BỘ TƯ pháp số: 104/bc-btp cộng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam


Nguyên nhân dẫn đến hạn chế



tải về 222.76 Kb.
trang3/3
Chuyển đổi dữ liệu05.08.2016
Kích222.76 Kb.
#13551
1   2   3

2. Nguyên nhân dẫn đến hạn chế

Những hạn chế trong công tác đăng ký, quản lý hộ tịch đã nêu trên do một số nguyên nhân cơ bản sau đây:

2.1. Sự quan tâm của các cấp lãnh đạo chưa đồng bộ

Một số địa phương, lãnh đạo Ủy ban nhân dân chưa thực nhận thức được tầm quan trọng của công tác hộ tịch nên không quan tâm, đầu tư cho công tác này (kể cả về cơ sở vật chất, con người, phương tiện làm việc, kinh phí triển khai…). Đăng ký hộ tịch là trách nhiệm của UBND, nhưng có nơi còn phó mặc, khoán trắng cho Tư pháp, không quan tâm, đầu tư cũng như không có sự chỉ đạo kiểm tra.

2.2. Chưa có bước đột phá trong xây dựng thể chế

Việc xây dựng văn bản quy phạm pháp luật về hộ tịch trong thời gian qua chỉ mang tính chắp vá bằng cách sửa đổi, bổ sung hoặc thay thế những văn bản cũ mà chưa quan tâm đến việc xây dựng một đạo Luật chung điều chỉnh thống nhất trong lĩnh vực hộ tịch.

2.3. Đội ngũ công chức Tư pháp - Hộ tịch phải kiêm nhiệm nhiều công việc khác nhau và không ổn định

Hiện nay, ở các xã, phường, thị trấn, công chức Tư pháp - Hộ tịch ngoài việc tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là Ủy ban nhân dân cấp xã) phải đảm nhiệm 12 đầu việc, trong đó có việc đăng ký và quản lý hộ tịch. Trong khi đó, trên thực tế, tính chất chuyên môn của công tác hộ tịch và các công tác tư pháp khác (công tác văn bản, tuyên truyền pháp luật, hòa giải…) rất khác nhau, không phù hợp với việc ghép chung một cách cơ học hai loại nhiệm vụ này trong cùng một chức danh Tư pháp - Hộ tịch. Cũng chính vì phải kiêm nhiệm nhiều công việc khác nhau, nên công chức Tư pháp - Hộ tịch không có thời gian đầu tư cho việc nghiên cứu, nâng cao trình độ chuyên môn cũng như cập nhật kịp thời những văn bản mới; cũng từ nguyên nhân này mà đội ngũ công chức Tư pháp – Hộ tịch không được chuyên nghiệp. Mặt khác, công chức Tư pháp - Hộ tịch là vị trí dễ bị thay đổi theo nhiệm kỳ của Ủy ban nhân dân nên chuyên môn bị hạn chế do không được bồi dưỡng nghiệp vụ kịp thời. Đây chính là nguyên nhân làm giảm hiệu quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực hộ tịch.

Cũng như công chức Tư pháp - Hộ tịch, các cán bộ Lãnh sự làm công tác hộ tịch tại các Cơ quan đại diện cũng không ổn định (do được bổ nhiệm theo nhiệm kỳ), nên phần nào hạn chế đến công tác chuyên môn, trong khi nghiệp vụ về hộ tịch, quốc tịch đòi hỏi phải chuyên sâu, điều này đã ảnh hưởng đến chất lượng công việc.

2.4. Việc phân cấp thẩm quyền đăng ký hộ tịch chưa triệt để (vẫn còn nhiều cấp có thẩm quyền đăng ký hộ tịch); việc quy định về ghi sổ và cấp giấy tờ hộ tịch chưa khoa học (không có sổ hộ tịch chung và cũng không có một loại giấy tờ hộ tịch chung cấp cho cá nhân trong đó tích hợp mọi thông tin về hộ tịch của cá nhân).

2.5. Yêu cầu cải cách thủ tục hành chính chưa gắn với đặc thù của công việc hộ tịch

2.6. Chưa ứng dụng rộng rãi công nghệ thông tin trong đăng ký và quản lý hộ tịch

Chưa có cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử kết nối giữa các cơ quan hộ tịch ở trong nước với nhau, cũng như với các Cơ quan đại diện để chia sẻ và kết nối thông tin phục vụ cho việc tra cứu, xác minh thông tin về hộ tịch của cá nhân là nguyên nhân gây tốn kém về kinh phí, không bảo đảm độ chính xác về thông tin, kéo dài thời hạn giải quyết yêu cầu đăng ký hộ tịch của công dân Việt Nam.

2.7. Quá tải về công việc, chưa có cơ chế chính sách phù hợp cho những chị em phụ nữ nông thôn là những nguyên nhân dẫn đến hạn chế trong thực hiện yêu cầu quản lý Nhà nước về hộ tịch cũng như giải quyết đăng ký hộ tịch có yếu tố nước ngoài ở Sở Tư pháp

Hiện tại, trung bình mỗi Phòng Hành chính tư pháp thuộc Sở Tư pháp chỉ có từ 3 - 4 công chức; trong khi đó chức năng của phòng là giúp Giám đốc Sở Tư pháp quản lý nhiều mảng công việc khác nhau như: hộ tịch, quốc tịch, lý lịch tư pháp, chứng thực, bồi thường Nhà nước…; để làm tốt nhiệm vụ quản lý, thì riêng các việc thực hiện nhiệm vụ hướng dẫn, chỉ đạo, bồi dưỡng nghiệp vụ, tuyên tuyền, kiểm tra… đối với từng lĩnh vực đã chiếm khá nhiều thời gian, trong khi đó còn phải đảm nhiệm yêu cầu trực tiếp giải quyết hồ sơ đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài nên đã xao nhãng nhiệm vụ quản lý (khi cơ sở vướng mắc không chỉ đạo mà chuyển hồ sơ lên xin ý kiến Bộ Tư pháp, cũng vì tập trung giải quyết những vụ việc cụ thể mà Bộ Tư pháp không tập trung, đáp ứng yêu cầu quản lý vĩ mô như việc xây dựng và hoàn thiện thể chế…). Bên cạnh đó, các tổ chức đoàn thể (Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ…) chưa phát huy được vai trò của mình trong việc tuyên truyền, nâng cao nhận thức của chị em, nên vẫn còn nhiều chị em mong muốn lấy chồng nước ngoài để được “đổi đời”. Ủy ban nhân dân các cấp chưa có chương trình, chính sách xã hội cụ thể trong việc tạo công ăn, việc làm, thu nhập ổn định để chị em yên tâm với cuộc sống hiện tại cũng là nguyên nhân dẫn đến sự gia tăng số lượng chị em kết hôn với công dân nước ngoài.

III. KIẾN NGHỊ CÁC GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN CÔNG TÁC ĐĂNG KÝ VÀ QUẢN LÝ HỘ TỊCH

Nhằm phát huy những kết quả đã đạt được, đồng thời khắc phục những vấn đề còn tồn tại trong công tác hộ tịch; trong thời gian tới cần tập trung vào những giải pháp sau đây:



  1. Hoàn thiện thể chế

Như phần trên đã trình bày, hạn chế lớn nhất trong thể chế về hộ tịch là các quy phạm pháp luật về hộ tịch còn phân tán trong nhiều văn bản khác nhau và văn bản điều chỉnh trực tiếp trong lĩnh vực hộ tịch chỉ là Nghị định và Thông tư. Chính vì vậy, việc xây dựng một đạo Luật về hộ tịch làm cơ sở pháp lý đồng bộ, thống nhất về đăng ký và quản lý hộ tịch trong toàn quốc và các Cơ quan đại diện là yêu cầu cấp thiết đặt ra trong giai đoạn hiện nay.

Ngày 06/8/2011, Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ nhất đã thông qua Nghị quyết số 07/2011/QH13 về chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2012 và điều chỉnh chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2011; trong đó Luật Hộ tịch đã được đưa vào chương trình chính thức trình Quốc hội cho ý kiến tại kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XIII. Ngày 27 tháng 9 năm 2011, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1681/QĐ-TTg về việc phân công cơ quan chủ trì, soạn thảo dự án luật, pháp lệnh thuộc Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2012 và các dự án luật, pháp lệnh được điều chỉnh trong Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2011 của Quốc hội; trong đó Luật Hộ tịch sẽ được Chính phủ trình Quốc hội xem xét, cho ý kiến tại kỳ họp thứ tư (tháng 10/2012).

Dự thảo Luật Hộ tịch cần được xây dựng trên cơ sở bảo đảm kế thừa và phát triển các quy định pháp luật về hộ tịch đã được thực tế kiểm nghiệm, khắc phục một cách cơ bản những hạn chế, bất cập của hệ thống pháp luật hiện hành; cụ thể là:

1.1. Tiếp tục phân cấp mạnh mẽ thẩm quyền đăng ký hộ tịch

Cần tách bạch rõ ràng hơn chức năng quản lý nhà nước về hộ tịch (xây dựng thể chế, hướng dẫn, chỉ đạo thực hiện thể chế, kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm…) và chức năng đăng ký hộ tịch, theo hướng tiếp tục phân cấp thẩm quyền đăng ký hộ tịch cho chính quyền cấp cơ sở; cấp tỉnh chỉ làm nhiệm vụ quản lý.

1.2. Xây dựng chức danh Hộ tịch viên

Để nâng cao hiệu lực, hiệu quả của công tác hộ tịch thì cần thiết phải ổn định, chuyên nghiệp hóa đội ngũ công chức thực hiện công tác hộ tịch thông qua việc xây dựng chức danh Hộ tịch viên. Việc xây dựng chức danh Hộ tịch viên sẽ bảo đảm tính chuyên nghiệp cho đội ngũ công chức này đồng thời cũng là điều kiện cần thiết để Ủy ban nhân dân cấp xã nhận chuyển giao những công việc phức tạp từ Sở Tư pháp và Ủy ban nhân dân cấp huyện.

1.3. Lập Sổ bộ hộ tịch và cấp Sổ hộ tịch cá nhân

Để khắc phục tình trạng dữ liệu hộ tịch của cá nhân bị phân tán, không kết nối được với nhau thì cần cải tiến sổ hộ tịch và phương thức đăng ký, quản lý hộ tịch. Theo đó, cần lập Sổ bộ hộ tịch (do cơ quan nhà nước quản lý) và cấp Sổ hộ tịch cá nhân (do cá nhân công dân giữ để sử dụng khi cần chứng minh tình trạng hộ tịch của mình). Sổ bộ hộ tịch được lập và Sổ hộ tịch cá nhân được cấp khi công dân đăng ký khai sinh và các sự kiện hộ tịch phát sinh sau khi đăng ký khai sinh như: kết hôn, ly hôn, nuôi con nuôi, giám hộ, thay đổi, cải chính hộ tịch... cũng sẽ phải được ghi vào Sổ bộ hộ tịch và Sổ hộ tịch cá nhân.

1.4. Cấp số định danh công dân

Hiện nay, khi các cơ quan nhà nước, các tổ chức cấp các loại giấy tờ liên quan đến nhân thân của mỗi cá nhân để sử dụng thường dùng nhiều số khác nhau (Số chứng minh nhân dân, Số Hộ chiếu, Mã số thuế…) nên không có sự thống nhất, kết nối với nhau dẫn đến khó khăn cho công tác quản lý xã hội. Dự thảo Luật cần quy định việc cấp số định danh công dân cho công dân Việt Nam và số này sẽ được ghi vào Sổ bộ hộ tịch, Sổ hộ tịch cá nhân; theo đó, các số Chứng minh nhân dân, mã số thuế… của cá nhân cũng sẽ lấy theo số này; từ đó, mỗi cá nhân chỉ cần có một số duy nhất trong đời để thực hiện các giao dịch liên quan.

1.5. Xây dựng cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử

Cần xác định, xây dựng cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử là một yêu cầu bức thiết hiện nay. Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho công tác quản lý hộ tịch, đặc biệt là trong thống kê, báo cáo số liệu đăng ký hộ tịch để phục vụ chính xác, kịp thời cho việc xây dựng, hoạch định chính sách kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh và trong tra cứu thông tin biến động hộ tịch theo yêu cầu của người dân.

2. Trong khi chờ trình Quốc hội xem xét, thông qua Luật Hộ tịch, cần làm tiếp tục làm tốt những việc sau đây:

2.1. Tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về hộ tịch

Công tác quản lý, đăng ký hộ tịch cần được coi là công tác quan trọng của cấp uỷ, chính quyền địa phương, không phải là công tác của riêng ngành Tư pháp. Các Sở Tư pháp cần xác định vai trò nòng cốt của mình, chủ động, tích cực hơn nữa trong việc tham mưu, đề xuất với Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, cũng như sự phối hợp với các sở, ban, ngành trong quá trình tổ chức thực hiện; sớm có giải pháp cụ thể phù hợp với tình hình thực tiễn của địa phương để khắc phục tình trạng buông lỏng quản lý hoặc hạn chế, yếu kém trong công tác quản lý, đăng ký hộ tịch; tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra đối với hoạt động đăng ký hộ tịch ở cấp huyện, cấp xã; việc đăng ký hộ tịch có yếu tố nước ngoài; thay đổi, cải chính hộ tịch… kịp thời uốn nắn các sai sót, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật trong hoạt động đăng ký và quản lý hộ tịch.

2.2. Tiếp tục củng cố, kiện toàn, nâng cao năng lực cán bộ, công chức làm công tác hộ tịch, đặc biệt ở cấp huyện và cấp xã

Thông tư liên tịch số 03/2010/TTLT-BNV-BTC-BLĐTBXH ngày 27/5/2010 của Bộ Nội vụ, Bộ Tài chính, và Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội hướng dẫn thực hiện nghị định số 92/2009/NĐ-CP ngày 22/10/2009 đã quy định việc ưu tiên bố trí thêm chức danh Tư pháp - Hộ tịch.

Như vậy, về mặt pháp lý, mặc dù các văn bản pháp luật hiện hành quy định về chức danh, số lượng cán bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn chưa ghi nhận một cách chính thức về chức danh Hộ tịch viên, nhưng các văn bản này đã quan tâm bố trí thêm chức danh Tư pháp - Hộ tịch; do đó, trước mắt các cấp chính quyền địa phương cần quan tâm, bố trí đủ mỗi xã, phường, thị trấn có ít nhất 01 công chức chuyên trách về hộ tịch. Để có một đội ngũ làm công tác hộ tịch chuyên nghiệp, ổn định; đủ về số lượng, bảo đảm về chất lượng; đáp ứng được yêu cầu của công tác đăng ký và quản lý hộ tịch trong giai đoạn hiện nay thì công chức được bố trí vào vị trí Tư pháp - Hộ tịch phải đủ tiêu chuẩn theo quy định và phải được bồi dưỡng nghiệp vụ hộ tịch để đảm nhiệm công tác chuyên môn.



2.3. Tiếp tục củng cố mối quan hệ phối hợp giữa các ngành, các cấp có liên quan; bảo đảm tính kết nối, liên thông giữa cơ quan quản lý, đăng ký hộ tịch với các cơ quan khác có liên quan trong quản lý và khai thác các thông tin, số liệu về hộ tịch.

2.4. Tăng cường bảo đảm các điều kiện về phương tiện, cơ sở vật chất cho các cơ quan tư pháp

Các cấp chính quyền địa phương cần xác định rõ ý nghĩa và tầm quan trọng của công tác hộ tịch trong việc góp phần xây dựng các chính sách về kinh tế, xã hội, an ninh quốc phòng và dân số, kế hoạch hóa gia đình để quan tâm, đầu tư hơn cho công tác này. Cần dành kinh phí nhất định cho việc mở các lớp tập huấn, các đợt tuyên truyền để người dân hiểu được quyền và nghĩa vụ đăng ký hộ tịch của mình. Tại các xã, phường, thị trấn cần trang bị đầy đủ phương tiện làm việc (máy tính), tủ lưu hồ sơ, sổ hộ tịch, bố trí địa điểm tiếp dân...

2.5. Tăng cường công tác tuyên truyền

Cần coi công tác tuyên truyền là nhiệm vụ không thể thiếu của chính quyền các cấp; nâng cao nhận thức về pháp luật cho người dân, đặc biệt là bà con thuộc khu vực miền núi, vùng sâu vùng xa là đòi hỏi cấp bách, cần được thực hiện thường xuyên. Để thu hút sự tham gia của bà con, cần có những tài liệu chuẩn phục vụ công tác tuyên truyền, trong đó lưu ý trình độ của bà con theo từng vùng (tránh việc đọc văn bản), bên cạnh đó cũng cần đầu tư những khoản kinh phí cần thiết phục vụ cho công tác tuyên truyền, để bảo đảm hiệu quả của công tác tuyên truyền.

2.6. Tiếp tục đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong đăng ký và quản lý hộ tịch, xây dựng cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử.

2.7. Tiếp tục thực hiện cải cách hành chính, tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho người dân khi có yêu cầu đăng ký hộ tịch

Thực hiện yêu cầu cải cách hành chính theo hướng đơn giản hóa quy trình, rút ngắn thời gian giải quyết, giảm bớt chi phí và phiền hà cho công dân khi có yêu cầu đăng ký hộ tịch đã được thể hiện tại Nghị định số 158/2005/NĐ-CP; tuy nhiên, để người dân thực sự được hưởng lợi từ yêu cầu cải cách thủ tục hành chính, đòi hỏi trước hết là các công chức trực tiếp giải quyết yêu cầu đăng ký hộ tịch của công dân phải là những người có đạo đức, có tâm với nghề; thực hiện đúng chức trách của cán bộ công chức nói chung và cán bộ làm công tác hộ tịch nói riêng đã được quy định cụ thể trong pháp luật.

2.8. Đổi mới công tác thống kê, báo cáo về hộ tịch

Các ngành, các cấp cần quan tâm đến công tác thống kê, báo cáo về hộ tịch. Số liệu báo cáo phải được cập nhật kịp thời, đầy đủ, bảo đảm độ chính xác của số liệu.

2.9. Củng cố và tăng cường hoạt động đăng ký và quản lý hộ tịch tại các Cơ quan đại diện

Bộ Tư pháp phối hợp chặt chẽ với Bộ Ngoại giao trong việc tập huấn về nghiệp vụ hộ tịch, quốc tịch cho các cán bộ sang làm công tác lãnh sự tại các Cơ quan đại diện; tổ chức các đoàn kiểm tra để kịp thời uốn nắn những sai sót (nếu có) trong quá trình thực hiện.

Các Cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài cần thực hiện nghiêm túc quy định của pháp luật về hộ tịch, kể cả việc đăng ký sổ kép; bảo đảm đưa công tác hộ tịch, quốc tịch tại các Cơ quan đại diện ngày càng đi vào nền nếp, đáp ứng yêu cầu quản lý Nhà nước cũng như đáp ứng yêu cầu đăng ký hộ tịch của công dân Việt Nam ở nước ngoài.

Trên đây là kết quả tổng kết công tác đăng ký và quản lý hộ tịch và việc thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về hộ tịch, Bộ Tư pháp xin báo cáo Chính phủ./.


Nơi nhận:

- Như trên;

- Các Thành viên Chính phủ;

- UBTP, UBPL của Quốc hội;

- Văn phòng TW Đảng;

- Văn phòng Tổng bí thư;

- Văn phòng Quốc hội;

- Văn phòng Chủ tịch nước;

- Văn phòng Chính phủ;

- Toà án nhân dân tối cao;

- Viện Kiểm sát nhân dân tối cao;

- Lưu: VT, Vụ HCTP.

KT.BỘ TRƯỞNG

THỨ TRƯỞNG

Đinh Trung Tụng



PHỤ LỤC

Các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành

điều chỉnh trực tiếp trong lĩnh vực hộ tịch




06 Nghị định, 01 Thông tư liên tịch và 05 Thông tư, bao gồm:

- 06 Nghị định:

+ Nghị định số 77/2001/NĐ-CP ngày 22 tháng 10 năm 2001 của Chính phủ quy định chi tiết về đăng ký kết hôn theo Nghị quyết số 35/2000/QH10 của Quốc hội về việc thi hành Luật Hôn nhân và gia đình (Nghị định này hiện đã hết hiệu lực một phần);

+ Nghị định số 32/2002/NĐ-CP ngày 27/3/2002 của Chính phủ quy định việc áp dụng Luật Hôn nhân và gia đình đối với các dân tộc thiểu số;

+ Nghị định số 68/2002/NĐ-CP ngày 10/7/2002 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Hôn nhân và gia đình về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài;

+ Nghị định số 69/2006/NĐ-CP ngày 21/7/2006 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 68/2002/NĐ-CP;

+ Nghị định số 158/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005 của Chính phủ về đăng ký và quản lý hộ tịch;

+ Nghị định số 06/2012/NĐ-CP ngày 02 tháng 02 năm 2012 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của các Nghị định về hộ tịch, hôn nhân gia đình và chứng thực.

- 01 Thông tư liên tịch:

Thông tư liên tịch số 11/2008/TTLT-BTP-BNG ngày 31/12/2008 của Liên Bộ Tư pháp - Ngoại giao hướng dẫn thực hiện quy định của Nghị định số 158/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005 của Chính phủ về đăng ký và quản lý hộ tịch tại các cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự của Việt Nam ở nước ngoài.



- 05 Thông tư:

+ Thông tư 07/2001/TT-BTP ngày 10/12/2001 của Bộ Tư pháp hướng dẫn thi hành một số quy định của Nghị định số 77/2001/NĐ-CP ngày 22 tháng 10 năm 2001 của Chính phủ quy định chi tiết về đăng ký kết hôn theo Nghị quyết số 35/2000/QH10 của Quốc hội (Nghị định số 77/2001/NĐ-CP hiện đã hết hiệu lực một phần, theo đó Thông tư này cũng đã hết hiệu lực một phần);

+ Thông tư số 07/2002/TT-BTP ngày 16/12/2002 của Bộ Tư pháp hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị số 68/2002/NĐ-CP ngày 10/7/2002 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Hôn nhân và gia đình về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài;

+ Thông tư số 01/2008/TT-BTP ngày 02/6/2008 của Bộ Tư pháp hướng dẫn thực hiện một số quy định của Nghị định số 158/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005 của Chính phủ về đăng ký và quản lý hộ tịch;

+ Thông tư số 08.a/2010/TT-BTP ngày 25/3/2010 của Bộ Tư pháp ban hành và hướng dẫn việc ghi chép, lưu trữ, sử dụng số, biểu mẫu hộ tịch;

+ Thông tư số 16.a/2010/TT-BTP ngày 08/10/2010 về việc sửa đổi biểu mẫu hộ tịch ban hành kèm theo Thông tư số 08.a/2010/TT-BTP.





1 Nguồn: Tổng hợp báo cáo của các Sở Tư pháp

2 Nguồn: Tổng hợp báo cáo của các Sở Tư pháp.

3 Nguồn: Tổng hợp báo cáo của Sở Tư pháp thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và thành phố Cần Thơ.

4 Nguồn: Tổng hợp báo cáo của Bộ Ngoại giao

5 Ngày 22 tháng 4 năm 2011, tại thành phố Cần Thơ, Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân đã chủ trì Hội nghị toàn quốc về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài, trong đó có tổng kết những kết quả đạt được và những hạn chế qua triển khai Chỉ thị này từ đó tìm ra giải pháp nhằm lành mạnh hóa quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài.

6 Nguồn: Trung tâm Thông tin và Tư liệu dân số, Tổng Cục Dân số Bộ Y tế.




Каталог: DuThao -> Lists -> DT TAILIEU COBAN -> Attachments
Attachments -> BỘ TƯ pháp số: 151 /bc-btp cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam
Attachments -> Phần thứ nhất ĐÁnh giá TÌnh hình tổ chức thực hiện luật hợp tác xã NĂM 2003
Attachments -> BỘ NÔng nghiệp và phát triển nông thôn cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam
Attachments -> Danh mỤc LuẬt/NghỊ đỊnh thư cỦa các quỐc gia/khu vỰc đưỢc tham khẢo trong quá trình xây dỰng DỰ thẢo luật tài nguyên, môi trưỜng biỂn và hẢi đẢo
Attachments -> CHÍnh phủ CỘng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
Attachments -> CHÍnh phủ CỘng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
Attachments -> BỘ giao thông vận tải cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam
Attachments -> 1- tình hình gia nhập công ước quốc tế về an toàn – vệ sinh lao động
Attachments -> BÁo cáo tổng hợp kinh nghiệm nưỚc ngoài a. Nhận xét chung

tải về 222.76 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương