BỘ luật tố TỤng hình sự CỘng hoà pháP



tải về 3.81 Mb.
trang7/49
Chuyển đổi dữ liệu14.07.2016
Kích3.81 Mb.
#1709
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10   ...   49

Điều 81-1

Thẩm phán điều tra có thể tự động, hoặc theo yêu cầu của toà án hoặc bên dân sự, tiến hành, phù hợp với luật, bất kì hoạt động nào cho phép đánh giá bản chất và tầm quan trọng của việc định kiến đối với nạn nhân, hoặc thu thập thông tin về nhân cách của người này.


Điều 82

Tại văn bản đề nghị ban đầu, và văn bản đề nghị bổ sung vào bất kì thời điểm nào trong quá trình điều tra, công tố viên trưởng cấp quận có thể yêu cầu thẩm phán điều tra tiến hành bất kì hoạt động nào thấy có ích cho việc khám phá sự thật cũng như bất kì biện pháp an toàn cần thiết nào. Người này cũng có thể yêu cầu được có mặt khi các hoạt động mà mình đề nghị được tiến hành.

Người này có thể được chuyển đến hồ sơ vụ án vì mục đích này với điều kiện là phải trả lại trong vòng 24 giờ.

Nếu người này yêu cầu sắp đặt hoặc tạm giam trước khi xét xử người chấp hành việc kiểm tra tư pháp, những đề nghị của người này phải được lập thành văn bản và nêu rõ lý do bằng việc chỉ dẫn chiếu đến các quy định tại điều 144.

Nếu thẩm phán điều tra không thông qua các đề nghị của công tố viên trưởng cấp quận thì phải, không ảnh hưởng đến việc áp dụng các quy định của điều 137-4, ban hành một lệnh có nêu rõ lý do trong vòng 5 ngày kể từ khi có các đề nghị này, trừ các trường hợp quy định tại đoạn 2 điều 137.

Nếu thẩm phán điều tra không ban hành lệnh, công tố viên trưởng cấp quận có thể làm đơn đến phòng điều tra trong vòng 10 ngày. Điều tương tự áp dụng nếu thẩm phán giám sát, nhận được hồ sơ vụ án từ thẩm phán điều tra, không ra phán quyết trong vòng 10 ngày kể từ khi nhận.


Điều 82-1

Trong quá trình điều tra, các bên có thể nộp cho thẩm phán điều tra đơn bằng văn bản có nêu rõ lý do để được xét hỏi hoặc thẩm vấn, hỏi nhân chứng, đối chất hoặc thẩm tra hiện trường tội phạm, ra lệnh cho một trong số họ tiết lộ nhân tố có ích cho việc điều tra, hoặc tiến hành bất kì bước nào khác có vẻ cần thiết đối với họ trong việc khám phá sự thật. Với hình phạt huỷ bỏ, đơn phải được làm phù hợp với các quy định tại đoạn 10 điều 81; phải đề cập đến tất cả các hành vi được yêu cầu, và khi liên quan đến việc xét hỏi, chỉ rõ danh tính của người có việc xét hỏi được yêu cầu.

Thẩm phán điều tra phải ban hành một lệnh có nêu rõ lý do trong vòng một tháng kể từ khi nhận được đơn, khi quyết định không cho phép. Các quy định tại đoạn cuối điều 81 được áp dụng.

Sau khi hết thời hạn bốn tháng kể từ khi trình diện lần cuối, người chấp hành việc kiểm tra tư pháp yêu cầu điều này bằng văn bản phải được xét hỏi bởi thẩm phán điều tra. Thẩm phán điều tra tiến hành việc thẩm vấn này trong vòng 30 ngày kể từ khi nhận được đơn, được soạn thảo phù hợp với các quy định tại đoạn 10 điều 81.


Điều 82-2

Khi người chấp hành việc kiểm tra tư pháp theo các quy định tại Điều 82-1 gửi yêu cầu chính thức đến thẩm phán điều tra để được đến một nơi nào đó, hoặc được hỏi nhân chứng, bên dân sự hoặc người khác bị kiểm tra tư pháp, người đó có thể yêu cầu là điều này được thực hiện với sự có mặt của luật sư của mình.

Bên dân sự có quyền giống như vậy liên quan đến việc đến các địa điểm, hỏi nhân chứng hoặc bên dân sự khác hoặc thẩm vấn người bị kiểm tra tư pháp.

Thẩm phán điều tra phán quyết về các yêu cầu này phù hợp với các quy định tại đoạn hai điều 82-1. Nếu đồng ý với yêu cầu, thẩm phán điều tra mời luật sư bào chữa không muộn hơn hai ngày làm việc trước ngày đến hiện trường, xét hỏi hoặc thẩm vấn nhân chứng, trong quá trình này thẩm phán có thể tham gia theo cách thức quy định tại điều 120.


Điều 82-3

Nếu thẩm phán điều tra không thừa nhận tính hợp pháp của yêu cầu của bên đề nghị ra phán quyết hết thời hiệu truy tố thì phải ra một quyết định có nêu rõ lý do trong vòng một tháng từ khi nhận được yêu cầu. Các quy định của đoạn áp chót và đoạn cuối điều 81 được áp dụng.


Điều 83

Khi có nhiều thẩm phán điều tra tại một toà án thì chánh án hoặc, nếu người này không thể hành động, thẩm phán thay thế, chỉ định thẩm phán chủ trì mỗi cuộc điều tra tư pháp. Người này có thể soạn thảo một bản kế hoạch thực hiện vì mục đích này.

Khi mức độ phức tạp hoặc nghiêm trọng của vụ án đòi hỏi, chánh án hoặc, nếu người này không thể hành động, thẩm phán thay thế, có thể điều động cho thẩm phán điều tra chủ trì việc điều tra một hoặc nhiều thẩm phán điều tra mà mình chỉ định lúc bắt đầu tố tụng hoặc theo yêu cầu hoặc với sự đồng ý của thẩm phán chủ trì việc điều tra, vào bất kì thời điểm nào của tiến trình tố tụng, theo đơn của thẩm phán chủ trì việc điều tra.

Thẩm phán chủ trì việc điều tra tổ chức, phối hợp, đảm bảo cho cuộc điều tra được tiến hành thuận lợi; chỉ người này có thẩm quyền đề nghị thẩm phán giám sát ra lệnh thả người.

Việc chỉ định quy định tại điều này không bị kháng cáo bằng các biện pháp hành chính tư pháp.
Điều 83-1

Nhằm thực hiện đoạn hai điều 83, khi toà án chỉ có một hoặc hai thẩm phán điều tra, chánh toà phúc thẩm có thể điều động cho thẩm phán chủ trì việc điều tra một hoặc nhiều thẩm phán thuộc quyền theo yêu cầu của chánh án toà án cấp quận hoặc của thẩm phán thay thế, khi không thể hành động.


Điều 84

Tuỳ thuộc vào việc thực hiện các điều 657 và 663, việc thay thế thẩm phán điều tra này bằng một thẩm phán điều tra khác có thể do chánh án yêu cầu theo lợi ích của việc thực hành phù hợp công lý, bằng một đơn có nêu lý do của công tố viên cấp quận hành động một cách đột xuất hoặc theo đơn của các bên.

Chánh án phải quyết định trong vòng một tuần bằng một lệnh không bị kháng cáo.

Khi thẩm phán chủ trì việc điều tra không thể hành động do đang nghỉ phép, ốm hoặc bất kì lý do nào khác, bao gồm cả việc điều chuyển đến một vị trí khác, chánh án chỉ định một thẩm phán điều tra khác thay thế.

Tuy nhiên, trong những trường hợp khẩn cấp và đối với những hoạt động riêng biệt, bất kì thẩm phán điều tra nào cũng có thể làm thay cho một thẩm phán điều tra khác thuộc cùng một toà án.

Trong các trường hợp quy định tại đoạn hai điều 83 và điều 83-1, thẩm phán được chỉ định hoặc, nếu có nhiều thẩm phán, thẩm phán được chỉ định đầu tiên theo lệnh có thể thay thế hoặc làm thay cho thẩm phán chủ trì việc điều tra mà không cần phải sử dụng các đoạn trên.


MỤC II

ĐƠN KIỆN CỦA BÊN DÂN SỰ VÀ HẬU QUẢ

Các điều từ 85 đến 91-1


Điều 85

Bất kì ai cho rằng mình bị thiệt hại do một tội nghiêm trọng hoặc ít nghiêm trọng đều có thể kiện để trở thành bên dân sự bằng cách khiếu nại với thẩm phán điều tra phù hợp với quy định tại các điều 52 và 706-42.


Điều 86

Thẩm phán điều tra lệnh cho khiếu nại được gửi tới công tố viên cấp quận để người này có thể soạn thảo các đề nghị của mình.

Các đề nghị của bên công tố có thể được làm đối với một người có tên hoặc không có tên.

Nếu khiếu nại không có đủ lý do hoặc căn cứ, công tố viên cấp quận có thể, trước khi đưa ra các đề nghị và nếu thẩm phán điều tra chưa tự mình làm điều này, yêu cầu thẩm phán này xét hỏi bên dân sự và, nếu có thể xảy ra, đề nghị bên này tiết lộ các yếu tố hỗ trợ cho khiếu nại.

Công tố viên cấp quận chỉ có thể gửi cho thẩm phán điều tra đề nghị không tiến hành điều tra khi các tình tiết của vụ án không thể dẫn đến việc truy tố hợp pháp vì các lý do liên quan đến quyền truy tố, hoặc khi, nếu các tình tiết cho thấy là chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự. Khi thẩm phán điều tra quyết định khác thì phải ra lệnh có nêu lý do.

Khi thẩm phán điều tra ra lệnh từ chối điều tra thì có thể áp dụng quy định tại các điều 177-2 và 177-3.


Điều 87

Bên kiện dân sự có thể nộp đơn vào bất kì thời điểm nào trong quá trình điều tra tư pháp.

Công tố viên cấp quận hoặc một bên khác có thể phản đối đơn này.

Nếu có sự phản đối hoặc khi không chấp nhận đơn kiện dân sự, thẩm phán điều tra quyết định, sau khi gửi hồ sơ vụ án cho công tố viên, bằng một lệnh có nêu lý do mà bên liên quan có thể kháng cáo.


Điều 87-1

Thẩm phán điều tra liên quan đến các hành vi cố ý thực hiện đối với trẻ em của những người giữ quyền làm cha mẹ hoặc một trong số họ có thể chỉ định một người thừa hành tạm thời15 để thực hiện nhân danh đứa trẻ, khi cần thiết, các quyền của bên dân sự. Nếu có đơn kiện của bên dân sự, thẩm phán có thể chỉ định chính thức một luật sư cho người chưa thành niên nếu chưa có ai được chọn.

Các quy định trên được áp dụng cho toà án xét xử.
Điều 88

Thẩm phán điều tra ra lệnh lưu trong hồ sơ các đơn khiếu nại. Nếu không được hưởng trợ giúp pháp lý, thì ấn định tuỳ theo thu nhập của bên dân sự số tiền phải trả cho toà án; bên này phải nộp cho văn phòng toà án trong một thời hạn nhất định bằng không khiếu nại sẽ không được chấp nhận. Thẩm phán có thể miễn cho bên dân sự khoản tiền nói trên.


Điều 88-1

Khoản tiền nộp cho toà án được ấn định theo điều 88 đảm bảo việc chi trả cho bất kì khoản tiền phạt dân sự nào phải chịu theo đoạn một điều 177-2.

Thẩm phán điều tra hoặc phòng điều tra, khi công tố viên hoặc bên dân sự kháng cáo, ra lệnh trả lại số tiền đã nộp cho toà án khi không có việc phạt tiền.
Điều 89

Bên dân sự phải cho thẩm phán điều tra biết địa chỉ. Điều này có thể diễn ra tại các thành phố lớn ở nước Pháp nếu việc điều tra diễn ra ở các thành phố lớn nước Pháp, hoặc nếu diễn ra tại văn phòng nước ngoài, thì ở văn phòng này.

Bên dân sự có thể tiết lộ địa chỉ nhà riêng hoặc địa chỉ của bên thứ ba được uỷ quyền nhận tài liệu được gửi đến cho mình, với sự đồng ý của bên thứ ba đó, có thể được xác nhận bằng bất kì cách nào.

Bên dân sự được thông báo là phải lưu ý thẩm phán điều tra bất kì thay đổi nào của địa chỉ nói trên trước khi kết thúc việc điều tra tư pháp, bằng một tuyên bố mới hoặc bằng việc gửi một thư có đăng ký với yêu cầu thông báo khi nhận được. Người này cũng được lưu ý là bất kì việc tống đạt nào tới địa chỉ được cung cấp cuối cùng được cho là đã được gửi tới đích thân người này.

Nếu người này không cung cấp địa chỉ, bên dân sự không thể viện cớ là không có việc tống đạt tài liệu đáng lý ra đã được thông báo cho người này theo luật.
Điều 89-1

Bên dân sự được thông báo trong quá trình thẩm tra đầu tiên quyền nộp đơn xin ra quyết định hoặc đơn xin huỷ theo các căn cứ của điều 81, đoạn chín, 82-1, 156, đoạn một, và 173, đoạn ba, trong tiến trình điều tra và muộn nhất vào ngày thứ hai mươi sau khi gửi thông báo quy định tại đoạn một điều 175.

Nếu cho rằng thời gian dự kiến để hoàn tất việc điều tra là ít hơn một năm trong vụ án ít nghiêm trọng và ít hơn mười tám tháng trong vụ án nghiêm trọng, thẩm phán điều tra trao đổi thời hạn này với bên dân sự và khuyên người này là khi kết thúc thời hạn này bên dân sự có thể yêu cầu khép lại thủ tục theo các quy định tại điều 175-1. Nếu không phải như vậy thì chỉ cho bên dân sự thấy là có thể, cũng theo điều này, yêu cầu khép lại thủ tục sau thời hạn một năm đối với vụ án ít nghiêm trọng hoặc mười tám tháng đối với vụ án nghiêm trọng.

Thông tin nêu tại đoạn trên cũng có thể cung cấp bằng con đường công văn có lưu trong hồ sơ.


Điều 90

Trong trường hợp thẩm phán điều tra không có thẩm quyền giải quyết theo quy định tại Điều 52 thì sau khi có kết luận của Viện công tố, thẩm phán điều tra ra quyết định chuyển đơn xin bồi thường thiệt hại của nguyên đơn dân sự tới cơ quan tài phán có thẩm quyền giải quyết.


Điều 90-1

Trong các vụ án nghiêm trọng, hoặc ít nghiêm trọng với những người trái với Quyển II Bộ luật hình sự, hoặc ít nghiêm trọng với tài sản trái với Quyển III Bộ luật này kèm theo việc sử dụng vũ lực tấn công người khác, thẩm phán điều tra thông báo cho bên dân sự tiến trình điều tra sáu tháng một lần.

Thông báo này có thể được gửi bằng thư cho bên dân sự và luật sư của người này, hoặc vào lúc xét hỏi bên dân sự.

Khi một hiệp hội gồm nhiều nạn nhân tự tạo thành bên dân sự theo điều 2-15, thông báo này chỉ được gửi cho hiệp hội có trách nhiệm thông báo cho từng cá nhân nạn nhân trong tổ chức, trừ khi những nạn nhân này cũng tự mình tạo thành các bên dân sự với tư cách cá nhân.


Điều 91

Nếu, sau khi người tự mình tạo thành bên dân sự đã mở một cuộc điều tra và quyết định loại bỏ được đưa ra, người bị thẩm tra tư pháp, hoặc bất kì ai khác là đối tượng của khiếu nại có thể, không ảnh hưởng đến việc truy tố tội vu khống, và nếu họ không tiến hành các thủ tục tố tụng dân sự, đòi bồi thường thiệt hại từ người khiếu nại, như quy định dưới đây.

Đơn kiện đòi bồi thường phải được nộp trong vòng ba tháng kể từ ngày lệnh loại bỏ16 có hiệu lực. Hoạt động này được tiến hành dưới hình thức một lệnh triệu tập trước toà giam giữ, cải tạo17 nơi vụ án được điều tra. Toà án này được gửi ngay hồ sơ vụ án có việc điều tra bị kết thúc bởi lệnh loại bỏ để trao đổi với các bên. Việc tranh luận diễn ra tại các phòng xử án: các bên, hoặc luật sư của họ, và công tố viên được xét hỏi. Phán quyết được đọc tại phiên toà công khai.

Nếu việc kiện đòi thành công, toà án có thể ra lệnh xuất bản toàn bộ hoặc tóm tắt phán quyết trên một hoặc nhiều tờ báo do toà án lựa chọn với chi phí do người bị kết án chịu. Toà án quyết định chi phí tối đa cho mỗi ấn bản.

Đơn xin gạt ra ngoài và kháng cáo được chấp nhận trong thời hạn thông thường quy định cho tội ít nghiêm trọng.

Kháng cáo được đưa ra trước bộ phận phúc thẩm hình sự để phán quyết theo các điều kiện giống như toà án. Phán quyết của toà phúc thẩm có thể được chuyển cho Toà giám đốc thẩm18 giống như các vụ án hình sự.

Nếu phán quyết cuối cùng được tuyên phù hợp với điều 177-2 phát hiện thấy người tự mình tạo thành bên dân sự mang tính lạm dụng hoặc muộn, phán quyết này có hiệu lực bắt buộc đối với toà giam giữ, cải tạo theo các điều kiện nêu tại các đoạn trên.
Điều 91-1

Đối với các vụ án nghiêm trọng, hoặc ít nghiêm trọng với những người trái với Quyển II Bộ luật hình sự, hoặc ít nghiêm trọng với tài sản trái với Quyển III Bộ luật này kèm theo việc sử dụng vũ lực tấn công người khác, thẩm phán điều tra có thể quyết định là bên dân sự được coi là nhân chứng liên quan đến việc thanh toán các chi phí.


MỤC III

THANH SÁT CÁC ĐỊA ĐIỂM, TÌM KIẾM, THU GIỮ VÀ XÂM NHẬP THƯ TÍN BẰNG CÁC PHƯƠNG TIỆN VIỄN THÔNG

Các điều từ 92 đến 100-7

Đoạn 1


Thanh sát các cơ sở, tìm kiếm và thu giữ

Các điều từ 92 đến 99-4


Điều 92

Thẩm phán điều tra có thể đến hiện trường tội phạm để có những phát hiện hữu ích hoặc tiến hành tìm kiếm. Người này thông báo cho công tố viên cấp quận biết để đi cùng.

Thẩm phán điều tra phải luôn có thư kí đi cùng.

Người này phải soạn thảo một biên bản chính thức ghi lại toàn bộ hoạt động của mình.


Điều 93

Để phục vụ cho hoạt động điều tra, thẩm phán điều tra có thể, sau khi thông báo cho công tố viên, đi cùng với thư kí đến bất kì nơi nào trong phạm vi lãnh thổ quốc gia để tiến hành các bước điều tra, với điều kiện là phải thông báo trước cho công tố viên cấp quận bên cạnh toà án có thẩm quyền nơi đến. Người này phải ghi vào biên bản chính thức các căn cứ của chuyến đi.


Điều 94

Việc tìm kiếm dược tiến hành ở tất cả những nơi nào có thể tìm thấy dư liệu điện tử hoặc đồ vật có thể có ích cho việc tìm ra sự thật.


Điều 95

Nếu khám xét nơi ở của người bị giám sát tư pháp, thẩm phán diều tra phải tuân theo các quy định tại các điều 57 và 59.


Điều 96

Nếu khám xét nơi ở không phải của người bị giám sát tư pháp, người có nơi ở bị khám xét được mời tham dự. Nếu người này vắng mặt hoặc từ chối tham dự, việc khám xét được tiến hành với sự có mặt của hai người bà con bên nội hoăc bên ngoại đang ở tại cơ sở đó hoặc, nếu không có, thì với sự có mặt của hai nhân chứng.

Thẩm phán điều tra phải tuân theo các quy định tại các điều 57(đoạn hai) và 59.

Tuy nhiên, người này có trách nhiệm tổ chức trước toàn bộ các biện pháp phù hợp để đảm bảo sự tuân thủ bí mật nghề nghiệp và các quyền của bị cáo.

Quy định tại các điều 56, 56-1, 56-2 và 56-3 áp dụng đối với việc tìm kiếm do thẩm phán điều tra tiến hành.
Điều 97

Nếu trong quá trình điều tra cần tìm kiếm tài liệu hoặc dữ liệu điện tử, và nhằm phục vụ cho hoạt động điều tra và sự tuân thủ, nếu cần, với nghĩa vụ được ấn định bởi đoạn ba của điều trên, thẩm phán điều tra hoặc sỹ quan cảnh sát tư pháp do người này bổ nhiệm có toàn quyền kiểm tra những tài liệu này trước khi tiến hành thu giữ.

Phải lập một bảng kê đối với toàn bộ đồ vật, tài liệu và dữ liệu điện tử được để tại kho bảo quản tư pháp, và được niêm phong ngay lập tức. Tuy nhiên, nếu khó làm điều này ngay tại chỗ, sỹ quan cảnh sát tư pháp tiến hành như quy định tại đoạn bốn điều 56.

Việc thu giữ bất kì dữ liệu điện tử nào cần thiết cho việc tìm ra sự thật được tiến hành cả bằng việc thu giữ môi trường vật lý lưu trữ giữ liệu hoặc bằng cách thức sao chép dữ liệu với sự có mặt của những người có mặt lúc thu giữ.

Nếu tiến hành sao chép, thì theo lệnh của công tố viên cấp quận, dữ liệu điện tử mà việc sở hữu hoặc sử dụng là bất hợp pháp hoặc nguy hiểm cho an toàn của cá nhân hoặc tài sản có thể bị xoá vĩnh viễn khỏi môi trường vật lý chưa được đưa vào kho bảo quản tư pháp.

Với sự đồng ý của thẩm phán điều tra, sỹ quan cảnh sát tư pháp chỉ cho phép thu giữ đồ vật, tài liệu hoặc dữ liệu điện tử có ích cho việc tìm ra sự thật.

Nếu đã đóng dấu niêm phong thì có thể được mở ra và tài liệu được thẩm tra với sự có mặt của người bị giám sát tư pháp và luật sư của họ. Bên thứ ba có nơi ở tại nơi thu giữ cũng được mời tham dự.

Trừ khi yêu cầu điều tra không cho phép, việc sao chép hoặc sao chụp tài liệu hoặc dữ liệu điện tử đặt trong kho bảo quản tư pháp có thể được chuyển giao ngay cho bất kì người nào liên quan có yêu cầu với chi phí do họ chịu.

Nếu thu giữ tiền, kim loại quý, giấy tờ hoặc chứng khoán không cần được bảo quản theo cách tương tự nhằm tìm ra sự thật hoặc nhằm bảo đảm các quyền của các bên, thì người này có thể uỷ quyền cho thư ký toà gửi vào Cục lưu trữ hoặc Ngân hàng quốc gia.

Nếu thu giữ giấy bạc hoặc tiền xu giả, thẩm phán điều tra hoặc sỹ quan cảnh sát tư pháp phải cung cấp cho trung tâm phân tích quốc gia ít nhất mỗi loại một mẫu tiền xu hoặc giấy bạc bị nghi là giả. Trung tâm phân tích quốc gia có thể tiến hành mở niêm phong. Phải liệt kê trong báo cáo ghi lại việc mở niêm phong. Khi quá trình thử nghiệm hoàn tất, báo cáo và niêm phong phải chuyển tận tay cho thư ký toà án liên quan. Hồ sơ chính thức sẽ bao gồm việc lưu giữ những thứ này.

Yêu cầu của đoạn trên không áp dụng trong các vụ án khi chỉ có một tờ giấy bạc hoặc đồng xu duy nhất cần thiết để xác lập sự thật.
Điều 97-1

Khi cần tuân theo một thư yêu cầu tương trợ, sỹ quan cảnh sát tư pháp có thể tiến hành các biện pháp qu định tại điều 57-1.



Điều 98

Do yêu cầu của hoạt động điều tra tư pháp, việc trao đổi hoặc tiết lộ được tiến hành không có sự uỷ quyền của người bị giám sát tư pháp hoặc của người được hưởng lợi từ người này hoặc người ký hoặc người có tên trên địa chỉ của tài liệu tìm thấy trong quá trình tìm kiếm, cho người không được luật trao quyền thẩm tra, bị phạt tiền 4.500 euro và hai năm tù.


Điều 99

Trong quá trình điều tra, thẩm phán điều tra có thẩm quyền quyết định việc trả lại các đồ vật thuộc thẩm quyền tư pháp.

Người này quyết định bằng việc tự mình hoặc theo đề nghị của công tố viên cấp quận ra một lệnh có nêu lý do, sau khi nghe ý kiến của công tố viên, hoặc theo đơn của người bị giám sát tư pháp, bên dân sự hoặc bất kì người nào khác nhận quyền đối với đồ vật.

Người này cũng có thể tự mình quyết định, với sự đồng ý của công tố viên cấp quận, trả lại hoặc đề nghị trả lại các đồ vật thuộc thẩm quyền tư pháp có quyền sở hữu không bị tranh chấp với nạn nhân của tội phạm.

Không được trả lại nếu điều này ngăn cản việc tìm ra sự thật hoặc đảm bảo quyền của các bên, hoặc khi nó tạo ra nguy hiểm cho người hoặc tài sản. Có thể từ chối nếu luật cho phép tịch thu đồ vật.

Lệnh của thẩm phán điều tra theo đoạn hai của điều này được tống đạt cho người nộp đơn nếu đơn bị từ chối, hoặc cho công tố viên và bất kì bên liên quan nào khác nếu có quyết định trả lại tài sản. Có thể chuyển cho phòng điều tra bằng một đơn thông thường được nộp cho văn phòng toà án trong thời hạn và theo các điều kiện được nêu tại đoạn bốn điều 186. Thời hạn này có thể bị treo.

Phòng điều tra có thể lắng nghe những bình luận của bên thứ ba cũng như của các bên khác, nhưng không thể yêu cầu chuyển hồ sơ cho mình.
Điều 99-1

Nếu, trong quá trình tố tụng tư pháp hoặc kiểm tra đề cập tại điều 283-5 Luật Nông thôn, quyết định thu giữ hoặc tịch thu một hoặc nhiều vật nuôi, vì bất kì lý do gì, công tố viên cấp quận bên cạnh toà án quận có quyền tài phán nơi tội phạm xảy ra hoặc, nếu được chuyển vụ án, thẩm phán điều tra, có thể đưa vật nuôi vào một nơi giam giữ được thiết kế đặc biệt cho đến khi tội phạm được xét xử.

Nếu các điều kiện giam giữ vật nuôi gây nguy hiểm đến hoặc có hại cho sức khoẻ của các vật nuôi khác, thẩm phán điều tra, nếu được chuyển vụ án, hoặc chánh án toà án quận hoặc một thẩm phán khác được người này giao có thể, bằng một quyết định có nêu lý do căn cứ vào đề nghị của công tố viên cấp quận và sau khi nghe ý kiến của bác sĩ thú y, ra lệnh bán, giao cho bên thứ ba, hoặc tiêu huỷ.

Chủ sở hữu, nếu biết được danh tính, được thông báo về lệnh này. Người này có thể chuyển nó cho chánh toà phúc thẩm có thẩm quyền hoặc một thẩm phán của toà án này do người này chỉ định, hoặc, nếu thẩm phán điều tra ra lệnh, cho phòng điều tra theo các điều kiện quy định tại đoạn năm và sáu điều 99.

Toàn bộ lợi nhuận thu được do việc bán vật nuôi được gửi vào ngân hàng trong năm năm. Nếu tố tụng tư pháp hợp thức việc thu giữ kết thúc bằng việc loại bỏ hoặc tố tụng bị đình chỉ, lợi nhuận của việc ban được đưa cho người chủ sở hữu vật nuôi vào thời điểm thu giữ, nếu người này có yêu cầu như vậy. Trong các trường hợp vật nuôi được trao cho bên thứ ba, chủ sở hữu có thể nộp yêu cầu đòi trả lại vật nuôi cho thẩm phán được chỉ định trong đoạn hai.

Chủ sở hữu vật nuôi phải trả toàn bộ chi phí liên quan đến việc giam giữ vật nuôi, trừ khi thẩm phán nêu tại đoạn hai, nhận được yêu cầu miễn, hoặc toà án phán quyết theo hướng có lợi cho vụ án quyết định khác. Có thể cho miễn nếu tố tụng bị đình chỉ hoặc loại bỏ.


Điều 99-2

Nếu, trong quá trình điều tra, thấy rằng không thể trả lại động sản trong kho bảo quản tư pháp, mà không cần giữ để xác lập sự thật, do không xác định được chủ sở hữu, hoặc do chủ sở hữu không nhận đồ vật trong vòng hai tháng kể từ thời điểm một thông báo chính thức được gửi đến nơi ở của người này, thẩm phán điều tra có thể, tuỳ thuộc vào quyền của các bên thứ ba, ra lệnh tiêu huỷ tài sản hoặc chuyển giao cho cơ quan tài sản Nhà nước nhằm xử lý chúng.

Tuỳ thuộc vào quyền của các bên thứ ba, thẩm phán điều tra cũng có thể ra lệnh quyền sở hữu tài sản cá nhân thuộc về người bị truy tố được bảo quản tư pháp, nếu không cần giữ đồ vật để xác lập sự thật, và luật cho phép tịch thu, được chuyển cho cơ quan tài sản Nhà nước nhằm xử lý chúng, nếu việc tiếp tục giữ sẽ làm giảm giá trị tài sản. Nếu bán tài sản, lợi nhuận được gửi vào ngân hàng trong mười năm. Nếu tố tụng bị đình chỉ, hoặc kết thúc bằng việc loại bỏ hoặc tuyên vô tội, hoặc nếu toà án không ra lệnh tịch thu, lợi nhuận này được trả lại cho chủ sở hữu đồ vật, nếu người này yêu cầu như vậy.

Thẩm phán điều tra cũng có thể ra lệnh tiêu huỷ động sản được bảo quản tư pháp, không cần giữ đồ vật để xác lập sự thật, nếu luật quy định đồ vật liên quan là nguy hiểm hoặc có hại, hoặc nếu việc giữ là bất hợp pháp.

Quyết định theo điều này phải nêu rõ lý do. Lệnh được tuyên hoặc theo đề nghị của công tố viên cấp quận, hoặc toà án tự mình ban hành sau khi nghe quan điểm của người này. Lệnh này phải được thông báo cho công tố viên, các bên liên quan và, nếu biết danh tính của họ, chủ sở hữu cũng như các bên thứ ba có quyền đối với tài sản này, người có thể chuyển giao vấn đề cho phòng điều tra theo các điều kiện quy định tại các đoạn năm và sáu điều 99.

Một Nghị định của Chính phủ sẽ quy định phương thức thực thi điều này.



tải về 3.81 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10   ...   49




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương