Bảng chữ viết tắt
(Albert Bery: Các hoạt động kinh doanh vừa và nhỏ dưới tác động của tự do hoá thương mại và tỷ giá: kinh nghiệm của Canada và Mỹ Latinh, 1996)
Các công ty, doanh nghiệp vừa và nhỏ thu hút một lượng lớn lao động và tài nguyên của xã hội để sản xuất ra hàng hoá. Để có thêm sức cạnh tranh trực tiếp với các công ty và tập đoàn lớn, hàng hoá của họ nói chung thiên về sự đa dạng về chất lượng và chủng loại, tạo cho người tiêu dùng có nhiều cơ hội được lựa chọn. Bên cạnh đó họ cũng tiến vào nhiều thị trường nhỏ mà các công ty lớn bỏ qua vì doanh thu từ đó quá nhỏ.
Một số những người có tài trong quản trị kinh doanh không muốn làm việc trong các công ty lớn mà muốn mở công ty riêng để tiện đường vùng vẫy. Các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ rất thích hợp đối với họ trong việc thử sức của mình. Bên cạnh đó các công ty tư nhân lớn nói chung đều xuất phát từ các công ty nhỏ đi lên. Tập đoàn Microsoft của tỷ phú Bill Gates cũng do ông ta xây dựng dần lên. Ông ta vào lúc 20 tuổi vẫn còn là một người chưa có nhiều tài sản, bỏ học đại học để mở doanh nghiệp riêng của mình. Chưa đầy 30 năm sau đã trở thành người giàu nhất thế giới, là một điển hình của người làm giàu dựa vào năng lực của mình. Các công ty nhỏ là còn là nơi huấn luyện nguồn nhân lực cho các công ty lớn. Các nhân viên sẽ học được những kỹ năng ban đầu về quản lý rất cần thiết, được công ty lớn đánh giá cao như là:
Đây là các kỹ năng cần thiết cho công việc ở các công ty lớn và việc đào tạo chúng cho người lao động cần thời gian. Các doanh nghiệp nhỏ sẽ thực hiện “hộ” khâu này. Nhân viên công ty nhỏ sau một thời gian có được kinh nghiệm rồi sẽ được các công ty lớn thu nhận.
Nhìn chung các doanh nghiệp vừa và nhỏ được mở ra ở địa phương nào đều có công nhân và chủ doanh nghiệp là người ở địa phương đó. Khi các doanh nghiệp loại đó được mở ra thì người dân lao động ở địa phương có công ăn việc làm, có nguồn thu nhập. Kết cục là quỹ tiền tiết kiệm-đầu tư của địa phương đó được bổ sung.
Các công ty lớn và các tập đoàn không có được tính năng động của các đơn vị kinh tế nhỏ hơn chúng vì một nguyên nhân đơn giản là quy mô của chúng quá lớn. Quy luật của vật lý là khối lượng một vật càng lớn thì quán tính của nó càng lớn. Cũng vậy, các đơn vị kinh tế càng to lớn thì càng thiếu tính linh hoạt, thiếu khả năng phản ứng nhanh, nói cách khác là sức ì càng lớn.Một nền kinh tế đặt một tỷ lệ quá lớn nguồn lao động và tài nguyên vào tay các doanh nghiệp quy mô lớn sẽ trở nên chậm chạp, không bắt kịp và phản ứng kịp với các thay đổi trên thị trường. Ngược lại, một nền kinh tế có một tỷ lệ thích hợp các doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ trở nên “nhanh nhẹn” hơn, phản ứng kịp thời hơn. Tính hiệu quả của nền kinh tế sẽ được nâng cao.
Một nền kinh tế bao giờ cũng có “vùng biên giới”, “vùng sâu”, “vùng xa”. Đó là các khu vực địa lý hoặc các thị trường có quy mô nhỏ, kém phát triển, hoặc là xa tuyến giao thông, thiếu tài nguyên... Các công ty lớn thường bỏ qua các khu vực đó vì cho rằng nguồn lợi thu được từ đó không lớn bằng nguồn lợi thu được từ nơi khác với cùng một chi phí bỏ ra, nói cách khác là chi phí cơ hội của vùng đó cao. Nếu một nền kinh tế chỉ có các doanh nghiệp lớn thì điều này sẽ dẫn đến một sự phát triển không đều giữa các vùng, không tận dụng hết tài nguyên và giảm hiệu quả hoạt động của nền kinh tế cũng như gây ra các thiệt hại tiềm tàng cho nền kinh tế. Tuy nhiên đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ thì chi phí cơ hội của các vùng này là chấp nhận được, xứng đáng với nguồn lợi thu lại. Vì vậy họ sẵn sàng hoạt động ở đây nếu có các chính sách ưu đãi thích hợp của chính quyền địa phương.
Trong quá trình hiện đại hoá, công nghiệp hoá các ngành nghề truyền thống đang đứng trước sự cạnh tranh khốc liệt, giữa chế tạo sản phẩm thủ công với sản xuất dây chuyền hàng loạt. Một ví dụ như: thợ đóng giày có thể đóng những đôi giày rất bền dùng được hàng năm không hỏng . Nhưng trong thời hiện đại phải đối mặt với các xí nghiệp sản xuất giày có sản phẩm không bền lắm, đổi mới theo mùa và giá rẻ hơn so với giày thủ công. Một thợ thủ công hay vài người thì không thể đương đầu được với các doanh nghiệp lớn đó. Muốn tồn tại được các thợ thủ công phải hợp nhau lại thành lập doanh nghiệp, sau đó quảng cáo xa rộng để tìm đến các khách hàng tiềm năng của các sản phẩm thủ công. Trong xã hội luôn tồn tại nhu cầu đối với các sản phẩm truyền thống, vấn đề là phải làm cho những khách hàng đó biết đến sản phẩm của mình. Loại hình doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể nói là rất thích hợp cho sản xuất thủ công. Các ngành nghề truyền thống có thể dựa vào đó để sản xuất, kinh doanh, quảng cáo. Bên cạnh đó công nghệ tiên tiến cũng sẽ dần tiếp cận vào các ngành nghề này. Và đó cũng là một điều cần phải xẩy ra trong thời đại công nghiệp. Cụ thể hơn ta hãy hình dung một cảnh như sau: một số thợ đóng giày hợp nhau lại thành một doanh nghiệp. Trong thành phố địa phương của họ chỉ có một số nhỏ khách hàng ưa thích loại giày đóng thủ công và sẵn sàng trả giá (dù là cao) để đi loại giầy này cầu nhỏ. Doanh nghiệp đó đáp ứng được nhu cầu đó. Sau đó doanh nghiệp tiến hành một chiến dịch quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng và trên Internet. Sau một thời gian các khách hàng có nhu cầu tương tự ở tại các thành phố khác trong cả nước liên lạc đặt mua. Tiếp sau nữa là các khách hàng nước ngoài ưa thích kiểu dáng giày quảng cáo trên Internet cũng liên lạc đặt mua. Bên cạnh đó các nghệ nhân cũng sử dụng thêm một số công nghệ mới để hỗ trợ thêm cho việc chế tạo giày như là dùng máy tính để tạo hình sản phẩm trước,... Trong quá trình phát triển đó họ tiếp cận và làm quen với các kỹ thuật và công nghệ mới. Tuy khách hàng địa phương của họ không nhiều nhưng khách hàng trên toàn cầu chiếm một lượng đủ để họ tồn tại được trước thách thức của những đôi giày hiện đại giá rẻ rất mốt được sản xuất hàng loạt kia.
Bảng 1.3: Hệ thống các nhóm văn bản luật pháp trực tiếp liên quan doanh nghiệp vừa và nhỏ
Trong phần này em cố gắng trình bày các khái niệm về các hình thức hội nhập trong đó có hội nhập kinh tế. Trên thực tế các khái niệm này còn gây rất nhiều tranh cãi và bất đồng, chưa có được một ý kiến thống nhất. Vì vậy các ý kiến của em đưa ra có thể hơi thiếu một sự nhất trí.
Hội nhập là một phạm trù quan hệ lịch sử quốc tế. Nó vừa là trạng thái vừa là quá trình. Mặc dù có nhiều bất đồng về khái niệm này nhưng người ta nhất trí rằng Hội nhập Quốc tế có 3 mặt chính:
Hội nhập kinh tế được hiểu một cách chung nhất là xoá bỏ sự khác biệt về kinh tế giữa các nền kinh tế thuộc các quốc gia khác nhau. “Hội nhập chính trị là sự hội nhập của các chủ thể chính trị hay các đơn vị chính trị...” theo Karl W.Deutsch. Kết quả của quá trình này là một đơn vị chính trị thống nhất thay cho nhiều đơn vị chính trị riêng lẻ trước kia. Liên minh Châu Âu là một có thể nói là một ví dụ Hội nhập văn hoá có thể được hiểu là một quá trình xoá bỏ dần các điểm dị biệt của các nền văn hoá để đi đến hình thành một nền văn hoá chung, văn hoá toàn cầu, mà không tiêu diệt hoàn toàn các nền văn hoá bản địa đặc sắc.
Hội nhập là một quá trình cũng như một trạng thái. Đối với doanh nghiệp, quá trình này gồm nhiều bước tiến hành, nhiều trạng thái cần đạt tới. Trong hội nhập kinh tế có nhiều mặt có liên quan tới hoạt động, tồn tại và phát triển của doanh nghiệp như là:
C ạnh tranh diễn ra giữa các doanh nghiệp địa phương, doanh nghiệp nước ngoài, các đối thủ nước sở tại và các đối thủ nước thứ ba.
Hội nhập văn hoá: Vấn đề có liên quan đến hội nhập văn hoá trong doanh nghiệp là vấn đề Văn hoá công ty-văn hoá đa quốc gia. Trong điều kiện hình thành các doanh nghiệp đa quốc gia, diễn ra các hoạt động thương mại đầu tư quốc tế, một kết quả tất yếu là sẽ hình thành các đội ngũ nhân viên đa quốc tịch trong một công ty. Đây là nơi thử nghiệm đầu tiên cho khái niệm văn hoá toàn cầu và văn hoá đa quốc gia mà sự tồn tại của nó nhằm để thoả mãn yêu cầu hoạt động kinh doanh một cách trôi chẩy của một doanh nghiệp. Một doanh nghiệp, một đội ngũ nhân viên có cách thức thu xếp sao cho các thành viên thuộc các nền văn hoá khác nhau có thể hoạt hoạt động, sống cạnh nhau, tồn tại và phát triển, thì doanh nghiệp đó, đội ngũ nhân viên đó có thể hoạt động tốt hơn các doanh nghiệp khác có cùng điều kiện. Các doanh nghiệp không thoả mãn được việc hình thành môi trường văn hoá đa quốc gia bên trong công ty của mình sẽ hoạt động kém hiệu quả, nhiều trường hợp phải đưa nhân viên từ nước mình ra nước ngoài để thành lập các công ty chỉ có người một nước kém hiệu quả, tăng chi phí. Hơn nữa, thông qua môi trường văn hoá đa quốc gia, các bài học kinh nghiệm về hình thành văn hoá toàn cầu có thể được đúc rút và tích luỹ.
Hội nhập chính trị ảnh hưởng tới các chính sách của chính phủ và các hiệp định ký kết nhằm ảnh hưởng tới quan hệ kinh tế quốc tế. Mặc dù nó có ảnh hưởng khá trực tiếp tới các doanh nghiệp, kể cả các doanh nghiệp vừa và nhỏ khu vực tư nhân, các PSSMEs chưa đủ khả năng tác động tới quá trình này một cách trực tiếp và có hiệu quả. Đối với chính phủ, hội nhập chính trị nghĩa là các cuộc thương lượng để hình thành một cơ cấu chính trị mới có tầm lớn hơn. Đó còn là sự hình thành các khu vực kinh tế/chính trị/văn hoá mới với các biên giới địa lý lớn hơn biên giới một quốc gia. Chính phủ các nước có thể họp bàn tìm cách giải quyết các vấn đề quốc tế có tầm quan trọng vượt quá mức một nước có thể xử lý: xung đột vũ trang trong một nước giữa hai hay nhiều nhóm sắc tộc có dính dáng đến nước ngoài; xung đột giữa các nước về các vấn đề kinh tế, chính trị; chủ nghĩa khủng bố quốc tế; mất cân bằng sinh thái: ô nhiễm hệ thống sông, nạn phá rừng... Bên cạnh đó các đơn vị chính trị đa quốc gia mới thay thế cho chính phủ nhiều nước cũng đang hình thành với đơn vị đầu tiên là EU. Đối với doanh nghiệp ảnh hưởng của hội nhập chính trị thể hiện qua ảnh hưởng của các chính sách phát sinh từ quá trình hội nhập này. Các chính sách này bao gồm: sự giảm thiểu các rào cản thương mại, đầu tư giữa các nước; sự nới lỏng các quy chế liên quan tới sự đi lại, vận chuyển qua các biên giới; sự hình thành và mở rộng các thị trường tiêu thụ hàng hoá như là thị trường khu vực, thị trường châu lục, với ví dụ đáng chú ý nhất là sự hình thành một thị trường châu Âu thống nhất.... Doanh nghiệp chịu ảnh hưởng khá nhiều và trực tiếp từ các hoạt động hội nhập chính trị nhưng các ảnh hưởng của doanh nghiệp lên quá trình này là không nhiều lắm, trong trường hợp các PSSMEs là không đáng kể. Quá trình hội nhập chính trị, trái ngược với hội nhập văn hoá và khác với hội nhập kinh tế, diễn ra chủ yếu ở mức chính phủ. Sản phẩm của quá trình là các hiệp định được ký kết và thực thi, là các tổ chức chính trị mới được hình thành với quy mô và ảnh hưởng ngày càng lớn lên chính sách một quốc gia. Tuy các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể tác động một mức nào đó đến hội nhập chính trị nhưng chỉ ở mức độ gián tiếp như là tạo ra trào lưu, áp lực xã hội lên quá trình ra quyết định của chính phủ, không thể có tác động trực tiếp được. Bởi vậy bài nghiên cứu này sẽ không tính đến khía cạnh hội nhập chính trị của các PSSMEs mà chỉ xem xét đến các khía cạnh hội nhập kinh tế và văn hoá mà thôi
Các doanh nghiệp vừa và nhỏ muốn tiến ra các thị trường nước ngoài hay cạnh tranh với các doanh nghiệp ngoại quốc ở thị trường trong nước cần phải có một chiến lược kinh doanh đúng đắn và có hiệu quả. Các chiến lược như vậy đặt trên một nền tảng là sự hiểu thấu hai khái niệm là Cạnh tranh và Cạnh tranh Hữu hiệu. Từ việc hiểu thấu hai khái niệm này mới có thể phát triển lên thành các sách lược phát triển kinh doanh đầy đủ, các biện pháp ứng phó với tình hình mới, v.v... Cạnh tranh có nhiều cách hiểu. Ở đây em tìm hiểu nó theo hai cách là: cách hiểu thông dụng đại chúng (thông qua từ điển ngôn ngữ đại chúng) và cách hiểu chuyên ngành (thông qua từ điển chuyên ngành). Sau đây là các trích dẫn: Cạnh tranh là tranh đua giữa những cá nhân, tập thể có chức năng như nhau để giành phần hơn, phần thắng về mình. (Đại Từ Điển Tiếng Việt, Nxb Văn hoá Thông tin) Cạnh tranh là là sự đấu tranh đối lập giữa các cá nhân, tập đoàn hay quốc gia. Cạnh tranh nảy sinh khi hai bên hay nhiều bên cố gắng giành lấy thứ mà không phải ai cũng có thể giành được. (Từ điển Thuật ngữ Kinh tế học, Nxb Từ điển Bách khoa Hà nội Còn định nghĩa Cạnh tranh hữu hiệu được nêu ra như sau: Cạnh tranh hữu hiệu là một phương thức thích ứng với thị trường của xí nghiệp, mà mục đích là giành được hiệu quả hoạt động thị trường làm cho người ta tương đối thoả mãn nhằm đạt được lợi nhuận bình quân vừa đủ để có lợi cho việc kinh doanh bình thường và thù lao cho những rủi ro trong việc đầu tư, đồng thời hoạt động của đơn vị sản xuất cũng đạt được hiệu suất cao, không có hiện tượng quá dư thừa về khả năng sản xuất trong thời gian dài, tính chất sản phẩm đạt trình độ hợp lý. (Đại Từ Điển Kinh Tế Thị Trường, Viện Nghiên cứu và Phổ biến Tri thức Bách khoa, 1998) Ở trên là các định nghĩa về Cạnh tranh và Cạnh tranh Hữu hiệu. Để hiểu rõ hơn về hai niệm này em xin đi vào làm rõ từng khái niệm theo các cách tiếp cận khác nhau ở phần tiếp theo.
Lối tiếp cận theo hướng thương mại mang tính phổ biến nhất: Cạnh tranh và khả năng cạnh tranh chỉ xuất hiện ở tầm công ty, tập đoàn trong các hoạt động buôn bán; cạnh tranh là sự va chạm không thể tránh khỏi giữa các đơn vị hoạt động trong nền kinh tế có tính tự do. Các công ty cố gắn hết sức để đạt được lợi nhuận thông qua việc mua và bán hàng hoá. Lối tiếp cận khác lại cho rằng cạnh tranh còn có thể hiểu ở tầm vĩ mô, ở mức khu vực hay đất nước, gắn liền với các khái niệm như là sức mạnh cạnh tranh tổng hợp của một nền kinh tế, một địa phương hay một quốc gia. Cụ thể hơn, nếu một quốc gia có nguồn lao động chất lượng cao với mức giá rẻ hơn tương đối so với nước láng giềng thì các công ty của nước đó sẽ lợi thế hơn so với các công ty nước khác và hàng hoá của họ sẽ rẻ hơn tương đối trong loại hàng hoá cùng một mức giá trên thị trường quốc tế. Kết quả là hàng của họ có thể được tiêu thụ tốt hơn. Nếu một quốc gia A có lợi thế hơn các quốc gia khác trên nhiều lĩnh vực như giáo dục, dân số, trình độ công nghệ, các quy định tài chính v.v... thì các công ty của nước A có khả năng cạnh tranh cao hơn các công ty khác trên thị trường toàn cầu. Nói cách khác là nước A có sức mạnh cạnh tranh tổng hợp cao hơn.
Các công ty, tổ chức, chính phủ và cá nhân đã nghiên cứu để tìm ra các thành tố tạo nên khả năng cạnh tranh. Theo Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF) có tám nhân tố cấu thành tính cạnh tranh của các quốc gia với các mức độ khác nhau: Bảng 1.5: Các nhân tố cấu thành tính cạnh tranh của một quốc gia
Tuy nhiên, từ năm 2000 do tính quan trọng ngày càng tăng của tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ, các chỉ số đo lường sức mạnh cạnh tranh quốc gia đã được sắp xếp lại, nhân tố khoa học công nghệ đã chiếm trọng số 1/3 trong tỷ trọng cân bằng nhau của ba tiêu chí: tính quốc tế hoá, tài chính và sáng tạo khoa học công nghệ. Để đánh giá mức sáng tạo khoa học công nghệ người ta nghiên cứu các khía cạnh theo bảng bªn.
Chỉ số tăng trưởng cạnh tranh được sử dụng nhằm đo lường các nhân tố đóng góp vào sự tăng trưởng tương lai của một nền kinh tế, và được đo bằng tỷ lệ thay đổi GDP trên đầu người, những nhân tố này giải thích tại sao một vài nền kinh tế có khả năng hưng thịnh hơn một số quốc gia khác. GCI năm 2001-2002 bao gồm ba chỉ số nhỏ: mức độ công nghệ của nền kinh tế, chất lượng của các thể chế công và các điều kiện vĩ mô liên quan đến việc tăng trưởng. Bảng 1.6: Thứ hạng các chỉ số thành tố tăng trưởng cạnh tranh - GCI 2001-2002
(Nguồn: Báo cáo cạnh tranh toàn cầu 2001-2002, Diễn đàn Kinh tế Thế giới.) Chỉ số cạnh tranh hiện tại (CCI) nhằm xác định các nhân tố nền móng tạo ra năng suất hiện tại cao và củng cố kết quả kinh tế hiện tại, được đo lường bằng mức GDP/đầu người. Những nhân tố này cũng có thể góp phần giải thích tại sao một vài quốc gia lại có thể đảm bảo mức hưng thịnh hơn các quốc gia khác. CCI là phương pháp tổng hợp năng lực cạnh tranh vi mô với hai nhóm chỉ số nhỏ: chỉ số về chiến lược và hoạt động của công ty và chỉ số chất lượng môi trường kinh doanh quốc gia, đánh giá những điều kiện cơ bản xác định mức năng suất hiện tại của các quốc gia. Bảng 1.7: Thứ hạng các chỉ số thành tố cạnh tranh hiện tại-CCI năm 20001-2002
Nguồn: Báo cáo cạnh tranh toàn cầu 2001-2002. Diễn đàn Kinh tế Thế giới, 2002. Đối với cấp ngành và cấp công ty, cạnh tranh được xem xét trên một số nhóm yếu tố chủ yếu sau: - Số lượng các công ty mới tham gia vào ngành. - Mức độ có sẵn của các các sản phẩm thay thế. - Vị thế đàm phán của bên cầu - Vị thế đàm phán của bên cung. - Mức độ hiện diện của các bên của các công ty cạnh tranh trong ngành. Để đáp ứng và theo đuổi được cạnh tranh, từng công ty tuỳ thuộc vào loại hình sản phẩm với nhóm thị trường trọng điểm của mình sẽ khai thác lợi thế so sánh về chi phí sản xuất, năng suất và công nghệ vì chi phí sản xuất thấp hiện vẫn được coi là điều kiện cơ bản của lợi thế cạnh tranh., thêm vào đó các chỉ số về chi phí còn cho phép xác định mức độ phúc lợi xã hội mà ngành, công ty đóng góp cho nền kinh tế. Khả năng cạnh tranh của một ngành và công ty trên giác độ hiệu ứng của các chính sách và biện pháp lại được xem xét trên cơ sở tạo ra và duy trì khả năng sinh lời và bảo tồn, tăng trưởng thị phần tại các thị trường hiện hữu và mở các thị trường mới. Để minh hoạ ý tưởng này, một loạt các chỉ số đã được đưa lên bàn cân:
Ứng dụng cách đánh giá trên, Tổ chức Phát triển Công nghiệp Liên hiệp quốc (UNIDO) và Viện Chiến lược Phát triển (DSI) thuộc Bộ Kế hoạch Đầu tư, tháng 4/1998 đã thực hiện và công bố kết quả điều tra về cạnh tranh công nghiệp Việt Nam. Điều tra được thực hiện trên tổng mẫu 254 doanh nghiệp ở cả ba miền Bắc, Trung và Nam, trong các ngành sản xuất: cà phê, gạo, rau quả, hải sản, dệt, may, xe đạp, cơ khí nông nghiệp, phụ tùng ô tô, điện tử, với ba loại hình doanh nghiệp: doanh nghiệp Nhà nước trung ương, doanh nghiệp Nhà nước đóng tại địa phương, Liên doanh, các hợp tác xã và doanh nghiệp tư nhân. Kết quả điều tra cho thấy ảnh hưởng của các nhân tố tới vị thế cạnh tranh của các doanh nghiệp (đánh giá theo thang điểm từ 1 đến 3: 1- Không quan trọng, 2- Trung bình, 3- Mạnh mẽ) như sau: Bảng 1.8: Ảnh hưởng của các nhân tố tới vị thế cạnh tranh của các doanh nghiệp
(Báo cáo Điều tra Cạnh tranh Công nghiệp Việt Nam, 1998). Kết quả điều tra cũng đưa ra một cách chi tiết những lĩnh vực chủ yếu có ảnh hưởng mạnh đến năng lực cạnh tranh, bao gồm:
Thông qua những hình ảnh cụ thể đó, các nhà quản trị có thể nhìn thấy rõ nét hơn vị trí của công ty, các điểm mạnh/yếu trong quan hệ so sánh với các đối thủ cạnh tranh để hoạch định các chương trình chiến lược và sách lược hữu hiệu gắn với thể trạng thực của công ty. Theo quan điểm hội tụ vấn đề từ cấp vĩ mô đến vi mô, có thể khẳng định rằng năng lực cạnh tranh là một hàm số của nhiều biến trong đó bao gồm những biến chủ yếu:
Với những kiến thức lý luận trình bày trên đây, ta có thể tạm thời coi như đã chuẩn bị được một phần cần thiết cho công việc nghiên cứu các doanh nghiệp vừa và nhỏ khu vực tư nhân tại Việt Nam và công cuộc hội nhập quốc tế. Ta đã nắm được các kiến thức về hội nhập quốc tế với doanh nghiệp, các kiến thức về cạnh tranh hữu hiệu và cách tính toán các chỉ số đo lường cạnh tranh dưới góc độ vĩ mô, các yếu tố ảnh hưởng đến cạnh tranh. Ở phần đầu của chương chúng ta đã hiểu được định nghĩa của Việt Nam về doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng như cách phân loại chúng, các ưu thế và hạn chế của loại hình doanh nghiệp này và các điều khoản pháp luật chi phối. Sau đây ta sẽ đi vào chương II, phần tìm hiểu thực tế quá trình hội nhập quốc tế cũng như tình hình hoạt động của các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam. Каталог: luanvan luanvan -> ĐẠi học quốc gia hà NỘi trưỜng đẠi học khoa học tự nhiên nguyễn Thị Hương XÂy dựng quy trình quản lý CÁc công trìNH luanvan -> Phần mở đầu Tính cấp thiết của đề tài luanvan -> Như mọi quốc gia trên thế giới, bhxh việt Nam trong những năm qua được xem là một trong những chính sách rất lớn của Nhà nước, luôn được sự quan tâm và chỉ đạo kịp thời của Đảng và Nhà nước luanvan -> TS. NguyÔn Lai Thµnh luanvan -> Luận văn Cao học Người hướng dẫn: ts. Nguyễn Thị Hồng Vân luanvan -> 1 Một số vấn đề cơ bản về đất đai và sử dụng đất 05 1 Đất đai 05 luanvan -> Lê Thị Phương XÂy dựng cơ SỞ DỮ liệu sinh học phân tử trong nhận dạng các loàI ĐỘng vật hoang dã phục vụ thực thi pháp luật và nghiên cứU luanvan -> TRƯỜng đẠi học khoa học tự nhiên nguyễn Hà Linh luanvan -> ĐÁnh giá Đa dạng di truyền một số MẪu giống lúa thu thập tại làO luanvan -> TRƯỜng đẠi học khoa học tự nhiêN tải về 0.77 Mb. Chia sẻ với bạn bè của bạn: |