BỘ giáo dục và ĐÀo tạo bộ CÔng thưƠng viện nghiên cứu thưƠng mại nguyễn thị ĐƯỜng giải pháP ĐẨy mạnh xuất khẩu hàng nông sản việt nam vào thị trưỜng trung quốc luậN Án tiến sỹ kinh tế


CHƯƠNG 3 MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU NÔNG SẢN VIỆT NAM



tải về 1.85 Mb.
trang10/17
Chuyển đổi dữ liệu23.08.2016
Kích1.85 Mb.
#26554
1   ...   6   7   8   9   10   11   12   13   ...   17

CHƯƠNG 3

MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU NÔNG SẢN VIỆT NAM

VÀO THỊ TRƯỜNG TRUNG QUỐC GIAI ĐOẠN 2012 - 2020

3.1. Dự báo một số thuận lợi và khó khăn trong xuất khẩu nông sản Việt Nam vào thị trường Trung Quốc giai đoạn 2012 - 2020

3.1.1. Một số thuận lợi

a. Về môi trường pháp lý

Những văn kiện pháp lý cơ bản như Hiệp định Thương Mại Việt - Trung ngày 7/11/1991, Hiệp định song phương về việc Việt Nam gia nhập WTO tháng 10/2005 và Hiệp định về hợp tác kiểm dịch động thực vật năm 2008 là những nhân tố quan trọng đánh dấu bước phát triển mới trong quan hệ thuơng mại hai nước theo các chuẩn mực quốc tế. Đây là những văn kiện xác định cam kết của cả hai bên giành cho nhau về mở cửa, tiếp cận thị trường, về thuế, về các biện pháp phi thuế, về quyền kinh doanh, về dịch vụ và về quyền sở hữu trí tuệ. Các Hiệp định này là một bước tiến đáng kể, tạo môi trường kinh doanh minh bạch cho hàng nông sản Việt Nam xuất khẩu vào Trung Quốc.

Trung Quốc và Việt Nam là thành viên của WTO, đều có nghĩa vụ cam kết mở cửa thị trường giành ưu đãi tối huệ quốc MFN và ưu đãi quốc gia NT cho nhau. Hai nước đang sửa đổi lại hệ thống chính sách cho phù hợp với các cam kết khi gia nhập tổ chức WTO, do đó quan hệ thương mại sẽ phát triển trên cơ sở luật pháp quốc tế, sẽ bình đẳng hơn, quy mô trao đổi được mở rộng nhờ cắt giảm các hàng rào thương mại.

Sự phát triển nhanh chóng của Trung Quốc sau khi gia nhập WTO tạo điều kiện cho hàng Việt Nam thâm nhập thị trường Trung Quốc và Việt Nam có điều kiện tham gia sâu vào hệ thống phân công lao động khu vực.

Việt Nam có thể tận dụng được cơ hội phát triển và hiện đại hóa của Trung Quốc để nhập khẩu công nghệ, thu hút đầu tư từ Trung Quốc nhằm phát triển các ngành sử dụng tài nguyên và lao động rẻ.

b. Về nhu cầu thị trường

Theo kết quả nghiên cứu của Ngân hàng thế giới WB và mô hình cân bằng tổng quát (GTAP), gia nhập WTO, sản lượng nông nghiệp của Trung Quốc sẽ tăng từ 4 - 6% trong đó khoảng 20 - 30% lợi nhuận là do giá tăng, 70% còn lại là do tăng trưởng sản lượng thực tế thông qua quá trình chuyển đổi cơ cấu, chuyển sang những nông phẩm Trung Quốc có thế mạnh. Các mặt hàng dự báo sẽ tăng sản lượng do tác động gia nhập WTO là: Gạo tăng 2,3% vào 2010, rau quả 9,7%. Các loại nông sản chịu tác động tiêu cực của tự do hóa thương mại là: Ngô giảm 3,1% vào 2010; đầu thực vật giảm 9,0%; đường giảm 5,6%; Sữa giảm 8,4% vào 2010. Theo nghiên cứu này thì năm 2010, Trung quốc chỉ đáp ứng đựoc nhu cầu trong nước đối với ngũ cốc là 93%, gạo 107%, lúa mì 96%, ngô 80%, đậu tương 47%, hạt có dầu 69%, đường 71%, rau 105%, quả 106%. Như vậy, thời gian tới Trung Quốc sẽ không thể tự cung tự cấp mà phải nhập khẩu nhiều những sản phẩm có yêu cầu cao về đất đai. Để hưởng các ưu đãi của WTO, Trung Quốc sẽ chuyển đổi mạnh cơ cấu kinh tế sang sản xuất và xuất khẩu hàng hóa có hàm lượng chất xám cao, sử dụng nhiều vốn và công nghệ hiện đại. Việt Nam và các nước đang phát triển có cơ hội trở thành người cung cấp sản phẩm thô, sản phẩm sử dụng nhiều lao động cho thị trường Trung Quốc.

Các nhà kinh tế Hongkong và Singapore nghiên cứu về Trung Quốc đã tổng kết 10 điểm cơ bản về thị trường hàng nông sản Trung Quốc, bao gồm:


  1. Quy mô nhu cầu cực lớn;

  2. Có nhu cầu đa dạng từ hàng cấp thấp nhất đến hàng cấp cao nhất (đặc biệt là đặc sản rừng, đặc sản biển, dược liệu...);

  3. Nguồn cung ngày càng nhỏ tương đối so với nhu cầu;

  4. Nhu cầu có tính khác biệt rất lớn giữa các vùng, miền; giữa các dân tộc;

  5. Khả năng chế biến rất lớn và đa dạng, do đó Trung Quốc cần nhập khẩu nhiều nguyên vật liệu;

  6. Khả năng thay thế nhập khẩu nhanh và lớn;

  7. Tính liên kết giữa các khâu rất lớn;

  8. Khả năng tập trung đầu tư (vốn, công nghệ đa dạng, lao động...) nhanh và lớn;

  9. Nhiều thủ đoạn tinh vi trong kinh doanh;

10) Chính sách quản lý linh hoạt, mềm dẻo.

Nền kinh tế Trung Quốc có xu hướng tiếp tục tăng trưởng với tốc độ cao trong những năm tới nên nhu cầu tiêu dùng nông sản sẽ tăng và có thể xuất hiện các nhu cầu mới.



c. Về thuế suất

Gia nhập WTO, Trung quốc phải hạ mức thuế bình quân gia quyền từ 13,3% năm 2001 xuống còn 6%. Riêng hàng nông sản, giảm từ 22% xuống còn 15% và thực hiện tự do hóa nhập khẩu hàng nông sản thiết yếu như lúa mỳ, ngô, gạo, bông, đậu tương…Thuế suất thấp nhất cho hàng nông sản chỉ là 1% nếu trong giới hạn của quota (trừ đậu tương là 9%), ngoài mức quota thì mức thuế suất là 65%.

Với Việt Nam, gia nhập WTO, thuế sẽ chia thành 16 bậc, thuế suất trung bình giảm từ 18,3% xuống còn 13%, trong đó thuế suất hàng nông sản thông thường là 29,4%. Các biện pháp phi thuế cũng được cả hai nước tháo gỡ về cơ bản đã tạo một môi trường thuận lợi cho trao đổi nông sản giữa hai nước

d. Do tác động của Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc

Việc hình thành Khu vực Mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc nhằm tăng cường hợp tác thương mại, đầu tư và các lĩnh vực giữa hai bên, nâng cao tính bổ sung và khai thác tốt hơn lợi thế của các nước, các khu vực để nâng cao sức cạnh tranh và đối phó với những rủi ro có thể xẩy ra trong tình hình thế giới có nhiều biến động. Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc làm tăng tính đa dạng của thị trường này và là khu vực mậu dịch tự do lớn nhất thế giới với khoảng 1,8 tỷ người tiêu dùng, có tổng kim ngạch thương mại song phương giữa Trung Quốc và ASEAN là 229,7 tỷ USD. ASEAN là đối tác thương mại lớn thứ 3 của Trung Quốc và ngược lại Trung Quốc là đối tác thương mại lớn nhất của ASEAN (năm 2010). Theo dự báo của Ban thư ký ASEAN, khi khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc hoàn thành thì nhu cầu nhập khẩu của Trung Quốc từ các nước ASEAN sẽ tăng khoảng 10%/năm. Theo kết quả nghiên cứu của Nhóm chuyên gia về Hợp tác Kinh tế ASEAN - Trung Quốc, khu vực ACFTA hoàn thành sẽ tạo ra sự thay đổi về xuất khẩu của các nước ASEAN và Trung Quốc. Xuất khẩu của ASEAN sang Trung Quốc sẽ tăng thêm 13 tỷ USD và xuất khẩu của Trung Quốc sang ASEAN tăng thêm 10,6 tỷ USD.



3.1.2. Một số khó khăn

a. Những khó khăn chủ quan

Điều đáng quan ngại là việc trao đổi hàng nông sản với Trung Quốc chủ yếu đều do các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam thực hiện, một số đánh quả từng chuyến, từng vụ; một số buôn lậu kiếm chút lời thông qua chênh lệch giá nên năng lực tiếp cận thị trường xuất khẩu rất yếu. Trong khi đó chính sách hỗ trợ của nhà nước đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ về thuế, về thanh toán chưa thích hợp và chậm được đổi mới. Khả năng tiếp cận nguồn vốn vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ rất khó khăn do thiếu tài sản thế chấp theo yêu cầu của ngân hàng. Vì vậy khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam với doanh nghiệp Thailand và các nước ASEAN khác tại Trung Quốc sẽ rất khó khăn kể cả khi chúng ta được hưởng mức thuế suất 0%.

Ngoài vấn đề thuế suất, nông sản Việt Nam còn phải đối mặt với vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm. Hiện cơ sở vật chất cho kiểm định vệ sinh an toàn thực phẩm còn rất yếu, phân công giữa các Bộ, Ngành chưa rõ ràng nên nhiều khi hàng hóa phải nằm chờ hàng tuần ở biên giới. Cơ sở vật chất cho bảo quản yếu và thiếu nghiêm trọng và khó có thể khắc phục ngay trong một vài năm tới.

Thêm vào đó, sức cạnh tranh của nông sản Việt Nam còn thấp cả về chất lượng, mẫu mã, công nghệ bảo quản sau thu hoạch, khả năng tạo nguồn hàng ổn định, lâu dài cho các hợp đồng lớn.

Sự yếu kém về cơ sở hạ tầng phục vụ trao đổi thương mại như hệ thống giao thông đường bộ lên biên giới rất khó khăn, đường sắt vận tải hàng hóa không thường xuyên, nối tuyến kém, nhất là thiếu toa bảo ôn cho vận chuyển rau quả tươi; trang bị cơ sở vật chất tại các cửa khẩu còn yếu; hệ thống kho lạnh bảo quản hàng hóa tại biên giới để hỗ trợ cho các nhà xuất khẩu chưa được xây dựng nên Việt Nam chưa khai thác có hiệu quả yếu tố gần kề về địa lý để đẩy mạnh xuất khẩu nông sản vào Trung Quốc.

b. Những khó khăn khách quan.

Tại thị trường Trung Quốc có sự cạnh tranh gay gắt giữa hàng nông sản của Việt Nam với các nước ASEAN khác. Do điều kiện địa lý gần giống nhau nên cơ cấu hàng nông sản xuất khẩu của các nước ASEAN tương tự như Việt Nam. Ngoài ra nông sản Việt Nam còn phải cạnh tranh với nhiều đối thủ có sức mạnh trong xuất khẩu nông sản như EU, Mỹ, Nhật.



Đối với Thailand: Nhờ Hiệp định mậu dịch tự do song phương Thái - Trung về hàng nông sản, Thailand đã tạo được thế đứng vững chắc hơn tại thị trường Trung Quốc với 188 mặt hàng rau quả được hưởng thuế suất bằng 0% từ 10/2003. Chính phủ và doanh nghiệp Thailand đều nỗ lực áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật mới vào sản xuất để nâng cao năng suất và sản lượng nông sản, đảm bảo tốt tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm theo yêu cầu của Trung Quốc. Thailand đã ký với Trung Quốc Hiệp định hợp tác hải quan phục vụ chung cho mậu dịch Trung, Lào, Miến, Thái; Hiệp định tiêu chuẩn và hợp chuẩn Trung - Thái (MRA) công nhận lẫn nhau về giấy chứng nhận phẩm chất hàng hóa tạo điều kiện giảm bớt thời gian làm thủ tục thông quan, đưa nhanh sản phẩm vào thị trường.

Trung Quốc và Thailand cùng tài trợ nâng cấp, phá thác ghềnh thông tuyến vận tải đường thủy trên sông Mekong tạo thuận lợi cho nông sản Thailand thâm nhập thị trường Trung Quốc. Thailand còn mở đường hàng không nối Bangkok với Côn Minh với tần suất 01chuyến/ngày để đáp ứng nhu cầu vận tải rau quả tươi xuất khẩu vào Trung Quốc.

Trong khi đó, Việt Nam vẫn chưa chủ động đàm phán với hai tỉnh Vân Nam và Quảng Tây để điều chỉnh chính sách và phương thức kinh doanh cho phù hợp với thực tiễn, kịp thời tháo gỡ các vướng mắc giúp nông sản thâm nhập vững chắc vào Trung Quốc.

Đối với các nước ASEAN khác: ASEAN, Mỹ, EU là những nước đứng đầu về xuất khẩu nông sản vào Trung Quốc. ASEAN có tốc độ tăng trưởng xuất khẩu vào Trung Quốc đạt 25%/ năm ở tất cả các nhóm hàng nông sản, trong đó Thailand, Malaysia và Philippine xuất khẩu vào Trung Quốc đạt kim ngạch cao. Việt Nam xuất khẩu gạo đứng thứ 2 trên thế giới sau Thailand nhưng gạo Việt Nam thường chỉ chiếm từ 8 - 10% kim ngạch nhập khẩu gạo của Trung Quốc hàng năm. Trung Quốc có nhu cầu nhập khẩu lớn cao su thiên nhiên nhưng cao su Việt Nam chỉ chiếm thị phần khoảng 25% năm 2010, thấp hơn nhiều so với Thailand, Malaysia và Indonesia. Điều này cho thấy sức cạnh tranh còn thấp của nông sản Việt Nam tại thị trường Trung Quốc. Nguyên nhân thì có nhiều nhưng chủ yếu là do chất lượng, điều kiện giao hàng, giá cả không đảm bảo.

Đối với các nước Mỹ, EU: Các nước Mỹ, Canada, Pháp, Anh, Đức, Hà Lan, Tây Ban Nha, Thổ Nhĩ Kỳ đều là những nước có thế mạnh về nông sản. Có thể nói về nhiều mặt các nước trên có điều kiện trao đổi thương mại với Trung Quốc không thuận lợi bằng Việt Nam. Chúng ta được hưởng thuế suất ưu đãi của Khu vực thương mại tự do ASEAN - Trung Quốc, vị trí địa lý cận kề, bạn hàng truyền thống nhiều năm nhưng vẫn không phải là nước cung ứng lớn, thường xuyên, lâu dài những mặt hàng cao su, rau quả, bông cho Trung Quốc. Trên thực tế EU, Mỹ, Nhật, Đài Loan, Hàn Quốc và các nước ASEAN khác vẫn là bạn hàng nhập khẩu lớn của Trung Quốc. Các nước này hơn hẳn Việt Nam về trình độ sinh học tiên tiến để sản xuất ra các sản phẩm có năng suất và chất lượng cao, công nghệ phân lọai hàng, đóng gói bao bì, bảo quản, vận tải rất chuyên nghiệp nên sức cạnh tranh vượt trội so với nông sản Việt Nam.

Tuy đã đạt được một số thành tích trong xuất khẩu nông sản vào Trung Quốc nhưng thực tế sức cạnh tranh của nông sản Việt Nam còn yếu tại thị trường này. Đòi hỏi chúng ta trong những năm tới phải quyết liệt hơn trong việc nâng cao chất lượng nông sản, đảm bảo tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm để xuất khẩu bền vững vào Trung Quốc.



3.2. Một số quan điểm và định hướng về đẩy mạnh xuất khẩu nông sản Việt Nam vào thị trường Trung Quốc giai đoạn 2012 - 2020

3.2.1. Một số quan điểm về đẩy mạnh xuất khẩu nông sản Việt Nam vào thị trường Trung Quốc.

Trong Văn kiện đại hội Đảng lần thứ XI, Đảng ta đã xác định nhiệm vụ chiến lược phát triển nông nghiệp toàn diện theo hướng hiện đại, hiệu quả, bền vững thời kỳ 2011 - 2020, với mục tiêu cơ bản là: "Khai thác lợi thế của nền nông nghiệp nhiệt đới để phát triển sản xuất hàng hóa lớn với năng suất, chất lượng, hiệu quả và khả năng cạnh tranh cao. Tăng nhanh sản lượng và kim ngạch xuất khẩu nông sản, nâng cao thu nhập và đời sống nông dân, bảo đảm vững chắc an ninh lương thực quốc gia. Xây dựng mô hình sản xuất kinh doanh phù hợp với từng loại cây, con. Khuyến khích tập trung ruộng đất; phát triển trang trại, doanh nghiệp nông nghiệp phù hợp về quy mô và điều kiện của từng vùng. Gắn kết chặt chẽ, hài hòa lợi ích giữa người sản xuất, người chế biến và người tiêu thụ, giữa việc áp dụng kỹ thuật và công nghệ với tổ chức sản xuất, giữa phát triển nông nghiệp với xây dựng nông thôn mới. Đổi mới cơ bản phương thức tổ chức kinh doanh nông sản, bảo đảm phân phối lợi ích hợp lý trong từng công đoạn từ sản xuất đến tiêu dùng. Phát triển hệ thống kho chứa nông sản, góp phần điều tiết cung cầu. Đẩy nhanh áp dụng tiến bộ khoa học và công nghệ hiện đại trong sản xuất, chế biến, bảo quản; ưu tiên ứng dụng công nghệ sinh học để tạo nhiều giống cây trồng, vật nuôi và quy trình sản xuất đạt năng suất, chất lượng và hiệu quả cao, tăng nhanh giá trị gia tăng trên một đơn vị đất canh tác"

QĐ 023/2007/QĐ - BTM của Bộ Thương mại về việc phê duyệt đề án phát triển xuất nhập khẩu hàng hoá với Trung Quốc giai đoạn 2007 - 2015 đã khẳng định: "Trung Quốc là một thị trường lớn cùng chung biên giới, có quan hệ hữu nghị truyền thống, lại là đối tác trong Hiệp định mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc, vì vậy phát triển quan hệ thương mại với Trung Quốc có vị trí quan trọng trong quan hệ thương mại của Việt Nam với các nước. Định hướng chỉ tiêu kim ngạch xuất khẩu hàng hoá sang Trung Quốc đến năm 2015 là 11,1 tỷ USD. Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu bình quân trong cả giai đoạn 2007 - 2015 đạt 15,5%/năm".

Căn cứ vào chủ trương chính sách của Đảng và Chính phủ về phát triển nông nghiệp thời kỳ 2011 - 2020, về phát triển xuất nhập khẩu hàng hoá với Trung Quốc giai đoạn 2007 - 2015 và căn cứ vào thực trạng xuất khẩu nông sản Việt Nam vào Trung Quốc trong những năm qua, tác giả của luận án đề xuất một số quan điểm về đẩy mạnh xuất khẩu nông sản vào thị trường Trung Quốc trong thời gian tới; bao gồm:



Thứ nhất, đẩy mạnh xuất khẩu nông sản sang Trung Quốc trên cơ sở tận dụng tối đa cơ hội từ sự phát triển của Trung Quốc trên nguyên tắc thị trường và các cam kết thương mại quốc tế.

- Trung Quốc phát triển nhanh và ổn định là một cơ hội lớn đối với Việt Nam. Với một thị trường lớn, cần nhập khẩu nhiều mặt hàng nông sản mà Việt Nam có lợi thế; vị trí địa lý thuận lợi; quan hệ hợp tác giữa hai nước đang vào thời kỳ đẩy mạnh là các nhân tố thuận lợi cho Việt nam với tư cách là nước láng giềng có trình độ phát triển thấp hơn.

- Trước hết phải tận dụng cơ hội từ sự phát triển của Trung Quốc để đẩy mạnh xuất khẩu hàng nông sản vào thị trường này. Thị trường Trung Quốc với hơn 1,3 tỷ người tiêu dùng, có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và đang trong quá trình chuyển đổi mạnh về cơ cấu tiêu dùng sẽ tiếp tục là thị trường trọng điểm có tầm quan trọng đặc biệt đối với xuất khẩu nông sản Việt Nam. Trong những năm tới nhu cầu tiêu dùng và nguyên liệu đầu vào cho sản xuất của Trung Quốc sẽ rất lớn. Vì vậy, chúng ta cần phát huy những ưu thế về vị trí địa lý, về tính chất bổ sung trong cơ cấu hàng hóa giữa hai nước và các nhân tố có lợi khác để đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường này.

- Trung Quốc đang trong giai đoạn chuyển đổi về cơ cấu và xu hướng tiêu dùng, song với một dân số khổng lồ, mức thu nhập ngày càng tăng do nền kinh tế tăng trưởng liên tục nên nhu cầu của thị trường Trung Quốc đối với các mặt hàng nông sản như cao su, rau quả, hạt điều…trong giai đoạn từ nay đến 2020 sẽ rất lớn. Đây là những loại nông sản mà Việt nam có lợi thế và có tiềm năng sản xuất lớn, do đó cần đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu theo hướng nâng cao giá trị gia tăng để khai thác tốt lợi thế các mặt hàng này.



Thứ hai, đẩy mạnh xuất khẩu nông sản sang Trung Quốc trên cơ sở khai thác tốt lợi thế về vị trí địa lý gần kề để giảm chi phí, nâng cao sức cạnh tranh cho nông sản tại thị trường Trung Quốc

- Thực tế là, trong vài năm tới nông sản Việt Nam khó thâm nhập vào các khu vực phát triển của Trung Quốc do sức cạnh tranh còn hạn chế. Hiện nông sản xuất khẩu vào Trung Quốc chủ yếu là cho thị trường các tỉnh Nam và Tây Nam Trung Quốc. Đây là các khu vực kém phát triển hơn so với các vùng khác của Trung Quốc và không đòi hỏi qúa khắt khe về chất lượng nên phù hợp với trình độ sản xuất và chế biến nông sản hiện nay cũng như trong vài năm tới của Việt Nam.

Nếu cơ sở hạ tầng được đầu tư tốt, Việt Nam sẽ có lợi thế so với các nước khác khi xuất khẩu nông sản vào Trung Quốc do có vị trí địa lý thuận lợi nên vận chuyển bằng đường bộ, đường sắt, đường sông, đường biển, đường hàng không đều nhanh chóng, thuận lợi và chi phí thấp sẽ là nhân tố góp phần nâng cao sức cạnh tranh của nông sản.

- Do vị trí địa lý gần kề, Việt Nam cần vận dụng cả hai hình thức: xuất khẩu chính ngạch và biên mậu để đẩy mạnh xuất khẩu nông sản vào Trung Quốc.



Thứ ba, đẩy mạnh xuất khẩu nông sản vào Trung Quốc với tốc độ tăng trưởng cao và bền vững, chuyển dịch cơ cấu nông sản xuất khẩu theo hướng gia tăng các sản phẩm chế biến, giảm dần tỷ trọng hàng thô hoặc sơ chế để nâng cao hiệu quả xuất khẩu.

- Hiện nông sản Việt Nam xuất khẩu vào Trung Quốc hầu hết ở dạng nguyên liệu thô hoặc sơ chế. Những mặt hàng này tuy nhiên sẽ gặp khó khăn về khả năng mở rộng quy mô gieo trồng vì vậy để duy trì tốc độ tăng trưởng xuất khẩu một cách bền vững phải dựa vào gia tăng hàm lượng chế biến để nâng cao giá trị xuất khẩu.

- Thị trường hiện nay chủ yếu là các tỉnh Nam và Tây Nam Trung Quốc, nơi có yêu cầu không quá khắt khe về chất lượng. Về lâu dài cần nghiên cứu mở rộng sang các tỉnh Quảng Đông, Thượng Hải, Bắc Kinh và lan tỏa tới các vùng phía Bắc của Trung Quốc, tới Hồng Kông, Ma Cao. Vì vậy phải nâng cao chất lượng và đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm cho hàng nông sản xuất khẩu.

3.2.2. Định hướng về đẩy mạnh xuất khẩu nông sản Việt Nam vào thị trường Trung Quốc

Định hướng về xuất khẩu nông sản vào Trung Quốc giai đoạn đến 2020 là: đẩy mạnh xuất khẩu với tốc độ tăng trưởng cao và bền vững, góp phần vào tăng trưởng GDP. Đẩy mạnh xuất khẩu các hàng nông sản có lợi thế cạnh tranh, đồng thời tích cực nghiên cứu phát triển các mặt hàng mới có tiềm năng thành những mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ lực mới, theo hướng nâng cao hiệu quả xuất khẩu. Chuyển dịch cơ cấu theo hướng đẩy mạnh xuất khẩu hàng nông sản chế biến có giá trị gia tăng cao, có hàm lượng khoa học và công nghệ, giảm dần tỷ trọng hàng thô và sơ chế.



* Một số định hướng:

- Tận dụng cơ hội từ sự tăng trưởng của Trung Quốc, sự thiếu hụt nguyên liệu và một số hàng nông sản để tăng kim ngạch xuất khẩu, góp phần giảm nhập siêu, quản lý tốt thương mại biên mậu, trao đổi thương mại trên cơ sở bình đẳng theo đúng khuôn khổ WTO. Trước hết phải củng cố và đẩy mạnh xuất khẩu những mặt hàng nông sản chủ lực đã đứng chân được tại thị trường này, từng bước nâng cao chất lượng, tăng hàm lượng chế biến, giảm xuất khẩu hàng thô và sơ chế.

- Khai thác tiềm năng xuất khẩu những mặt hàng nông sản mới theo hướng đầu tư từ các nguồn vốn trong nước và vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI để sản xuất các sản phẩm xuất khẩu vào Trung Quốc. Đẩy mạnh hợp tác thương mại theo hướng hợp tác đầu tư với các doanh nghiệp Trung Quốc để sản xuất và chế biến nông sản xuất khẩu vào Trung Quốc hoặc nước thứ ba.

- Nghiên cứu xây dựng các nhân tố tăng trưởng xuất khẩu nông sản mới trong giai đoạn 2012 - 2020 và xây dựng chương trình ở cấp quốc gia để thực hiện các nhân tố tăng trưởng xuất khẩu này.

- Rà soát lại các chính sách, các biện pháp nhằm kịp thời phát hiện những hạn chế, cản trở sản xuất và xuất khẩu nông sản để có phương án tháo gỡ tạo môi trường thuận lợi cho xuất khẩu.

Về cơ cấu hàng xuất khẩu: Trong thời gian tới Trung Quốc vẫn có nhu cầu nhập khẩu lớn đối với nhiều loại nông sản mà Việt Nam có tiềm năng đẩy mạnh xuất khẩu và ít chịu sức ép cạnh tranh từ Trung Quốc hoặc nước khác. Chuyển dịch cơ cấu hàng nông sản xuất khẩu theo hướng gia tăng hàm lượng chế biến để nâng cao giá trị và hiệu quả xuất khẩu, giảm dần tỷ trọng hàng thô và sơ chế.

Về khu vực thị trường: Tập trung vào các khu vực có nhu cầu nhập khẩu lớn và chúng ta đang xuất khẩu mạnh như Quảng Tây, Vân Nam, Tứ Xuyên, Trùng Khánh, Quý Châu. Những khu vực này không đòi hỏi quá cao so với các khu vực khác ở Trung Quốc. Bên cạnh đó cần nghiên cứu mở rộng xuất khẩu sang thị trường một số tỉnh phát triển miền Đông Trung Quốc như Quảng Đông, Phúc Kiến, Hải Nam, Thượng Hải, Bắc Kinh, Triết Giang, Sơn Đông.

Về phát triển biên mậu: Mặc dù xuất khẩu nông sản theo đường biên mậu. tiềm ẩn nhiều rủi ro, tuy nhiên những yếu kém trong sản xuất và chế biến nông sản hiện nay khó có thể khắc phục được trong một thời gian ngắn. Vì vậy trong thời gian tới, bên cạnh việc chuyển mạnh sang hình thức xuất khẩu chính ngạch theo các chuẩn mực quốc tế thì xuất khẩu theo đường biên mậu vẫn là một kênh quan trọng để đưa nông sản thâm nhập vào Trung Quốc. Định hướng về phát triển biên mậu, bao gồm:

- Lành mạnh hoá và nâng cao hiệu quả hoạt động trao đổi hàng hoá qua biên giới Việt - Trung. Thỏa thuận với phía Trung Quốc từng bước áp dụng các quy định, tiêu chuẩn thống nhất cho hàng nông sản xuất nhập khẩu qua biên giới để đưa hoạt động biên mậu vào nề nếp và ổn định.

- Xây dựng cơ chế điều tiết, quản lý biên mậu linh hoạt, hiệu quả từ trung ương đến địa phương.

- Xây dựng và nâng cấp cơ sở hạ tầng như đường giao thông, trung tâm thương mại, kho bãi, hệ thống thông tin…tại các tỉnh giáp biên giới Việt - Trung.

- Phát huy lợi thế về vị trí địa lý với Trung Quốc để đẩy mạnh trao đổi biên mậu giữa hai nước.

Về hợp tác đầu tư: Các nhà đầu tư Trung Quốc có khả năng đầu tư vào ngành sản xuất và chế biến nông sản, thực phẩm do có công nghệ phù hợp, có mạng lưới phân phối sản phẩm tại thị trường Trung Quốc. Vì vậy cần tập trung thu hút đầu tư của Trung Quốc vào các dự án trồng và chế biến các loại nông sản có giá trị cao tại các vùng có điều kiện tự nhiên và khí hậu thích hợp ở Việt nam để xuất khẩu trở lại thị trường Trung Quốc.

Về công tác chống buôn lậu và gian lận thương mại: Tập trung rà soát và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến công tác tổ chức, thực hiện đấu tranh chống buôn lậu và gian lận thương mại. Xem xét lại hệ thống thuế và thủ tục hải quan, khắc phục những bất hợp lý trong chính sách thuế và kẽ hở trong các chính sách khác đang tạo điều kiện cho buôn lậu phát triển. Đẩy mạnh và nghiêm túc thực hiện quy chế ghi nhãn hàng hóa, tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục thương nhân hiểu và làm theo pháp luật.

3.3. Một số giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu nông sản Việt Nam vào thị trường Trung Quốc giai đoạn 2012 - 2020

3.3.1. Một số giải pháp đối với Nhà nước

3.3.1.1. Mở rộng mối quan hệ hợp tác toàn diện Việt - Trung làm tiền đề cho hoạt động trao đổi thương mại giữa hai nước

Quan hệ Việt - Trung từ khi hai nước bình thường hóa đã không ngừng phát triển và ngày càng được củng cố toàn diện cả chiều rộng lẫn chiều sâu trên các mặt: chính trị, kinh tế, thương mại, đầu tư, văn hóa, xã hội...Hai nước đã ký kết hàng loạt Hiệp định, Nghị định thư và nhiều văn kiện pháp lý trên mọi lĩnh vực tạo cơ sở thuận lợi cho quan hệ hai nước phát triển. Trung Quốc đã điều chỉnh các chính sách theo hướng coi trọng quan hệ với Việt Nam, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi, khuyến khích các doanh nghiệp sang đầu tư, hợp tác, buôn bán với Việt Nam và qua đó hướng xuống các nước ASEAN.

Hai bên đã thành lập Ủy ban điều phối hợp tác hai Chính phủ do cấp Phó Thủ Tướng đứng đầu, Ủy ban hợp tác kinh tế thương mại liên chính phủ cấp Thứ trưởng (năm 2007 đã nâng lên cấp Bộ trưởng) đứng đầu và nhiều cơ chế hợp tác khác để đưa quan hệ hai nước lên một tầm cao mới.

Ngoài mối quan hệ song phương, hai bên cũng không ngừng tăng cường hợp tác trong các khuôn khổ đa phương như ASEAN, APEC, WTO...

Trung Quốc đã cam kết cung cấp vốn vay ODA cho Việt Nam 312 triệu USD, trong đó tín dụng ưu đãi là 262 triệu USD, viện trợ không hoàn lại là 50 triệu USD, tập trung vào các dự án trọng điểm như đồng Sin Quyền, cấp nước cho thành phố Hải Phòng, cải tạo kĩ thuật nhà máy gang thép Thái Nguyên, nhà máy nhiệt điện Cao Ngạn, cải tạo nhà máy phân đạm Bắc Giang, nâng cấp hệ thống thông tin tín hiệu đường sắt 3 tuyến đầu mối và tuyến Vinh - thành phố Hồ Chí Minh và nhiều dự án khác đang được triển khai.

Về đầu tư, tính đến tháng 06/2010, Trung Quốc có hơn 2.000 doanh nghiệp đang đầu tư trực tiếp FDI tại Việt Nam. Các dự án đầu tư của Trung Quốc rất đa dạng bao gồm: khách sạn, nhà hàng, in ấn mác bao bì thực phẩm, sản xuất và lắp ráp máy nông nghiệp, chế biến sản phẩm nông nghiệp, gia công chế biến chè xuất khẩu, sản xuất kinh doanh thuốc trừ sâu, sản xuất thức ăn gia súc, sản xuất ván sàn và một số sản phẩm từ tre nứa, chế biến thực phẩm và sản xuất nước giải khát từ hoa quả tươi, sản xuất gạch men sứ.

Trong thời gian tới, để góp phần giảm nhập siêu, Việt Nam cần đề nghị Trung Quốc nới lỏng hạn ngạch nhập khẩu trong trao đổi biên mậu, coi trọng mở rộng đầu tư ở Việt Nam, nhất là vào lĩnh vực trồng và chế biến nông sản để xuất sang Trung Quốc.

Nhìn chung, hợp tác kinh tế thương mại Việt - Trung trong thời gian qua đã mang nội dung và phương thức mới, thể hiện tinh thần hợp tác, bình đẳng cùng có lợi và bước đầu tuân theo các quy luật của kinh tế thị trường. Tuy nhiên mối quan hệ hợp tác toàn diện Việt - Trung vẫn còn có trở ngại, nhất là vấn đề biển Đông, đây là một tồn tại lịch sử rất phức tạp đòi hỏi hai Đảng, hai Chính phủ và nhân dân hai nước phải rất nỗ lực giải quyết trên tinh thần tôn trọng Công ước quốc tế về biển để đưa quan hệ hai nước ổn định, bền vững.



3.3.1.2. Xây dựng chiến lược phát triển thị trường Trung Quốc

Trong giai đoạn 2001 - 2010, kim ngạch trao đổi thương mại giữa hai nước tăng trưởng với tốc độ cao, Trung Quốc trở thành bạn hàng lớn, đứng thứ nhất về nhập khẩu và thứ ba về xuất khẩu của Việt Nam. Tuy nhiên, cán cân thương mại luôn nghiêng về phía bất lợi cho Việt Nam. Việt Nam luôn ở trong tình trạng nhập siêu, năm sau cao hơn năm trước. Nguyên nhân chủ yếu do tốc độ tăng xuất khẩu thấp hơn so với tốc độ tăng của nhập khẩu. Để góp phần giảm nhập siêu cần đẩy mạnh xuất khẩu vào Trung Quốc, bao gồm cả tăng về lượng và điều chỉnh cơ cấu hàng nông sản theo hướng tăng tỷ trọng các sản phẩm đã qua chế biến có giá trị gia tăng cao để nâng cao hiệu quả xuất khẩu. Một số giải pháp chung bao gồm:



Một là, hoàn thiện hành lang pháp lý tạo môi trường kinh doanh lành mạnh, ổn định cho hoạt động trao đổi thương mại giữa hai nước.

- Tính đến nay đã có hơn 10 Hiệp định song phương và nhiều thoả thuận liên quan đến lĩnh vực thương mại được ký kết giữa các Bộ, Ngành của hai nước. Việc Việt Nam gia nhập WTO, cùng với Hiệp định ACFTA có hiệu lực và chương trình hợp tác Hai hành lang, Một vành đai kinh tế được triển khai đã củng cố thêm nền tảng pháp lý cho phát triển quan hệ kinh tế, thương mại giữa hai nước. Theo đó, trong giai đoạn 2007 - 2015, mức thuế quan giữa hai nước sẽ giảm mạnh, thương mại sẽ thay đổi theo hướng giảm tỷ trọng thương mại tiểu ngạch, tăng cường thương mại chính ngạch và quan hệ thương mại sẽ bình đẳng hơn, theo phương thức hiện đại hơn, phù hợp với thông lệ quốc tế và các nguyên tắc của WTO. Để quan hệ thương mại Việt - Trung có bước tăng trưởng vượt bậc trong thời gian tới, hai nước cần tiếp tục hoàn thiện hơn nữa hành lang pháp lý.

- Trong bối cảnh Việt Nam và Trung Quốc đều là thành viên của tổ chức Thương mại thế giới WTO, trước mắt cần rà soát lại những hiệp định đã ký giữa hai nước để có những điều chỉnh phù hợp với các cam kết quốc tế (WTO, ACFTA), đồng thời nâng cao tính hiệu lực và khả năng thực thi của các điều khoản đã cam kết. Tiếp tục hoàn thiện, chi tiết hoá và cụ thể hóa những quy định trong Hiệp định buôn bán qua biên giới Việt - Trung năm 1998, Hiệp định về thanh toán qua ngân hàng, Hiệp định về hỗ trợ tư pháp, Hiệp định về phối hợp kinh tế thương mại làm nền tảng để quan hệ giữa hai nước phát triển ổn định, bền vững trên cơ sở luật pháp.

- Điều chỉnh và bổ sung các chính sách giữa hai nước theo hướng tạo cơ chế thông thoáng hơn cho hoạt động thương mại như dành các ưu đãi đặc biệt về cung cấp cơ sở hạ tầng hiện đại, đơn giản các thủ tục, nới lỏng hạn ngạch xuất nhập khẩu, đơn giản hóa quy định về quản lý cửa khẩu, về hải quan cho các hoạt động thương mại, sản xuất và đầu tư.

- Hoàn thiện chính sách thuế, thực hiện nghiêm lịch trình cắt giảm thuế theo Hiệp định ACFTA có tính đến những ưu đãi nhất định đối với các khu vực kém phát triển để tạo môi trường thuận lợi cho thương mại và đầu tư. Áp dụng giá thuê đất ở mức thấp nhất và miễn giảm thuế cho những năm đầu đối với các công trình đầu tư ở vùng núi phía Bắc.

- Cải thiện hệ thống thanh toán giữa ngân hàng hai nước. Việt Nam cần đề nghị Trung Quốc đôn đốc các ngân hàng triển khai các biện pháp thật cụ thể, sát với thực tế để đẩy mạnh việc thực thi Hiệp định thanh toán và hợp tác giữa ngân hàng hai nước, tiến hành thanh toán quốc tế với hình thức L/C bằng đồng bản tệ, nâng tỷ lệ thanh toán qua ngân hàng trong trao đổi thương mại giữa hai nước lên 50% trong giai đoạn 2012 - 2015.

Thực tế, việc thanh toán trong trao đổi thương mại đã cho thấy các ngân hàng chưa giữ được vai trò chủ đạo trên thị trường tiền tệ biên giới và mới chỉ thực hiện được chức năng thanh toán ngoại thương ở cửa khẩu phía Bắc 5 - 10% tổng nhu cầu thanh toán, chủ yếu vẫn thông qua hoạt động đổi tiền của tư nhân tại cửa khẩu hoặc chợ biên giới với hình thức thanh toán tiền mặt là chủ yếu. Trong bối cảnh hình thành khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc, hình thức thanh toán hiện nay sẽ kìm hãm tốc độ giao dịch thương mại. Vì vậy, đòi hỏi phải cải thiện hệ thống thanh toán và hợp tác giữa ngân hàng hai nước. Các ngân hàng thương mại cần tiếp tục mở rộng quan hệ đại lý với các ngân hàng Trung Quốc. Cần nhân rộng mô hình hợp tác có hiệu quả giữa ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển chi nhánh Lào Cai với các ngân hàng Ngoại thương, Công thương, Nông nghiệp Trung Quốc thực hiện thanh toán quốc tế với hình thức L/C bằng đồng bản tệ, đã hạn chế nhiều rủi ro và thúc đẩy buôn bán chính ngạch.

Ngành ngân hàng cần khẩn trương xây dựng quy chế hoạt động tiền tệ trên biên giới. Phối hợp với các ngành khác để thiết lập đồng bộ các quy định quản lý hoạt động tiền tệ trên biên giới, tích cực phòng chống tiền giả xâm nhập và lưu thông vào thị trường trong nước.

Tổ chức, sắp xếp lại các lực lượng kinh doanh ngoại hối tại khu vực cửa khẩu biên giới Việt - Trung, đặt các hoạt động này dưới sự giám sát và quản lý chặt chẽ của Ngân hàng Nhà nước. Tổ chức hệ thống đổi tiền thuận tiện, có chính sách quản lý tỷ giá linh hoạt phù hợp với thị trường tiền tệ, phấn đấu đưa tiền Việt Nam thành đồng tiền chuyển đổi trên tài khoản vãng lai. Đơn giản hóa các thủ tục để đưa các hoạt động xuất nhập khẩu trên biên giới (trừ các hoạt động trao đổi hàng hoá của cư dân biên giới) thực hiện thanh toán qua ngân hàng.

- Đề nghị Trung Quốc xây dựng cơ chế phối hợp trao đổi định kỳ để tìm cách tháo gỡ những vướng mắc trong quản lý buôn bán biên giới như kiểm định chất lượng, kiểm dịch, phương thức thanh toán. Chia sẻ kinh nghiệm chống bán phá giá và đối phó với các rào cản kỹ thuật trong thương mại để tạo thuận lợi cho doanh nghiệp hai nước trao đổi hàng hoá.



Hai là, đẩy mạnh việc xây dựng Hai hành lang và Một vành đai kinh tế phục vụ cho hoạt động trao đổi thương mại giữa hai nước.

- Đẩy mạnh việc xây dựng Hai hành lang và Một vành đai kinh tế:

Việt Nam cần phối hợp chặt chẽ với Trung Quốc trong thực hiện các dự án nâng cấp hệ thống giao thông và thông tin trên hành lang kinh tế. Mục tiêu của Dự án là xây dựng hành lang quốc tế giữa Tây nam Trung Quốc và Đông Nam Á để hợp nhất với các phần khác của khu vực thương mại tự do ASEAN - Trung Quốc; bao gồm:

+ Xây dựng đường cao tốc Côn Minh - Hà Nội, Nam Ninh - Lạng Sơn - Hà Nội để kết nối vào hệ thống giao thông của các nước ASEAN đang xây dựng.

+ Xây dựng tuyến đường sắt Côn Minh - Hà Nội và kết nối với hệ thống giao thông của các nước ASEAN.

+ Xây dựng đường thuỷ thông qua sông Hồng và sông Mêkông.

+ Thiết lập đường hàng không nối Côn Minh với Hà Nội.

+ Xây dựng các trung tâm thông tin, các website về khu vực thương mại tự do ASEAN - Trung Quốc. Xây dựng Côn Minh và Hà Nội trở thành các trung tâm thông tin về hợp tác khu vực ASEAN - Trung Quốc.

+ Xây dựng các cảng biển, nhất là cảng biển nước sâu với cơ sở vật chất hiện đại thuận lợi cho việc xuất nhập khẩu hàng hoá.

+ Xây dựng các nhà lạnh, kho bãi hiện đại làm nơi bảo quản và trung chuyển hàng hóa xuất khẩu vào Trung Quốc.



Каталог: dao-tao-tuyen-sinh -> thong-bao

tải về 1.85 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   6   7   8   9   10   11   12   13   ...   17




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương