguồn vốn phi chính thức với lãi suất có thể cao hơn tới 3 đến 6 lần so với lãi suất tín dụng trong khu vực chính thức. Theo số liệu của Viện Nghiên cứu và Quản lý kinh tế Trung ương thì hệ thống tài chính chính thức chỉ đáp ứng được 25.6 % nhu cầu vay vốn của các doanh nghiệp tư nhân.



Bảng 2.13: Nguồn tín dụng của các doanh nghiệp vừa và nhỏ

Nguồn

Nông thôn

Thành thị

Tổng số

Tư nhân cho vay không lãi

39.4

47.3

42.3

Tư nhân cho vay có lãi

33.1

18.7

28.5

Các ngân hàng thương mại

22.5

23.1

22.7

Các quỹ tín dụng

3.5

1.2

2.6

Các nguồn cho vay khác.

1.5

9.7

3.9

Nguồn: Báo cáo kết quả nghiên cứu của Viện NCQLKTTW và UNIDO, 1997, tr 17-18

Việc tiếp cận nguồn tài chính của các doanh nghiệp vừa và nhỏ gặp nhiều khó khăn hơn so với các doanh nghiệp nhà nước. Do những hạn chế trong các thể lệ tín dụng, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh không thể tiếp cận được với các nguồn tín dụng để lập cơ sở kinh doanh mới của mình. Không có tài sản thế chấp là trở ngại chính đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong việc vay vốn tại Việt Nam. Thậm chí ngay cả khi các doanh nghiệp này có tài sản thế chấp thì cũng sẽ gặp nhiều khó khăn trong sử dụng tài sản thế chấp do những trở ngại trong việc xin giấy chứng nhận quyền sử dụng, kể cả những khó khăn về thủ tục công chứng và thủ tục định giá tài sản cầm cố , thế chấp. Mặt khác, chi phí giao dịch trong nghiệp vụ vay vốn của các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt Nam là rất cao. Vì vậy các doanh nghiệp vừa và nhỏ ngoài quốc doanh đang gặp khó khăn trong việc vay vốn tín dụng nói chung và vay vốn đầu tư trung và dài hạn nói riêng. Những thể chế tín dụng này rõ ràng là có sự phân biệt đối xử gây bất lợi cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, dành sự ưu tiên cho các doanh nghiệp nhà nước, bởi vì các doanh nghiệp nhà nước không cần phải có tài sản thế chấp cho các khoản vốn vay. Đó là một nhân tố đã đẩy các doanh nghiệp vừa và nhỏ ra khỏi thị trường tín dụng và hệ thống ngân hàng.

Nhân tố thứ hai ngăn cản sự tham gia vào thị trường tín dụng và hệ thống ngân hàng của các doanh nghiệp vừa và nhỏ đến từ bản thân doanh nghiệp. Thứ nhất, chi phí cho nghiệp vụ giao dịch cao, dẫn đến khả năng sinh lời thấp. Thứ hai, các ngân hàng đều coi các doanh nghiệp vừa và nhỏ là những khách hàng có độ rủi ro cao. Điều này là hậu quả của số lượng hạn chế các thông tin sẵn có về một doanh nghiệp nhỏ và mức chi phí để thu thập được lượng thông tin đó. Một doanh nghiệp lớn có mối quan hệ lâu dài chặt chẽ đối với một vài ngân hàng hoặc tổ chức tài chính nhất định, các hệ thống bên trong công ty sẽ được duy trì với các nguyên tắc điều hành tài chính chặt chẽ... Các doanh nghiệp nhỏ và vừa, nhìn chung, không làm được như vậy. Với mức rủi ro cao các ngân hàng yêu cầu mức thế chấp cao. Như vậy, các doanh nghiệp nhỏ và vừa rất khó đáp ứng yêu cầu này, dẫn đến là tỷ lệ cho vay của các ngân hàng thương mại dành cho khu vực này thấp.

Vì vậy các doanh nghiệp vừa và nhỏ, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ tư nhân phải dựa vào nguồn tín dụng phi chính thức. Các nguồn tài trợ ngắn hạn và dài hạn cho tư nhân chủ yếu đến tư nguồn vốn tự có, sau đó là vốn vay gia đình, người thân, bạn bè. Kết cục là chi phí vốn của doanh nghiệp lại càng cao hơn. Điều này ảnh hưởng đến kết quả hoạt động kinh doanh.

Một vấn đề thứ hai cần lưu ý là thị trường chứng khoán. Ở nước ngoài thị trường chứng khoán là nơi các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể huy động vốn thông qua phát hành cổ phiếu. Tuy nhiên ở Việt Nam, do thị trường chứng khoán chưa phát triển nên các tiêu chuẩn niêm yết rất nghiêm ngặt, cho nên tiềm năng huy động vốn trong nước của doanh nghiệp thông qua con đường này rất hạn chế.

Tóm lại, các khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn vay chính là nguyên nhân trực tiếp và đầu tiên cản trở quá trình hội nhập quốc tế của doanh nghiệp vừa và nhỏ khu vực tư nhân Việt Nam. Muốn đẩy mạnh hoạt động hội nhập quốc tế của các doanh nghiệp này thì vấn đề chính phủ phải giải quyết đầu tiên chính là làm sao để họ có thể vay dễ dàng hơn. Không có vốn thì các doanh nghiệp vừa và nhỏ có cố đến đâu cũng rất khó tiến ra thế giới.


Chương III:

Các giải pháp thúc đẩy các doanh nghiệp vừa và nhỏ khu vực tư nhân của Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế





  1. Lịch trình hội nhập quốc tế và tác động của nó tới việc hội nhập quốc tế của các PSSME của Việt Nam

Để gắn kết kinh tế Việt Nam với các nền kinh tế của các khu vực cũng như nền kinh tế toàn cầu, Chính phủ Việt Nam đã cam kết thực hiện các điều ước quốc tế, các Hiệp định Thương mại song phương và đa phương cũng như thực hiện các điều kiện để có thể tham gia vào các khối kinh tế khu vực và các tổ chức kinh tế toàn cầu. Ở đây chúng ta đang nói đến quá trình gia nhập của Việt Nam vào AFTA, WTO và Hiệp định thương mại song phương Việt-Mỹ.

Quá trình đó của Việt Nam như sau:



Năm 1986: Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ sáu đã mở đường cho chiến lược hội nhập và phát triển

Năm 1992: Quan sát viên ASEAN.

Năm 1995: Chính thức gia nhập ASEAN

Năm 1996: Triển khai thực hiện chương trình AFTA

Năm 1998: Thành viên APEC

Năm 2000: Ký kết Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ

Năm 2005: Phấn đấu trở thành thành viên của WTO

Dưới đây ta sẽ lần lượt xem xét ba quá trình : thực hiện AFTA, tham gia WTO và thực hiện Hiệp định Thương mại song phương Việt Nam - Hoa kỳ.



    1. Lịch trình hội nhập Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN

Vị trí địa lý của Việt Nam gần như nằm ở trung tâm khu vực Đông Nam Á. Vì vậy có thể thấy là ảnh hưởng của các nền kinh tế láng giềng nói riêng, nền kinh tế của cả khối ASEAN nói chung có một ảnh hưởng hết sức quan trọng tới sự phát triển bền vững của Việt Nam. Chính phủ Việt Nam đã ưu tiên lớn cho việc hội nhập kinh tế khu vực.

Với điểm mốc lịch sử 28/7/1995 Việt Nam được kết nạp làm hội viên chính thức của ASEAN. Việc tham gia của Việt Nam mang lợi ích cho cả hai phía: sự bền vững ổn định hơn nữa trong khu vực và uy tín ASEAN tăng lên trên diễn đàn quốc tế; đối với Việt Nam đó là các cơ hội phát triển kinh tế, các chương trình hợp tác phát triển, các bài học trong quá trình xây dựng... Bên cạnh đó điều này cũng mở đường cho Việt Nam gia nhập các hiệp định kinh tế khu vực như CEPT và AFTA.



Để có thể tham gia Hiệp định Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN Việt Nam phải thực hiện một loạt các cam kết, phần lớn liên qua đến việc giảm và loại bỏ các mức thuế nhập khẩu hàng hoá từ các nước ASEAN cũng như loại bỏ các hàng rào phi thuế quan. Năm 2001 đã có 712 hạng mục hàng hoá được chuyển từ Danh mục loại trừ tạm thời sang Danh mục loại trừ ngay, năm 2002 và 2003 con số này tương ứng là 500 và 700 hạng mục hàng hoá, hiện nay số lượng hàng hoá thuộc CEPT là 4233, chiếm 60% tổng số (6283) danh mục hàng hoá nhập khẩu của Việt Nam. Gần 5000 dòng thuế nhỏ hơn 20% được đưa vào Danh mục loại trừ ngay để thực hiện AFTA, nông sản (thô và sơ chế), đồ uống giải khát có thuế suất lớn hơn 20% đã được giảm xuống 20% trong năm 2001. Tháng 2/2001 Việt Nam đã công bố chính thức lịch trình cắt giảm thuế cho giai đoạn 2001-2006 cho tất cả các hạng mục hàng hoá thuộc Danh mục loại trừ ngay và loại trừ tạm thời.

Cam kết thực hiện AFTA của Việt Nam:




Lịch trình cắt giảm

  1. Thuế quan




  • Đối với hàng hoá thuộc danh mục loại trừ ngay: mức thuế giảm xuống còn từ 0-5%, cắt giảm theo 2 lộ trình:

1996 - 2006

- Cắt giảm bình thường: Thực hiện chủ yếu đối với các sản phẩm máy móc, thiết bị, sắt thép: mức thuế cao hơn 20% sẽ giảm xuống 20% vào tháng 1/2003 và tiếp tục giảm xuống 0-5% vào tháng 1/2006; mức thuế bằng/thấp hơn 20% giảm xuống 0-5% vào 2003

2001 - 2006

- Cắt giảm nhanh: gồm 15 nhóm sản phẩm như dầu thực vật, hoá phẩm phân bón, cao su, bột giấy, giấy, gỗ, sản phẩm mây đan... ; mức thuế cao hơn 20% phải giảm xuống 0-5% vào tháng 1/2003; mức thuế thấp hơn 20% phải giảm xuống 0-5% vào tháng 1/2001.

2001 - 2003

  • Đối với hàng hoá thuộc danh mục loại trừ tạm thời




- giảm mức thuế suất xuống còn 0-5%

1999 - 2006

- giảm 20% hàng năm và chuyển sang danh mục loại trừ ngay

1999 - 2003

  • Đối với danh mục nhạy cảm: giảm mức thuế suất xuống còn 0-5%

2018

  • Đối với các hạng mục hàng hoá thuộc Khuôn khổ hợp tác công nghiệp ASEAN giảm mức thuế suất xuống còn 0-5%

2015

  • Đối với các sản phẩm công nghệ thông tin, truyền thông giảm thuế suất xuống còn 0%

2003 - 2008

  1. Phi thuế quan




  • Đối với các hàng hoá thuộc danh mục loại trừ ngay và danh mục nhạy cảm các hàng rào phi thuế sau phải được dỡ bỏ:

1996 - 2006

- Hạn chế định lượng (quota, cấm nhập khẩu, giấy phép)

1996 - 2003

- Hạn chế ngoại hối liên quan đến việc chi trả hàng hoá

1996

- Các khoản phụ thu hải quan dưới thuế

1996 - 1999

- Hàng rào phi thuế quan khác

1996 - 2006

  • Đối với các sản phẩm công nghệ thông tin, truyền thông: tất cả các hàng rào phi thuế quan phải được dỡ bỏ.

2003-2008


    1. Lịch trình tham gia vào Tổ chức Thương mại Thế giới WTO

Tổ chức Thương mại Thế giới được thành lập và chính thức đi vào hoạt động ngày 1/1/1995, là sự kế thừa và phát triển của GATT (Hiệp định chung về thương mại và thuế quan)-một tổ chức được thành lập từ năm 1948, nhằm thúc đẩy tự do ngoại thương và không áp dụng chính sách phân biệt đối xử trong quan hệ thương mại.

Với hai nguyên tắc lớn là không phân biệt đối xử trong quan hệ thương mại giữa các nước và thực hiện bảo hộ sản xuất bằng thuế quan, WTO đảm nhận các chức năng hoạt động chủ yếu sau:

 Tổ chức các cuộc đàm phán mậu dịch đa biên nhằm thúc đẩy quá trình tự do hoá mậu dịch giữa các quốc gia

 Xây dựng các quy tắc quốc tế mới về thương mại và tổ chức thực hiện các quy tắc đó. Các nước đã ký kết và thừa nhận các hiệp định của WTO đều phải thực hiện các quy tắc này. Theo Hiệp định, các nước thành viên của WTO cắt giảm 38% thuế nhập khẩu, đưa mức thuế trung bình toàn cầu từ 5% giảm xuống còn 3% trong 10 năm tới, dự tính đến năm 2005 lượng trao đổi hàng hoá tăng 12% (tương đương 755 tỷ USD) và GDP của thế giới tăng 235 tỷ USD/năm.

 Giải quyết các mâu thuẫn và tranh chấp mậu dịch quốc tế.

 Phát triển kinh tế thị trường.

Tuy nhiên trên thực tế do sự phát triển kinh tế không đồng nhất nên việc vận dụng các quy tắc và quy chế cũng có sự điều chỉnh thích hợp, đặc biệt là một số ưu đãi dành cho các quốc gia đang phát triển như miễn giảm hoặc bãi bỏ nghĩa vụ và cung cấp các điều kiện thuận lợi khác tuỳ theo mức độ phát triển của mỗi quốc gia. Cụ thể:

 Các nước đang phát triển hoặc kém phát triển được giảm hoặc miễn nghĩa vụ khi thực hiện những nghĩa vụ của những hiệp định mới về sở hữu trí tuệ hay các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại, các nước đang phát triển được kéo dài thời gian thực hiện hơn các nước tiên tiến.

 Các nước đang phát triển có thể áp dụng mức thuế quan cao hơn mức của các nước phát triển trong các thoả thuận quốc tế về thuế quan.

 WTO áp dụng hệ thống ưu đãi chung cho các nước đang phát triển và hệ thống ưu đãi cho các nước kém phát triển. Theo đó các nước phát triển áp dụng mức thuế thấp cho hàng hoá nhập khẩu từ các nước đang phát triển/kém phát triển, thậm chí có trường hợp mức thuế này thấp hơn cả mức thuế theo tối huệ quốc.

 WTO kế thừa GATT thực hiện nguyên tắc “có đi có lại”, theo đó nước nào có trình độ phát triển kinh tế càng thấp thì phải chịu mức độ và phạm vi của nghĩa vụ và bồi thường càng ít.

Nhận thức tầm quan trọng của quá trình tham gia WTO, từ cuối thập kỉ 80 Việt Nam đã làm quan sát viên một phần của tổ chức GATT. Ngày 20/7/1994 Việt Nam là quan sát viên chính thức của GATT, tạo điều kiện cho nước ta tham dự tất cả các cuộc hội nghị của Tổ chức Thương mại Quốc tế, tiếp cận thuận lợi hơn với thị trường thế giới thúc đẩy quan hệ buôn bán quốc tế.



Để có thể tham dự thực sự vào hoạt động thương mại thế giới cùng với các thành viên khác và trở thành thành viên của WTO, các thủ tục và tiến trình gia nhập WTO của Việt Nam gồm 6 giai đoạn sau:

      • Giai đoạn 1: Nộp đơn gia nhập.

      • Giai đoạn 2: Gửi “Bị vong lục về chế độ ngoại thương của Việt Nam” tới Ban công tác. Bị vong lục giới thiệu tổng quan về nền kinh tế: chính sách vĩ mô, cơ sở hoạch định và thực thi chính sách cùng với thông tin chi tiết về chính sách liên quan tới thương mại hàng hoá dịch vụ và quyền sở hữu trí tuệ.

      • Giai đoạn 3: Làm rõ chính sách thương mại. Đến nay Ban công tác đã tổ chức 3 phiên họp tại trụ sở WTO tại Giơnevơ-Thuỵ sĩ, hai lần vào năm 1998, và một lần vào tháng 7 năm 1999 để đánh giá tình hình chuẩn bị và để Việt Nam trực tiếp giải thích chính sách.

      • Giai đoạn 4: Đưa ra bản chào ban đầu và tiến hành đàm phán song phương. Các bản chào ban đầu bao gồm: Bản chào ban đầu về thuế, là dự kiến thuế suất thuế nhập khẩu cho tất cả các mặt hàng ta định cam kết ràng buộc khi là thành viên. Bản chào ban đầu về loại bỏ các hàng rào phi thuế: dự kiến lộ trình loại bỏ các hàng rào phi thuế như cấm nhập khẩu, hạn ngạch nhập khẩu và các biện pháp hạn chế định lượng nhập khẩu khác. Bản chào ban đầu về dịch vụ: dự kiến những lĩnh vực dịch vụ cho phép các nhà đầu tư nước ngoài tham gia và các điều kiện kinh doanh, như hình thức cung cấp dịch vụ (chi nhánh, văn phòng đại diện), mức vốn, số lao động, yêu cầu về bằng cấp... Gia nhập WTO Việt Nam có quyền tiếp cận với thị trường của tất cả các nước thành viên khác trên nguyên tắc MFN. Tuy nhiên để có được quyền lợi đó, Việt Nam cũng phải cam kết chấp nhận nguyên tắc đa biên, giảm bảo hộ bằng việc cam kết thuế xuất nhập khẩu tối đa và lộ trình loại bỏ các hàng rào phi quan thuế. Đồng thời phải mở cửa cho các nhà đầu tư nước ngoài tham gia kinh doanh trong nhiều lĩnh vực dịch vụ với điều kiện thông thoáng hơn, đặc biệt là một số lĩnh vực đang được chú ý như: viễn thông, tài chính ngân hàng, xây dựng, vận tải. Mức độ mở cửa cũng được tiến hành thông qua đàm phán song phương với mọi thành viên quan tâm đến thị trường Việt Nam.

      • Giai đoạn 5: Hình thành nghị định thư. Khi mọi thủ tục đã hoàn tất và đơn xin gia nhập đã được chấp thuận (với sự chấp thuận của 2/3 số nước thành viên) nghị định thư gia nhập sẽ được đàm phán. Nghị định thư này sẽ quy định các điều kiện về tư cách hội viên. Trong một số trường hợp có thể có các điều kiện đặc biệt.

      • Giai đoạn 6: Phê chuẩn Nghị định thư.

Qua 4 vòng đàm phán kể từ 7/1998, Việt Nam đã hoàn tất việc công bố làm rõ chính sách kinh tế, thương mại với các nước thành viên WTO, tháng 12/2001 bản chào đầu đã được Chính phủ Việt Nam phê duyệt và gửi cho Ban Thư ký WTO. Theo mục tiêu phấn đấu Việt Nam có thể được gia nhập WTO vào năm 2004. Hiện nay (tháng 5/2003) Chính phủ tuyên bố đã hoàn thành 5 vòng đàm phán và đang chính thức tiến vào giai đoạn 6.

    1. Hiệp định song phương Việt-Mỹ

Các dấu mốc lịch sử trong mối quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ

14/12/1992 - Mỹ cho phép các công ty mở văn phòng đại diện tại Việt Nam.

3/2/19994 - Lệnh bãi bỏ cấm vận kinh tế đối với Việt Nam có hiệu lực.

11/7/1995 - Thiết lập mối quan hệ ngoại giao hai nước.

21-26/9/1996 - Vòng đàm phán thương mại đầu tiên giữa hai nước.

13/7/2000 - Ký Hiệp định Thương mại Việt-Mỹ trên cơ sở nguyên tắc WTO.

1/1/2001 - Hiệp định Thương mại song phương Việt - Mỹ có hiệu lực.

Hoa kỳ là một quốc gia có vị thế chiến lược, có ảnh hưởng và khả năng chi phối đến chiến lược phát triển thương mại toàn cầu, một quốc gia có nhiều điểm nhạy cảm trong quan hệ với Việt Nam, đã triển khai chương trình bình thường hoá quan hệ với Việt Nam và Hiệp định thương mại Việt-Mỹ chính thức có hiệu lực từ ngày 10/12/2001 là kết quả tốt đẹp của quan hệ hợp tác này. Thời kì 1991-1995 cơ cấu thị trường xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ chỉ chiếm 1%, đến năm 2000 đã tăng lên đến 8% và dự kiến năm 2010 và 2020 tương ứng là 12% và 15%.

Nhằm thúc đẩy quan hệ thương mại Việt-Mỹ, ngày 12/3/2002 Chính phủ Việt Nam đưa ra Chương trình hành động, khuyến khích các doanh nghiệp phát triển quan hệ với thị trường Mỹ, với 8 nội dung quan trọng là: phổ biến Hiệp định, rà soát các văn bản pháp luật, lộ trình mở cửa thị trường và nâng cao năng lực cạnh tranh, kiểm tra hàng hoá xuất nhập khẩu và bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, xúc tiến thương mại, đầu tư, an ninh quốc phòng, đào tạo nguồn nhân lực và tổ chức. Việc mở rộng mối quan hệ thương mại Việt-Mỹ là bước phát triển đầy triển vọng, tiến đến mục tiêu gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới.

Những điều khoản trong Hiệp định Thương mại Việt-Mỹ đặt ra trước các doanh nghiệp Việt Nam nói chung, các doanh nghiệp vừa và nhỏ khu vực tư nhân nói riêng những thách thức không nhỏ trong việc mở rộng thị trường đã có ở trong nước và tiến ra thị trường Mỹ.



Cam kết mở cửa dịch vụ trong Hiệp định Thương mại Việt-Mỹ

Về viễn thông: đối với các dịch vụ viễn thông giá trị gia tăng, liên doanh với các đối tác Việt Nam được phép kinh doanh sau 2 năm (sau 3 năm nếu với dịch vụ Internet) kể từ khi Hiệp định có hiệu lực và phần vốn góp của phía Hoa Kì không quá 50% vốn pháp định của liên doanh. Đối với các dịch vụ viễn thông cơ bản, liên doanh với đối tác Việt Nam được phép kinh doanh sau 4 năm và phần vốn góp của phía Hoa Kỳ không quá 49% vốn pháp định của liên doanh. Đối với các dịch vụ điện thoại cố định liên doanh với các đối tác Việt Nam được phép kinh doanh sau 6 năm và phần vốn góp của phía Hoa Kỳ không quá 49% vốn pháp định của liên doanh.

Về bảo hiểm nhân thọ và các lĩnh vực không bắt buộc khác: sau 3 năm kể từ khi Hiệp định có hiệu lực, phía Hoà Kỳ được lập liên doanh với các đối tác Việt Nam được phép kinh doanh các dịch vụ này và phần vốn góp của phía Hoa Kỳ không quá 50% vốn pháp định của liên doanh. Sau 5 năm Hiệp định có hiệu lực thì các đối tác Hoa Kỳ được lập công ty 100% vốn pháp định.

Về dịch vụ ngân hàng và tài chính: sau 3 năm kể từ khi Hiệp định có hiệu lực liên doanh với đối tác Việt Nam được phép hoạt động.

Về việc thành lập ngân hàng liên doanh: sau 9 năm kể từ khi Hiệp định có hiệu lực các ngân hàng Hoa kỳ được lập các ngân hàng con 100% vốn Hoa Kỳ tại Việt Nam. Trong vòng 9 năm đó, các ngân hàng Hoa Kỳ được lập liên doanh với đối tác Việt Nam, trong đó phần vốn góp của phía Hoa Kỳ không dưới 30% nhưng không vượt quá 49% vốn pháp định. Trong vòng 8 năm đầu kể từ khi Hiệp định có hiệu lực, Việt Nam có quyền hạn chế quyền của một chi nhánh ngân hàng Hoa Kỳ nhận tiền gửi bằng đồng Việt Nam từ các pháp nhân Việt Nam mà ngân hàng không có quan hệ tín dụng theo mức vốn pháp định của chi nhánh phù hợp với biểu thời gian. Sau thời gian đó hạn chế bị bãi bỏ.

Nguồn: VER tháng 1/1999






  1. Các giải pháp thúc đẩy các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế

Nhằm để khắc phục khó khăn cho các doanh nghiệp tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế, thúc đẩy hơn nữa tốc độ và tính hiệu quả của quá trình này, Nhà nước và các doanh nghiệp cũng đã chủ động đưa ra các giải pháp sau đây. Các biện pháp này vừa dành cho Nhà nước để sửa đổi những bất cập trong cơ chế chính sách của mình vừa dành cho doanh nghiệp để doanh nghiệp có thể cải thiện trạng thái vốn có của mình nhằm hội nhập và tồn tại được trong một môi trường có tính quốc tế hoá cao và độ cạnh tranh ngày càng tăng.

  1. Các biện pháp thuế quan

Các sắc thuế đánh vào các mặt hàng xuất khẩu đang gây ảnh hưởng xấu tới các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Nó làm tăng chi phí hàng hoá dẫn đến giảm sức cạnh tranh của sản phẩm Việt Nam trên trường quốc tế. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ khi cạnh tranh với nước ngoài phải dựa vào mức giá thấp của hàng hoá, vì vậy các sắc thuế xuất khẩu ảnh hưởng đến các doanh nghiệp vừa và nhỏ nhiều hơn các doanh nghiệp lớn. Kiến nghị : miễn giảm thuế tối đa đối với mọi mặt hàng xuất khẩu, kể cả các mặt hàng và dịch vụ “xuất khẩu tại chỗ” (ví dụ như thực hiện các dịch vụ cho một tổ chức và cá nhân nước ngoài, thanh toán bằng ngoài tế và được chuyển từ nước ngoài vào).

Thuế nhập khẩu: các mặt hàng nhập khẩu của Việt Nam có một phần quan trọng là các nguyên liệu vật tư và máy móc thiết yếu cho sản xuất kinh doanh và các doanh nghiệp cải tạo nâng cấp công nghệ. Các thuế nhập khẩu đánh vào các mặt hàng này sẽ làm tăng chi phí sản xuất, giới hạn khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam. Bởi vậy nên đề nghị cắt giảm sớm thuế nhập khẩu các mặt hàng là nguyên vật liệu phục vụ sản xuất xuất khẩu, máy móc, phụ tùng để nâng cấp cải tiến công nghệ; xóa bỏ cách đánh thuế dựa trên mục đích sử dụng; giảm số thuế và mức thuế.

Cơ chế tài chính kế toán đơn giản để các doanh nghiệp vừa và nhỏ dễ nộp thuế:

Các chính sách thuế ở Việt Nam không tạo ra ưu đãi cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Phương thức thu thuế áp dụng cho các loại hình doanh nghiệp ngày là phương thức thu thuế khoán do sổ sách kế toán ở các hộ kinh doanh của các hộ kinh doanh cá thể thực sự nghèo nàn. Theo số liệu thống kê của Tổng cục thuế, trong năm 2001, cả nước mới có 112 500 hộ kinh doanh cá thể lớn thực hiện chế độ kế toán hộ kinh doanh, tỷ lệ 85% số hộ kinh doanh phải thực hiện chế độ kế toán. Hệ thống sổ sách kế toán áp dụng cho các hộ kinh doanh cá thể là một trong những cản trở không cho phép các doanh nghiệp này tiếp cận các ưu đãi từ các chương trình quốc gia (mặc dù hệ thống này được Bộ Tài chính ban hành nhưng lại không được coi là chính thức).

Các tiêu chí để áp dụng mức thuế cũng không rõ ràng.

Hy vọng rằng các giải pháp thuế quan này sẽ làm giảm bớt chi phí không đáng có của các doanh nghiệp vừa và nhỏ khu vực tư nhân của Việt Nam, giúp các doanh nghiệp này hoạt động có hiệu quả hơn trong môi trường quốc tế.



  1. Giảm thiểu sự quản lý quá mức của nhà nước đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ

Thanh tra kiểm tra:

Như đã nói ở trên, trong ba loại hình doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, thì lạo hình doanh nghiệp vừa và nhỏ, đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ tư nhân bị thanh tra kiểm tra nhiều nhất. Các cuộc thanh tra kiểm tra đó, không chỉ chồng chéo lên nhau gây lãng phí cho xã hội, chúng còn ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp . Đề nghị các cơ quan Nhà nước xem xét và tìm cách áp dụng một cách thích hợp kinh nghiệm của các nước khác trong vấn đề thanh tra, kiểm tra. Đặc biệt là kinh nghiệm của Nhật Bản trong vấn đề này: các doanh nghiệp nhỏ và vừa của Nhật Bản tự nguyện xin được thanh tra và các thanh tra viên giúp họ chuẩn đoán công việc kinh doanh, khắc phục các vấn đề đang nẩy sinh và sắp nẩy sinh để tránh những hậu quả ngoài ý muốn.



Каталог: luanvan
luanvan -> ĐẠi học quốc gia hà NỘi trưỜng đẠi học khoa học tự nhiên nguyễn Thị Hương XÂy dựng quy trình quản lý CÁc công trìNH
luanvan -> Phần mở đầu Tính cấp thiết của đề tài
luanvan -> Như mọi quốc gia trên thế giới, bhxh việt Nam trong những năm qua được xem là một trong những chính sách rất lớn của Nhà nước, luôn được sự quan tâm và chỉ đạo kịp thời của Đảng và Nhà nước
luanvan -> TS. NguyÔn Lai Thµnh
luanvan -> Luận văn Cao học Người hướng dẫn: ts. Nguyễn Thị Hồng Vân
luanvan -> 1 Một số vấn đề cơ bản về đất đai và sử dụng đất 05 1 Đất đai 05
luanvan -> Lê Thị Phương XÂy dựng cơ SỞ DỮ liệu sinh học phân tử trong nhận dạng các loàI ĐỘng vật hoang dã phục vụ thực thi pháp luật và nghiên cứU
luanvan -> TRƯỜng đẠi học khoa học tự nhiên nguyễn Hà Linh
luanvan -> ĐÁnh giá Đa dạng di truyền một số MẪu giống lúa thu thập tại làO
luanvan -> TRƯỜng đẠi học khoa học tự nhiêN

tải về 0.77 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương