Bảng chữ viết tắt



tải về 0.77 Mb.
trang4/8
Chuyển đổi dữ liệu21.08.2016
Kích0.77 Mb.
#24874
1   2   3   4   5   6   7   8

THU HÚT LAO ĐỘNG


(%)

GIÁ TRỊ GIA TĂNG

(%)


Singapore

35.2

26.6

Malaysia

47.8

36.4

Hàn Quốc

37.2

21.1

Nhật Bản

55.2

38.8

(Albert Bery: Các hoạt động kinh doanh vừa và nhỏ dưới tác động của tự do hoá thương mại và tỷ giá: kinh nghiệm của Canada và Mỹ Latinh, 1996)

                1. Cung cấp cho xã hội một khối lượng hàng hoá đáng kể về cả chất lượng, số lượng và chủng loại

Các công ty, doanh nghiệp vừa và nhỏ thu hút một lượng lớn lao động và tài nguyên của xã hội để sản xuất ra hàng hoá. Để có thêm sức cạnh tranh trực tiếp với các công ty và tập đoàn lớn, hàng hoá của họ nói chung thiên về sự đa dạng về chất lượng và chủng loại, tạo cho người tiêu dùng có nhiều cơ hội được lựa chọn. Bên cạnh đó họ cũng tiến vào nhiều thị trường nhỏ mà các công ty lớn bỏ qua vì doanh thu từ đó quá nhỏ.

                1. Gieo mầm cho các tài năng quản trị kinh doanh

Một số những người có tài trong quản trị kinh doanh không muốn làm việc trong các công ty lớn mà muốn mở công ty riêng để tiện đường vùng vẫy. Các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ rất thích hợp đối với họ trong việc thử sức của mình. Bên cạnh đó các công ty tư nhân lớn nói chung đều xuất phát từ các công ty nhỏ đi lên. Tập đoàn Microsoft của tỷ phú Bill Gates cũng do ông ta xây dựng dần lên. Ông ta vào lúc 20 tuổi vẫn còn là một người chưa có nhiều tài sản, bỏ học đại học để mở doanh nghiệp riêng của mình. Chưa đầy 30 năm sau đã trở thành người giàu nhất thế giới, là một điển hình của người làm giàu dựa vào năng lực của mình.

Các công ty nhỏ là còn là nơi huấn luyện nguồn nhân lực cho các công ty lớn. Các nhân viên sẽ học được những kỹ năng ban đầu về quản lý rất cần thiết, được công ty lớn đánh giá cao như là:



        • Quan hệ với khách hàng

        • Kiểm soát và quản lý nhân viên

        • Quy định xuất nhập khẩu

        • Quản lý thời gian

        • Công nghệ thông tin hiện đại

        • Điều hành văn phòng

        • Các quy định về thuế

        • Hậu cần

        • Hệ thống cung cấp và phân phối

        • Bán hàng và tiếp thị

        • Luật lệ công ty

        • Xúc tiến sản phẩm và dịch vụ

        • Bán hàng

        • Định giá và lợi nhuận

        • Quan hệ với quan chức chính phủ

Đây là các kỹ năng cần thiết cho công việc ở các công ty lớn và việc đào tạo chúng cho người lao động cần thời gian. Các doanh nghiệp nhỏ sẽ thực hiện “hộ” khâu này. Nhân viên công ty nhỏ sau một thời gian có được kinh nghiệm rồi sẽ được các công ty lớn thu nhận.

  1. Tăng nguồn tiết kiệm và đầu tư cho dân địa phương

Nhìn chung các doanh nghiệp vừa và nhỏ được mở ra ở địa phương nào đều có công nhân và chủ doanh nghiệp là người ở địa phương đó. Khi các doanh nghiệp loại đó được mở ra thì người dân lao động ở địa phương có công ăn việc làm, có nguồn thu nhập. Kết cục là quỹ tiền tiết kiệm-đầu tư của địa phương đó được bổ sung.

  1. Làm cho nền kinh tế năng động và hiệu quả hơn

Các công ty lớn và các tập đoàn không có được tính năng động của các đơn vị kinh tế nhỏ hơn chúng vì một nguyên nhân đơn giản là quy mô của chúng quá lớn. Quy luật của vật lý là khối lượng một vật càng lớn thì quán tính của nó càng lớn. Cũng vậy, các đơn vị kinh tế càng to lớn thì càng thiếu tính linh hoạt, thiếu khả năng phản ứng nhanh, nói cách khác là sức ì càng lớn.Một nền kinh tế đặt một tỷ lệ quá lớn nguồn lao động và tài nguyên vào tay các doanh nghiệp quy mô lớn sẽ trở nên chậm chạp, không bắt kịp và phản ứng kịp với các thay đổi trên thị trường. Ngược lại, một nền kinh tế có một tỷ lệ thích hợp các doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ trở nên “nhanh nhẹn” hơn, phản ứng kịp thời hơn. Tính hiệu quả của nền kinh tế sẽ được nâng cao.

  1. Cải thiện mối quan hệ giữa các khu vực kinh tế khác nhau

  2. Phát huy và tận dụng các nguồn lực địa phương, góp phần tăng trưởng kinh tế

Một nền kinh tế bao giờ cũng có “vùng biên giới”, “vùng sâu”, “vùng xa”. Đó là các khu vực địa lý hoặc các thị trường có quy mô nhỏ, kém phát triển, hoặc là xa tuyến giao thông, thiếu tài nguyên... Các công ty lớn thường bỏ qua các khu vực đó vì cho rằng nguồn lợi thu được từ đó không lớn bằng nguồn lợi thu được từ nơi khác với cùng một chi phí bỏ ra, nói cách khác là chi phí cơ hội của vùng đó cao. Nếu một nền kinh tế chỉ có các doanh nghiệp lớn thì điều này sẽ dẫn đến một sự phát triển không đều giữa các vùng, không tận dụng hết tài nguyên và giảm hiệu quả hoạt động của nền kinh tế cũng như gây ra các thiệt hại tiềm tàng cho nền kinh tế. Tuy nhiên đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ thì chi phí cơ hội của các vùng này là chấp nhận được, xứng đáng với nguồn lợi thu lại. Vì vậy họ sẵn sàng hoạt động ở đây nếu có các chính sách ưu đãi thích hợp của chính quyền địa phương.

  1. Giữ gìn và phát huy các ngành nghề truyền thống, thể hiện bản sắc dân tộc

Trong quá trình hiện đại hoá, công nghiệp hoá các ngành nghề truyền thống đang đứng trước sự cạnh tranh khốc liệt, giữa chế tạo sản phẩm thủ công với sản xuất dây chuyền hàng loạt. Một ví dụ như: thợ đóng giày có thể đóng những đôi giày rất bền dùng được hàng năm không hỏng . Nhưng trong thời hiện đại phải đối mặt với các xí nghiệp sản xuất giày có sản phẩm không bền lắm, đổi mới theo mùa và giá rẻ hơn so với giày thủ công. Một thợ thủ công hay vài người thì không thể đương đầu được với các doanh nghiệp lớn đó. Muốn tồn tại được các thợ thủ công phải hợp nhau lại thành lập doanh nghiệp, sau đó quảng cáo xa rộng để tìm đến các khách hàng tiềm năng của các sản phẩm thủ công. Trong xã hội luôn tồn tại nhu cầu đối với các sản phẩm truyền thống, vấn đề là phải làm cho những khách hàng đó biết đến sản phẩm của mình.

Loại hình doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể nói là rất thích hợp cho sản xuất thủ công. Các ngành nghề truyền thống có thể dựa vào đó để sản xuất, kinh doanh, quảng cáo. Bên cạnh đó công nghệ tiên tiến cũng sẽ dần tiếp cận vào các ngành nghề này. Và đó cũng là một điều cần phải xẩy ra trong thời đại công nghiệp.



Cụ thể hơn ta hãy hình dung một cảnh như sau: một số thợ đóng giày hợp nhau lại thành một doanh nghiệp. Trong thành phố địa phương của họ chỉ có một số nhỏ khách hàng ưa thích loại giày đóng thủ công và sẵn sàng trả giá (dù là cao) để đi loại giầy này cầu nhỏ. Doanh nghiệp đó đáp ứng được nhu cầu đó. Sau đó doanh nghiệp tiến hành một chiến dịch quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng và trên Internet. Sau một thời gian các khách hàng có nhu cầu tương tự ở tại các thành phố khác trong cả nước liên lạc đặt mua. Tiếp sau nữa là các khách hàng nước ngoài ưa thích kiểu dáng giày quảng cáo trên Internet cũng liên lạc đặt mua. Bên cạnh đó các nghệ nhân cũng sử dụng thêm một số công nghệ mới để hỗ trợ thêm cho việc chế tạo giày như là dùng máy tính để tạo hình sản phẩm trước,... Trong quá trình phát triển đó họ tiếp cận và làm quen với các kỹ thuật và công nghệ mới. Tuy khách hàng địa phương của họ không nhiều nhưng khách hàng trên toàn cầu chiếm một lượng đủ để họ tồn tại được trước thách thức của những đôi giày hiện đại giá rẻ rất mốt được sản xuất hàng loạt kia.

  1. Pháp luật chi phối doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam

Bảng 1.3: Hệ thống các nhóm văn bản luật pháp trực tiếp liên quan doanh nghiệp vừa và nhỏ

Tên của luật và chính sách

Luật bị thay thế

Nội dung chính

Nghị định số 90/NĐ-CP về chính sách trợ giúp phát triển các doanh nghiệp nhỏ và vừa (2001)




Nghị định đưa ra một chính sách đặc biệt đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa, là chính sách hỗ trợ bổ sung cho phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Việt Nam

Luật Doanh nghiệp (1999)

Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp tư nhân (21-12-1990), Nghị định số 66/HĐBT ngày 2-3-1992 cho các hộ kinh doanh cá thể

Luật Doanh nghiệp 1999 và Nghị định số 02/2000 hướng dẫn việc thực thi Luật Doanh nghiệp, đưa ra khuôn khổ pháp lý hiện đại đầu tiên cho tất cả các doanh nghiệp đăng ký kinh doanh trong nước: Luật quy định việc thành lập các công ty qua việc đăng ký kinh doanh tự giác, hơn là thông qua phê chuẩn và cấp phép của chính phủ.

Luật Phá sản Doanh nghiệp (1993)




Luật quy định cơ sở để đánh giá các doanh nghiệp bị phá sản, các thủ tục yêu cầu và tuyên bố phá sản doanh nghiệp

Luật Thuế giá trị gia tăng

Luật Thuế doanh thu

Luật này xác định mức thuế giá trị gia tăng, là mức thuế tính trên giá trị hàng hoá và dịch vụ trong quá trình sản xuất, lưu thông và tiêu dùng.

Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp (1999)

Luật Thuế lợi tức

Các đối tượng chịu thuế thu nhập của doanh nghiệp được quy định bởi luật này là thu nhập của tổ chức và cá nhân có hoạt động sản xuất và kinh doanh. Tỷ lệ thuế thu nhập của doanh nghiệp theo quy định của Luật là 32 % ngoại trừ một số trường hợp đặc biệt.

Bộ luật Lao động (1999), Nghị định 77/2000/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 1-1- 2001




Bộ luật Lao động điều chỉnh các mối quan hệ lao động tại doanh nghiệp. Mức lương tối thiểu trong các doanh nghiệp ở Việt Nam là 210 000 VNĐ

Luật khuyến khích đầu tư trong nước (1994)




Xác định những ưu đãi đầu tư trong nước vào các vùng có khó khăn về kinh tế-xã hội và các hoạt động kinh tế chiến lược, bao gồm về đầu tư tạo nhiều việc làm mới.

Luật Thương mại (1997)




Văn bản luật pháp quy định hoạt động thương mại tại Việt Nam

Sắc lệnh về hợp tác chuyển giao công nghệ (1998). Nghị định 45/1998/NĐ-CP




Khuôn khổ pháp lý đầu tiên cho hoạt động chuyển giao công nghệ, quy định những chi tiết của việc chuyển giao công nghệ.



  1. Hội nhập quốc tế:

Trong phần này em cố gắng trình bày các khái niệm về các hình thức hội nhập trong đó có hội nhập kinh tế. Trên thực tế các khái niệm này còn gây rất nhiều tranh cãi và bất đồng, chưa có được một ý kiến thống nhất. Vì vậy các ý kiến của em đưa ra có thể hơi thiếu một sự nhất trí.

              1. Sơ lược về hội nhập quốc tế:

Hội nhập là một phạm trù quan hệ lịch sử quốc tế. Nó vừa là trạng thái vừa là quá trình. Mặc dù có nhiều bất đồng về khái niệm này nhưng người ta nhất trí rằng Hội nhập Quốc tế có 3 mặt chính:

        • Hội nhập kinh tế

        • Hội nhập văn hoá

        • Hội nhập chính trị

Hội nhập kinh tế được hiểu một cách chung nhất là xoá bỏ sự khác biệt về kinh tế giữa các nền kinh tế thuộc các quốc gia khác nhau.

“Hội nhập chính trị là sự hội nhập của các chủ thể chính trị hay các đơn vị chính trị...” theo Karl W.Deutsch. Kết quả của quá trình này là một đơn vị chính trị thống nhất thay cho nhiều đơn vị chính trị riêng lẻ trước kia. Liên minh Châu Âu là một có thể nói là một ví dụ

Hội nhập văn hoá có thể được hiểu là một quá trình xoá bỏ dần các điểm dị biệt của các nền văn hoá để đi đến hình thành một nền văn hoá chung, văn hoá toàn cầu, mà không tiêu diệt hoàn toàn các nền văn hoá bản địa đặc sắc.


  1. Hội nhập quốc tế đối với doanh nghiệp:

Hội nhập là một quá trình cũng như một trạng thái. Đối với doanh nghiệp, quá trình này gồm nhiều bước tiến hành, nhiều trạng thái cần đạt tới.

Trong hội nhập kinh tế có nhiều mặt có liên quan tới hoạt động, tồn tại và phát triển của doanh nghiệp như là:



            • Thương mại quốc tế

            • Đầu tư quốc tế

            • Cạnh tranh quốc tế:

C
ạnh tranh diễn ra giữa các doanh nghiệp địa phương, doanh nghiệp nước ngoài, các đối thủ nước sở tại và các đối thủ nước thứ ba.

            • Phân công lao động quốc tế: hoạt động kinh doanh với mức độ chuyên biệt cao, tận dụng sự khác biệt về lợi thế tương đối và lợi thế tuyệt đối giữa các nền kinh tế để sản xuất các thành phần của sản phẩm sao cho có lợi nhất. Kết quả của quá trình là một doanh nghiệp đa quốc gia sản xuất các thành phần của sản phẩm của mình ở nhiều nước để có được chi phí thấp nhất.

            • Thị trường toàn cầu: hoạt động của doanh nghiệp sẽ tiến đến mức coi cả thế giới là một thị trường khổng lồ thống nhất. Các sản phẩm sản xuất ra sẽ tính đến phản ứng của khách hàng nhiều nước nhiều khu vực trên thế giới, đặc biệt là các sản phẩm bán qua mạng Internet như là sản phẩm phần mềm và phần cứng máy tính (software và hardware)... Biến động của một số các nhà sản xuất của một quốc gia có thể ảnh hưởng đến tổng cung của toàn thế giới. (Ví dụ minh hoạ: người tiêu dùng hàng máy tính nói chung nếu để ý đều thấy có mối liên hệ này trong lĩnh vực phần cứng máy tính. Nếu các nhà sản xuất máy tính Đài Loan gặp phải tai nạn như là thiên tai, bão lớn thì giá máy tính trên thế giới đều tăng rõ rệt trường hợp năm 2000-2001).

Hội nhập văn hoá:

Vấn đề có liên quan đến hội nhập văn hoá trong doanh nghiệp là vấn đề Văn hoá công ty-văn hoá đa quốc gia.

Trong điều kiện hình thành các doanh nghiệp đa quốc gia, diễn ra các hoạt động thương mại đầu tư quốc tế, một kết quả tất yếu là sẽ hình thành các đội ngũ nhân viên đa quốc tịch trong một công ty. Đây là nơi thử nghiệm đầu tiên cho khái niệm văn hoá toàn cầu và văn hoá đa quốc gia mà sự tồn tại của nó nhằm để thoả mãn yêu cầu hoạt động kinh doanh một cách trôi chẩy của một doanh nghiệp. Một doanh nghiệp, một đội ngũ nhân viên có cách thức thu xếp sao cho các thành viên thuộc các nền văn hoá khác nhau có thể hoạt hoạt động, sống cạnh nhau, tồn tại và phát triển, thì doanh nghiệp đó, đội ngũ nhân viên đó có thể hoạt động tốt hơn các doanh nghiệp khác có cùng điều kiện. Các doanh nghiệp không thoả mãn được việc hình thành môi trường văn hoá đa quốc gia bên trong công ty của mình sẽ hoạt động kém hiệu quả, nhiều trường hợp phải đưa nhân viên từ nước mình ra nước ngoài để thành lập các công ty chỉ có người một nước kém hiệu quả, tăng chi phí. Hơn nữa, thông qua môi trường văn hoá đa quốc gia, các bài học kinh nghiệm về hình thành văn hoá toàn cầu có thể được đúc rút và tích luỹ.

Hội nhập chính trị:

Hội nhập chính trị ảnh hưởng tới các chính sách của chính phủ và các hiệp định ký kết nhằm ảnh hưởng tới quan hệ kinh tế quốc tế. Mặc dù nó có ảnh hưởng khá trực tiếp tới các doanh nghiệp, kể cả các doanh nghiệp vừa và nhỏ khu vực tư nhân, các PSSMEs chưa đủ khả năng tác động tới quá trình này một cách trực tiếp và có hiệu quả.

Đối với chính phủ, hội nhập chính trị nghĩa là các cuộc thương lượng để hình thành một cơ cấu chính trị mới có tầm lớn hơn. Đó còn là sự hình thành các khu vực kinh tế/chính trị/văn hoá mới với các biên giới địa lý lớn hơn biên giới một quốc gia. Chính phủ các nước có thể họp bàn tìm cách giải quyết các vấn đề quốc tế có tầm quan trọng vượt quá mức một nước có thể xử lý: xung đột vũ trang trong một nước giữa hai hay nhiều nhóm sắc tộc có dính dáng đến nước ngoài; xung đột giữa các nước về các vấn đề kinh tế, chính trị; chủ nghĩa khủng bố quốc tế; mất cân bằng sinh thái: ô nhiễm hệ thống sông, nạn phá rừng... Bên cạnh đó các đơn vị chính trị đa quốc gia mới thay thế cho chính phủ nhiều nước cũng đang hình thành với đơn vị đầu tiên là EU.

Đối với doanh nghiệp ảnh hưởng của hội nhập chính trị thể hiện qua ảnh hưởng của các chính sách phát sinh từ quá trình hội nhập này. Các chính sách này bao gồm: sự giảm thiểu các rào cản thương mại, đầu tư giữa các nước; sự nới lỏng các quy chế liên quan tới sự đi lại, vận chuyển qua các biên giới; sự hình thành và mở rộng các thị trường tiêu thụ hàng hoá như là thị trường khu vực, thị trường châu lục, với ví dụ đáng chú ý nhất là sự hình thành một thị trường châu Âu thống nhất....

Doanh nghiệp chịu ảnh hưởng khá nhiều và trực tiếp từ các hoạt động hội nhập chính trị nhưng các ảnh hưởng của doanh nghiệp lên quá trình này là không nhiều lắm, trong trường hợp các PSSMEs là không đáng kể. Quá trình hội nhập chính trị, trái ngược với hội nhập văn hoá và khác với hội nhập kinh tế, diễn ra chủ yếu ở mức chính phủ. Sản phẩm của quá trình là các hiệp định được ký kết và thực thi, là các tổ chức chính trị mới được hình thành với quy mô và ảnh hưởng ngày càng lớn lên chính sách một quốc gia. Tuy các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể tác động một mức nào đó đến hội nhập chính trị nhưng chỉ ở mức độ gián tiếp như là tạo ra trào lưu, áp lực xã hội lên quá trình ra quyết định của chính phủ, không thể có tác động trực tiếp được. Bởi vậy bài nghiên cứu này sẽ không tính đến khía cạnh hội nhập chính trị của các PSSMEs mà chỉ xem xét đến các khía cạnh hội nhập kinh tế và văn hoá mà thôi


  1. Năng lực cạnh tranh:

              1. Cạnh tranh và Cạnh tranh hữu hiệu:

Các doanh nghiệp vừa và nhỏ muốn tiến ra các thị trường nước ngoài hay cạnh tranh với các doanh nghiệp ngoại quốc ở thị trường trong nước cần phải có một chiến lược kinh doanh đúng đắn và có hiệu quả. Các chiến lược như vậy đặt trên một nền tảng là sự hiểu thấu hai khái niệm là Cạnh tranh và Cạnh tranh Hữu hiệu. Từ việc hiểu thấu hai khái niệm này mới có thể phát triển lên thành các sách lược phát triển kinh doanh đầy đủ, các biện pháp ứng phó với tình hình mới, v.v...

Cạnh tranh có nhiều cách hiểu. Ở đây em tìm hiểu nó theo hai cách là: cách hiểu thông dụng đại chúng (thông qua từ điển ngôn ngữ đại chúng) và cách hiểu chuyên ngành (thông qua từ điển chuyên ngành). Sau đây là các trích dẫn:

Cạnh tranh là tranh đua giữa những cá nhân, tập thể có chức năng như nhau để giành phần hơn, phần thắng về mình. (Đại Từ Điển Tiếng Việt, Nxb Văn hoá Thông tin)

Cạnh tranh là là sự đấu tranh đối lập giữa các cá nhân, tập đoàn hay quốc gia. Cạnh tranh nảy sinh khi hai bên hay nhiều bên cố gắng giành lấy thứ mà không phải ai cũng có thể giành được. (Từ điển Thuật ngữ Kinh tế học, Nxb Từ điển Bách khoa Hà nội

Còn định nghĩa Cạnh tranh hữu hiệu được nêu ra như sau:

Cạnh tranh hữu hiệu là một phương thức thích ứng với thị trường của xí nghiệp, mà mục đích là giành được hiệu quả hoạt động thị trường làm cho người ta tương đối thoả mãn nhằm đạt được lợi nhuận bình quân vừa đủ để có lợi cho việc kinh doanh bình thường và thù lao cho những rủi ro trong việc đầu tư, đồng thời hoạt động của đơn vị sản xuất cũng đạt được hiệu suất cao, không có hiện tượng quá dư thừa về khả năng sản xuất trong thời gian dài, tính chất sản phẩm đạt trình độ hợp lý. (Đại Từ Điển Kinh Tế Thị Trường, Viện Nghiên cứu và Phổ biến Tri thức Bách khoa, 1998)



Ở trên là các định nghĩa về Cạnh tranh và Cạnh tranh Hữu hiệu. Để hiểu rõ hơn về hai niệm này em xin đi vào làm rõ từng khái niệm theo các cách tiếp cận khác nhau ở phần tiếp theo.

              1. Đường lối tiếp cận khái niệm cạnh tranh.

Lối tiếp cận theo hướng thương mại mang tính phổ biến nhất: Cạnh tranh và khả năng cạnh tranh chỉ xuất hiện ở tầm công ty, tập đoàn trong các hoạt động buôn bán; cạnh tranh là sự va chạm không thể tránh khỏi giữa các đơn vị hoạt động trong nền kinh tế có tính tự do. Các công ty cố gắn hết sức để đạt được lợi nhuận thông qua việc mua và bán hàng hoá. Lối tiếp cận khác lại cho rằng cạnh tranh còn có thể hiểu ở tầm vĩ mô, ở mức khu vực hay đất nước, gắn liền với các khái niệm như là sức mạnh cạnh tranh tổng hợp của một nền kinh tế, một địa phương hay một quốc gia. Cụ thể hơn, nếu một quốc gia có nguồn lao động chất lượng cao với mức giá rẻ hơn tương đối so với nước láng giềng thì các công ty của nước đó sẽ lợi thế hơn so với các công ty nước khác và hàng hoá của họ sẽ rẻ hơn tương đối trong loại hàng hoá cùng một mức giá trên thị trường quốc tế. Kết quả là hàng của họ có thể được tiêu thụ tốt hơn. Nếu một quốc gia A có lợi thế hơn các quốc gia khác trên nhiều lĩnh vực như giáo dục, dân số, trình độ công nghệ, các quy định tài chính v.v... thì các công ty của nước A có khả năng cạnh tranh cao hơn các công ty khác trên thị trường toàn cầu. Nói cách khác là nước A có sức mạnh cạnh tranh tổng hợp cao hơn.

  • Lối tiếp cận theo hướng ngành (Cạnh tranh giữa các ngành của một quốc gia với các ngành của quốc gia khác): Sự cạnh tranh có thể xuất hiện ở lĩnh vực như tài chính-tiền tệ, hành chính (minh hoạ: với hai quốc gia giống nhau trong hầu hết các lĩnh vực, quốc gia nào có các quy định hành chính cởi mở thuận tiện cho kinh doanh hơn sẽ thu hút được nhiều nhà đầu tư nước ngoài hơn  cạnh tranh trong thu hút FDI) hay bất kỳ lĩnh vực nào ta để ý đến. Thông qua lợi thế trong các ngành mà một đất nước trở nên hùng mạnh, thịnh vượng hơn.

              1. Các chỉ số đo lường và các nhóm yếu tố ảnh hưởng đến cạnh tranh

Các công ty, tổ chức, chính phủ và cá nhân đã nghiên cứu để tìm ra các thành tố tạo nên khả năng cạnh tranh. Theo Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF) có tám nhân tố cấu thành tính cạnh tranh của các quốc gia với các mức độ khác nhau:

Bảng 1.5: Các nhân tố cấu thành tính cạnh tranh của một quốc gia





Chính phủ

Tài chính

Độ mở cửa

Lao động

Công nghệ

Cơ sở hạ tầng

Thể chế

Quản lý

(%)

17

17

16

16

11

11

6

6
Theo cách nhìn nhận này hàng năm WEF xếp hạng thứ hạng cạnh tranh và đánh giá năng lực cạnh tranh theo mối quan hệ đa biên. Theo số liệu của Báo cáo Cạnh tranh Toàn cầu 2000-2001 & 2002 Việt Nam xếp thứ: 48/59 (năm 1999), 53/59 (năm 2000) và 60/75 (năm 2001-2002).

Tuy nhiên, từ năm 2000 do tính quan trọng ngày càng tăng của tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ, các chỉ số đo lường sức mạnh cạnh tranh quốc gia đã được sắp xếp lại, nhân tố khoa học công nghệ đã chiếm trọng số 1/3 trong tỷ trọng cân bằng nhau của ba tiêu chí: tính quốc tế hoá, tài chính và sáng tạo khoa học công nghệ. Để đánh giá mức sáng tạo khoa học công nghệ người ta nghiên cứu các khía cạnh theo bảng bªn.

  • Cụ thể hơn, ta có các nhóm chỉ số : Chỉ số tăng trưởng cạnh tranh (Growth Competitive Index-GCI) và Chỉ số cạnh tranh hiện tại (Current Competitive Index-CCI) đã tiếp cận các nguyên nhân và động cơ tăng trưởng cạnh tranh trên cả hai giác độ vi mô và vĩ mô.

Chỉ số tăng trưởng cạnh tranh được sử dụng nhằm đo lường các nhân tố đóng góp vào sự tăng trưởng tương lai của một nền kinh tế, và được đo bằng tỷ lệ thay đổi GDP trên đầu người, những nhân tố này giải thích tại sao một vài nền kinh tế có khả năng hưng thịnh hơn một số quốc gia khác. GCI năm 2001-2002 bao gồm ba chỉ số nhỏ: mức độ công nghệ của nền kinh tế, chất lượng của các thể chế công và các điều kiện vĩ mô liên quan đến việc tăng trưởng.

Bảng 1.6: Thứ hạng các chỉ số thành tố tăng trưởng cạnh tranh - GCI 2001-2002



Quốc gia/Nền kinh tế

Thứ hạng GCI

Thứ hạng chỉ số công nghệ

Thứ hạng chỉ số thể chế công

Thứ hạng chỉ số môi trường vĩ mô

Phần Lan

1

3

1

10

Hoa Kì

2

1

12

7

Canada

3

2

11

13

Singapore

4

18

6

1

Đài Loan

7

4

24

15

Hồng Kông

13

33

10

4

Nhật Bản

22

23

19

18

Malaixia

30

22

39

20

Trung Quốc

39

53

50

6

Việt Nam

60

65

63

37

Nga

63

60

61

57

Zimbabwe

75

72

69

75

(Nguồn: Báo cáo cạnh tranh toàn cầu 2001-2002, Diễn đàn Kinh tế Thế giới.)

Chỉ số cạnh tranh hiện tại (CCI) nhằm xác định các nhân tố nền móng tạo ra năng suất hiện tại cao và củng cố kết quả kinh tế hiện tại, được đo lường bằng mức GDP/đầu người. Những nhân tố này cũng có thể góp phần giải thích tại sao một vài quốc gia lại có thể đảm bảo mức hưng thịnh hơn các quốc gia khác. CCI là phương pháp tổng hợp năng lực cạnh tranh vi mô với hai nhóm chỉ số nhỏ: chỉ số về chiến lược và hoạt động của công ty và chỉ số chất lượng môi trường kinh doanh quốc gia, đánh giá những điều kiện cơ bản xác định mức năng suất hiện tại của các quốc gia.



Bảng 1.7: Thứ hạng các chỉ số thành tố cạnh tranh hiện tại-CCI năm 20001-2002

Quốc gia/Nền kinh tế

Thứ hạng GCI

Thứ hạng chỉ số chiến lược và hoạt động của công ty

Thứ hạng chỉ số môi trường kinh doanh quốc gia

Phần Lan

1

2

1

Hoa Kỳ

2

1

2

Hà Lan

3

3

3

Đức

4

4

4

...

...

...

...

Singapore

10

15

9

Canada

11

14

11

...

...

...

...

Nhật Bản

15

8

18

...

...

...

...

Hồng kông

18

21

16

...

...

...

...

Đài Loan

21

20

21

...

...

...

...

Malaixia

37

37

38

...

...

...

...

Trung Quốc

47

39

47

...

...

...

...

Nga

58

54

56

...

...

...

...

Rumani

61

63

61

Việt Nam

62

64

64

Pêru

63

65

62

...

...

...

...

Bangladesh

73

72

73

...

...

...

...

Bolivia

75

75

74

Nguồn: Báo cáo cạnh tranh toàn cầu 2001-2002. Diễn đàn Kinh tế Thế giới, 2002.

Đối với cấp ngành và cấp công ty, cạnh tranh được xem xét trên một số nhóm yếu tố chủ yếu sau:

- Số lượng các công ty mới tham gia vào ngành.

- Mức độ có sẵn của các các sản phẩm thay thế.

- Vị thế đàm phán của bên cầu

- Vị thế đàm phán của bên cung.

- Mức độ hiện diện của các bên của các công ty cạnh tranh trong ngành.

Để đáp ứng và theo đuổi được cạnh tranh, từng công ty tuỳ thuộc vào loại hình sản phẩm với nhóm thị trường trọng điểm của mình sẽ khai thác lợi thế so sánh về chi phí sản xuất, năng suất và công nghệ vì chi phí sản xuất thấp hiện vẫn được coi là điều kiện cơ bản của lợi thế cạnh tranh., thêm vào đó các chỉ số về chi phí còn cho phép xác định mức độ phúc lợi xã hội mà ngành, công ty đóng góp cho nền kinh tế.



Khả năng cạnh tranh của một ngành và công ty trên giác độ hiệu ứng của các chính sách và biện pháp lại được xem xét trên cơ sở tạo ra và duy trì khả năng sinh lời và bảo tồn, tăng trưởng thị phần tại các thị trường hiện hữu và mở các thị trường mới. Để minh hoạ ý tưởng này, một loạt các chỉ số đã được đưa lên bàn cân:

  • Chỉ số về năng suất: năng suất lao động tổng hợp và năng suất của từng yếu tố tham gia vào quá trình tạo ra sản phẩm.

  • Chỉ số về công nghệ: chỉ số về chi phí cho nghiên cứu và phát triển (R&D), mức độ hiện đại hoá trang thiết bị và công nghệ.

  • Chỉ số đánh giá kết quả sản xuất-kinh doanh và các chính sách marketing của công ty:

    • Sản phẩm: chỉ số về chất lượng, sự khác biệt hoá sản phẩm, giá trị vô hình của sản phẩm, mức độ cải tiến, phát triển và cung ứng sản phẩm mới

    • Giá: chiều dài, chiều rộng của các mức giá hoạch định trên các tuyến sản phẩm, độ linh hoạt về giá và sự mềm dẻo trong quyết định điều chỉnh giá.

    • Hệ thống phân phối và tiêu thụ sản phẩm: khả năng thiết kế và kiểm soát kênh phân phối, hiệu quả hoạt động của các nhà phân phối- các trung gian phân phối, hạ tầng cơ sở vật chất kỹ thuật sẵn có hỗ trợ quá trình vận chuyển phân phối hàng hoá.

    • Các dịch vụ hỗ trợ, xúc tiến và khuyếch trương thương mại khác.

      • Các chỉ số đánh giá sự ổn định nguồn cung ứng đầu vào và ảnh hưởng bên ngoài khác.

Ứng dụng cách đánh giá trên, Tổ chức Phát triển Công nghiệp Liên hiệp quốc (UNIDO) và Viện Chiến lược Phát triển (DSI) thuộc Bộ Kế hoạch Đầu tư, tháng 4/1998 đã thực hiện và công bố kết quả điều tra về cạnh tranh công nghiệp Việt Nam. Điều tra được thực hiện trên tổng mẫu 254 doanh nghiệp ở cả ba miền Bắc, Trung và Nam, trong các ngành sản xuất: cà phê, gạo, rau quả, hải sản, dệt, may, xe đạp, cơ khí nông nghiệp, phụ tùng ô tô, điện tử, với ba loại hình doanh nghiệp: doanh nghiệp Nhà nước trung ương, doanh nghiệp Nhà nước đóng tại địa phương, Liên doanh, các hợp tác xã và doanh nghiệp tư nhân. Kết quả điều tra cho thấy ảnh hưởng của các nhân tố tới vị thế cạnh tranh của các doanh nghiệp (đánh giá theo thang điểm từ 1 đến 3: 1- Không quan trọng, 2- Trung bình, 3- Mạnh mẽ) như sau:

Bảng 1.8: Ảnh hưởng của các nhân tố tới vị thế cạnh tranh của các doanh nghiệp

Tiêu thức ảnh hưởng

Cà phê

Gạo

Hải sản

Rau quả

Dệt

May

Ô tô

Xe đạp

Cơ khí NN

Điện tử

1. Gia nhập mới Thị trường

2.3

2.0

1.8

2.2

2.4

1.7

1.7

2.0

1.8

2.4

2. Sp thay thế

1.5

1.8

1.8

1.9

1.6

1.5

1.8

1.7

1.6

1.8

3. Cạnh tranh với sản phẩm nhập

1.5

1.0

1.0

1.8

2.3

1.6

2.6

2.4

2.6

2.4

4. Chiến lược Marketing

2.0

1.8

2.4

2.4

2.0

2.1

2.3

2.2

2.4

2.3

5. Nhà cung cấp

2.0

2.5

2.6

1.9

1.8

2.4

1.7

2.2

1.8

2.2

6. Khách hàng

2.3

2.5

2.6

2.4

2.0

2.4

2.3

2.0

1.7

2.3

(Báo cáo Điều tra Cạnh tranh Công nghiệp Việt Nam, 1998).

Kết quả điều tra cũng đưa ra một cách chi tiết những lĩnh vực chủ yếu có ảnh hưởng mạnh đến năng lực cạnh tranh, bao gồm:



  • Chất lượng sản phẩm

  • Năng lực nghiên cứu thị trường

  • Sự tin tưởng của khách hàng

  • Giao hàng đúng hạn

  • Giá

  • Sự hỗ trợ của chính phủ

  • Sự tin cậy của các nhà cung cấp

  • Mạng lưới phân phối

  • Chuyên môn hoá sản phẩm

  • Năng lực tài chính

  • Tổ chức sản xuất

  • Dịch vụ hậu mãi

  • Năng lực nghiên cứu và phát triển

  • Liên kết với các đối tác nước ngoài

  • Kĩ năng của nhân viên

  • Cấu trúc sở hữu

  • Các nhân tố khác.




Thông qua những hình ảnh cụ thể đó, các nhà quản trị có thể nhìn thấy rõ nét hơn vị trí của công ty, các điểm mạnh/yếu trong quan hệ so sánh với các đối thủ cạnh tranh để hoạch định các chương trình chiến lược và sách lược hữu hiệu gắn với thể trạng thực của công ty.

Theo quan điểm hội tụ vấn đề từ cấp vĩ mô đến vi mô, có thể khẳng định rằng năng lực cạnh tranh là một hàm số của nhiều biến trong đó bao gồm những biến chủ yếu:



  • Cơ sở kinh tế vĩ mô của khả năng cạnh tranh.

  • Các hoạt động và chiến lược của doanh nghiệp.

  • Các điều kiện thị trường về thương mại (khuyến khích và hạn chế xuất/nhập khẩu), đầu tư nước ngoài, tài chính, vai trò và hệ thống các doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân, hệ thống đào tạo nguồn nhân lực và các vấn đề về công nghệ.

Với những kiến thức lý luận trình bày trên đây, ta có thể tạm thời coi như đã chuẩn bị được một phần cần thiết cho công việc nghiên cứu các doanh nghiệp vừa và nhỏ khu vực tư nhân tại Việt Nam và công cuộc hội nhập quốc tế. Ta đã nắm được các kiến thức về hội nhập quốc tế với doanh nghiệp, các kiến thức về cạnh tranh hữu hiệu và cách tính toán các chỉ số đo lường cạnh tranh dưới góc độ vĩ mô, các yếu tố ảnh hưởng đến cạnh tranh. Ở phần đầu của chương chúng ta đã hiểu được định nghĩa của Việt Nam về doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng như cách phân loại chúng, các ưu thế và hạn chế của loại hình doanh nghiệp này và các điều khoản pháp luật chi phối. Sau đây ta sẽ đi vào chương II, phần tìm hiểu thực tế quá trình hội nhập quốc tế cũng như tình hình hoạt động của các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam.



Каталог: luanvan
luanvan -> ĐẠi học quốc gia hà NỘi trưỜng đẠi học khoa học tự nhiên nguyễn Thị Hương XÂy dựng quy trình quản lý CÁc công trìNH
luanvan -> Phần mở đầu Tính cấp thiết của đề tài
luanvan -> Như mọi quốc gia trên thế giới, bhxh việt Nam trong những năm qua được xem là một trong những chính sách rất lớn của Nhà nước, luôn được sự quan tâm và chỉ đạo kịp thời của Đảng và Nhà nước
luanvan -> TS. NguyÔn Lai Thµnh
luanvan -> Luận văn Cao học Người hướng dẫn: ts. Nguyễn Thị Hồng Vân
luanvan -> 1 Một số vấn đề cơ bản về đất đai và sử dụng đất 05 1 Đất đai 05
luanvan -> Lê Thị Phương XÂy dựng cơ SỞ DỮ liệu sinh học phân tử trong nhận dạng các loàI ĐỘng vật hoang dã phục vụ thực thi pháp luật và nghiên cứU
luanvan -> TRƯỜng đẠi học khoa học tự nhiên nguyễn Hà Linh
luanvan -> ĐÁnh giá Đa dạng di truyền một số MẪu giống lúa thu thập tại làO
luanvan -> TRƯỜng đẠi học khoa học tự nhiêN

tải về 0.77 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương