13
1.2.2.1. Cắt giảm các rào cản thương mại và đầu tư
a) Sự ra đời của Hiệp định chung về thương mại và thuế quan GATT và Tổ chức Thương
mại thế giới – WTO
Trong những thập niên 1920 và 1930, nhiều quốc gia và vùng lãnh thộ trên thế giới
đã dựng lên các rào cản nghiêm ngặt đối với hoạt động thương mại quốc tế và đầu tư trực
tiếp nước ngoài. Thương mại quốc tế xảy ra khi một doanh nghiệp xuất khẩu hàng hóa hay
dịch vụ tới người tiêu dùng ở một nước khác. Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) xảy
ra khi
một doanh nghiệp đầu tư nguồn lực vào các hoạt động kinh doanh bên ngoài đất nước của
họ. Nhiều hàng rào thương mại quốc tế được biểu hiện dưới dạng thuế nhập khẩu cao đối
với hàng chế tạo. Mục tiêu chính của hàng rào thuế quan là để bảo vệ các ngành công
nghiệp nội địa trước những đối thủ cạnh tranh nước ngoài. Tuy nhiên, nó dẫn đến hệ quả
là sự trả đũa bằng những chính sách thương mại kiểu “làm nghèo nước láng giềng”, các
quốc gia sẽ ngày càng nâng cao cao hàng rào thương mại quốc tế để chống lại nhau. Cuối
cùng, điều này đã làm suy giảm nhu cầu trên toàn thế giới và góp phần tạo ra cuộc Đại Suy
Thoái những năm 1930. Sau chiến tranh thế giới thứ II các nước công ngiệp phát triển
phương Tây cam kết sẽ tháo gỡ những rào cản đối với dòng chảy tự do của hàng hóa, dịch
vụ và vốn giữa các quốc gia.
Vào năm 1947, 23 quốc gia đã làm nên sự kiện lịch sử khi sáng lập Hiệp đinh
chung
về thương mại và thuế quan (GATT). GATT là một hiệp định quốc tế có chức năng thiết
lập những quy tắc cụ thể đối với thương mại quốc tế nhằm mở cửa các thị trường quốc gia
thông qua việc cắt giảm thuế quan (thuế đối với các hàng hóa trao đổi) và các trở ngại phi
thuế quan như hạn ngạch (hạn chế đối với khối lượng hàng hóa được phép đưa vào một
nước). Dưới sự bảo trợ của GATT, tám vòng đàm phán giữa các nước thành viên đã bàn
về việc giảm thiểu các hàng rào ngăn cản sự lưu thông tự do của hàng hóa và dịch vụ. Vòng
đàm phán Uruguay tiếp tục cắt giảm hơn nữa các rào cản thương mại, mở rộng GATT để
bao hàm cả các lĩnh vực dịch vụ giống nhau đối với các loại hàng chế tạo; qui định tăng
cương bảo hộ đối với bằng sáng chế, thương hiệu và quyền sở hữu trí tuệ thành lập Tổ
chức thương mại Thế giới để giám sát hệ thống thương mại quốc tế.
Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) được thành lập với chức năng tăng cường hiệu
lực của của Hiệp đinh GATT mới – một cơ quan đại diẹn mà hiệp định GATT năm 1947
mới – một cơ quan đại diện mà hiệp định GATT 1947 chưa có – với chức năng giám sát
các hiệp định thương mại giữa các thành viên với nhau theo các quy tắc thương mại. Hoạt
động của WTO nhằm mục đích loại bỏ hảy giảm thiểu các rào cản thương mại để tiến tới
tự do thương mại.
b) Vai trò của các khối thương mại
Để thúc đẩy tự do thương mại hóa trong khu vực, một số quốc gia đang liên kết các
nền kinh tế của mình thành các khối thương mại, ví dụ, Hiệp đinh tự do thương mại Bắc
Mỹ (Nafta) liên kết các quốc gia (Canada, Mexico, và Mỹ) thành một khối thương mại tự
do. Một khối có tham vọng lớn hơn nữa Liên minh châu Âu (EU) bao gồm 27 nước. Diễn
đàn hợp tác Châu Á – Thái Bình Dương (APEC) tập hợp được 21 quốc gia đã cam kết
15
thể truy cập vào cơ sở dữ liệu của một công ty, và do vậy họ có thể đặt hàng hoặc nhập lại
hàng tồn kho theo hệ thống điện tử và tự động.
c) Công nghệ vận tải
Những cải cách quan trọng về kỹ thuật vận tải xuất hiện kể từ sau chiến tranh thế giới
thứ hai. Về mặt kinh tế, cải cách quan trọng nhất là sự phát triển của máy bay phản lực dân
dụng và máy bay vận tải hàng hóa, cũng như sự ra đời của container giúp đơn giản hóa
việc chuyển tải hàng hóa từ phương thức vận tải này sang phương thức khác. Với máy bay
phản lực dân dụng tốc độ cao, cho phép giảm thời gian cần thiết để di chuyển từ địa điểm
này sang địa điểm khác và rút ngắn khoảng cách thực tế trên toàn cầu. Vận chuyển bằng
container đã cách mạng hóa hoạt động kinh doanh vận tải, làm giảm đáng kể chi phí vận
chuyển hàng hóa đường dài. Trước khi container xuất hiện, việc chuyển tải hàng hóa từ
phương thức vận tải này sang phương thức khác đòi hỏi rấy nhiều lao động, mất thời gian
và tốn kém chi phí. Việc đó có thể mất nhiều ngày và cần tới hàng trăm, công nhân bốc
xếp dỡ hàng khỏi một chiếc tàu thủy để chất lên xẻ tải và tàu lửa. Phương thức vận tải bằng
container ra đời giúp giảm mạnh chi phí vận chuyển, làm cho việc chuyên hàng hóa khắp
toàn cầu trở nên kinh tế hơn, và do đó đã góp phần thúc đẩy toàn cầu hóa thị trường và
toàn cầu hóa sản xuất. Những container như nhau có thể xếp được trên xe tải, tàu hỏa, và
tàu thủy cho nên việc chuyên chở hàng hóa được thực hiện nhanh hơn và chi phí sử dụng
hai hoặc nhiều phương tiện chuyên chở hơn sẽ giảm xuống.
Chia sẻ với bạn bè của bạn: