40 Gương Thành Công Tác giả: Dale Carnegie



tải về 0.69 Mb.
trang4/8
Chuyển đổi dữ liệu06.11.2017
Kích0.69 Mb.
#34073
1   2   3   4   5   6   7   8

14. Walt Disney

Hai chục năm trước, Walt Disney, người đã tạo ra hình con chuột Mickey và Ba con heo nhỏ, có được biết tên tuổi gì đâu. Bây giờ ông được sắp vào hạng danh nhân trên thế giới mà ông mới bốn mươi tuổi. Tự điển Who s Who có ghi tên ông.

      Hai mươi mốt năm trước Walt Disney làm chật vật mà không kiếm đủ ăn. Bây giờ thì từ những vườn trà ở Ceylan tới những làng đánh cá ở miền Bắc băng giá, ai cũng biết tên và yêu ông. Cả những người thổ dân ở gần Bắc cực cũng thích những phim hoạt họa về con chuột Mickey chiếu ở Juneau, ở Alaska, đến nỗi họ lập một hội, kêu là hội Mickey.

      Hai mươi mốt năm trước, Walt Disney nghèo rớt mùng tơi, bây giờ ông triệu phú. Ông có thể ngồi trong một chiếc xe Rolls Royce lộng lẫy nếu ông muốn, nhưng ông không thích vậy, chỉ thích dùng những xe cũ ông mua lại. Kiếm được bao nhiêu, ông cho vào công việc của ông hết bấy nhiêu. Ông bảo rằng làm được những phim đẹp thích hơn là cóp nhặt cả triệu bạc.

      Hồi trước Walt Disney ở Kansas, muốn thành một nghệ sĩ cho nên có lần lại hãng Kansas City Star xin việc. Ông giám đốc đó coi những bức vẽ của ông, bảo ông không có tài, không thâu nhận ông, làm ông thất vọng, đau đớn vô cùng.

      Sau ông xin được việc vẽ hình cho các nhà thờ. Tiền công ít quá, nên không mướn được phòng vẽ, phải vẽ trong nhà chứa xe của cha. Hồi đó ông cho vậy là cực, nhưng bây giờ ông nghĩ rằng nhờ làm việc trong không khí hôi mùi dầu mỡ ở trong nhà chứa xe đó mà ông nảy ra một ý đáng giá cả triệu bạc.

      Việc xảy ra như vầy: Một hôm một chú chuột cao hứng dạo chơi trên sàn. Ông ngừng vẽ, ngó nó, rồi vô nhà lấy mấy miếng bánh mì vụn nuôi chú ta.

      Dần dần quen thuộc, chú chuột dám leo lên bàn vẽ của ông.

      Sau đó ít lâu, ông ôm một chồng hoạt họa vẽ con thỏ Owald trên giấy dầy, đem lại Hollywood để bán, nhưng chẳng có ma nào mua cả, thành thử ông lại thất nghiệp mà không đồng nào dính túi.
      Một hôm, ông đang kiếm ý để vẽ thì sực nhớ đến con chuột nó thường leo lên bàn vẽ của ông ở Kansas.
      Tức thì ông vẽ ngay con chuột, và hôm đó con chuột Mickey ra đời, sau thành kép hát nổi danh nhất thế giới.

      Mỗi tuần Walt Disney tới vườn Bách Thú để nghiên cứu các loài vật và tiếng kêu của chúng vì trong phim ông muốn cho những con vật đó kêu.

      Bây giờ ông không còn vẽ cũng không đặt lời và nhạc cho các phim của ông. Ông có một trăm ba mươi bốn người giúp ông trong những chi tiết đó, để ông rảnh óc tìm ý cho phim và khi ông tìm được một ý nào, ông đem ra bàn với mười hai chuyên viên về truyện phim.

      Một hôm, cách đây mười bốn năm, ông đề nghị vẽ một phim hoạt họa diễn một truyện trẻ em mà thân mẫu ông đã kể cho ông nghe hồi nhỏ, tức chuyện Ba con heo và con chó sói.

      Các cộng sự viên của ông lắc đầu, Ông bèn thôi ý định, quên ý đó đi. Nhưng ông quên không được lại đề nghị nhiều lần nữa, mà lần nào, các cộng sự viên cũng lắc đầu.

      Sau cùng họ nhượng bộ, bảo "Được, để làm thử coi." chứ không tin gì thành công.

      Phải mất chín chục ngày mới làm xong phim về chuột Mickey, nhưng phim ba con heo nhỏ thì họ cho là không đáng tốn công như vậy làm gấp chỉ trong sáu chục ngày là xong. Không ai tin rằng nó được hoan nghênh. Vậy mà nó làm vang động thế giới, thực là thành công kỳ dị. Từ những ruộng đồng bông vải ở Georgia, cho tới những vườn trồng táo ở Devon, tới đâu cũng thấy vang lên tiếng ca bài:"Ai thèm sợ con Chó Sói lớn, dữ, con Chó Sói lớn, dữ, con Chó Sói lớn, dữ?".

      Có rạp chiếu phim đó ông lời được sáu trăm ngàn Anh kim nhưng Walt Disney nói chỉ lời được hai vạn rưỡi thôi.

      Những phim hoạt họa sống được lâu. Hiện nay trong nhiều rạp còn chiếu con chuột Mickey vẽ từ mười năm trước.

      Walt Disney tin rằng hễ yêu công việc mình làm thì tất thành công. Ông bảo không bao giờ ông chỉ nghĩ tới việc kiếm tiền. Ông làm việc say mê lắm.



15. Mark Twain

Hollywood đã tiêu 400.000 Anh kim để quay một phim kể đời một trong những người tài giỏi nhất cổ kim của Hoa Kỳ. Ông là văn hào nổi danh nhất thời này và là một cây bút hài hước có nhiều độc giả nhất từ trước đến nay.

      Ông học trong một trường làng cất bằng cây cho tới 12 tuổi. Sự học của ông chỉ tới mức đó, vậy mà hai trường đại học Oxford và Yale đã tặng ông những học vị danh dự và những học giả bậc nhất thế giới cầu được vào hàng bạn hữu của ông. Ông viết sách kiếm được hàng triệu Anh kim, có lẽ hơn hết thảy những văn hào mọi thời. Mặc dầu ông đã mất ba mươi bốn năm rồi, mà tiền tác giả của

ông về sách, phim và phát thanh vẫn chảy như suối vào tủ sắt người thừa kế ông.

      Văn hào đó tên thật là Samuel Langhorne Clemens, nhưng ký bút hiệu là Mark Twain.

      Đời Mark Twain là một cuộc phiêu lưu. Ông sống trong một thời đại ly kỳ, đẹp đẽ nhất của lịch sử Hoa Kỳ. Ông sanh một trăm lẻ mười năm trước trong một làng nhỏ ở Missouri, một làng thiêm thiếp ngủ gần bờ sông Mississipi. Hồi đó đường xe lửa ở Mỹ mới cất xong được bảy năm, và Abraham Lincoln còn làm một anh cày ruộng, đi chân không, đẩy một cái cày lưỡi bằng gỗ do một cặp bò kéo.


      Mark Twain sống bảy mươi lăm năm sung sướng và mất năm 1910 ở Connecticut. Ông viết hai mươi ba cuốn sách: nhiều cuốn ngày nay đã quên tên, nhưng có hai cuốn: Huckleberry Finn và Tom Swayer sẽ bất hủ và  được trân tàng hàng thế kỷ nữa. Hễ trên đời còn thanh niên thì người ta còn đọc hai cuốn đó mà ông đã viết do kinh nghiệm của bản thân ông. Ông viết nó ư? Không? Nó phát từ đáy lòng ông ra.

      Mark Twain sanh tại một căn nhà có hai phòng nhỏ ở Floride, xứ Missouri. Phòng ông ở tồi tàn đến nỗi một chủ trại tân thời ngày nay cũng không chịu nuôi bò hoặc gà trong đó. Tám người sống trong hai phòng tối: bảy người trong gia đình và một người tớ gái. Mới sinh ra ông rất yếu ớt. Rồi khi ông lớn lên lần lần, thân mẫu ông phải lo lắng cho ông nhiều hơn hết thảy những người khác trong gia đình họp lại. Ông rất ưa khôi hài, ghét học, chỉ thích ra bờ sông Mississipi nhìn những cù lao bí mật, những bè mảng từ từ trôi và dòng nước cuồn cuộn chảy ra biển. Có khi ông ngồi trên bờ sông mơ mộng hàng giờ.

      Ông suýt chết đuối chín lần. Trong khi chơi với bạn, giả làm mọi, làm ăn cướp, trong khi vô coi những cái hang, ăn trứng rùa, ngồi trên mảng trôi theo dòng sông, ông đã thu thập được những kinh nghiệm vô giá về cảnh vật và tính tình để sau này trứ tác.

      Ông được di truyền tài hài hước của thân mẫu (...) Năm ông mười hai tuổi, thân phụ ông mất. Ông hối hận vì đã không nghe lời cha, lêu lổng chứ không chịu học, rồi ông khóc, tự trách mình.


      Thân mẫu ông ráng an ủi ông. Ít hôm sau ông tập sự trong một nhà in để vừa kiếm tiền vừa học thêm.
      Hai năm sau, ông thành một ấn công. Một buổi chiều, đi ngoài phố ở châu thành Hannibal, ông lượm được một trang xé trong cuốn sách và bay trên đường.

      Việc tầm thường đó đã thay đổi hẳn đời ông. Trang giấy đó kể chuyện Jeanne d Arc bị quân Anh giam trong ngục ở Rouen. Đọc xong, lòng ông rung động vì sự tàn nhẫn của quân Anh. Ông không hề biết Jeanne d Arc là ai, chưa hề được nghe tên đó. Nhưng từ hôm ấy, ông đọc bất kỳ sách báo nào nói về vị nữ anh hùng ấy. Trong già nữa đời, ông nghiên cứu về Jeanne d Arc, rồi viết một cuốn nhan đề là Hồi tưởng Jeanne d Arc. Các nhà phê bình cho cuốn đó kém xa những cuốn khác của ông, nhưng ông coi nó là một tác phẩm hay nhất ông đã viết. Ông biết rằng nếu ký tên thật, độc giả sẽ tưởng lầm là một tác phẩm hài hước, nên ông phải ký tên khác.

      Ông rất vụng về trong việc hùn vốn làm ăn, bỏ tiền vào đâu thì lỗ đó, cho nên năm năm mươi tám tuổi nợ đìa ra. Mà ông lại đương đau nữa, sức đã suy. Ông có thể tuyên bố là phá sản rồi khỏi phải trả nợ, vì hồi đó khắp xứ bị nạn kinh tế khủng hoảng, nhưng không, ông nhất định trả hết nợ bằng cách viết sách và  đi khắp thế giới diễn thuyết trong năm năm. Tới đâu công chúng cũng hoan nghênh ông nhiệt liệt, phòng diễn thuyết ông rộng tới mấy cũng không đủ chứa hết thính giả. Khi đã trả hết nợ, ông viết: "Bây giờ tinh thần tôi mới được yên lại không bị như có vật nặng đ è lên nó nữa. Bây giờ làm việc mới thích, chứ không thấy là một cực hình nữa".

      Ông cưới được một thiếu nữ mà ông yêu ngay từ lúc mới trông thấy tấm hình của cô. Hai ông bà thương nhau lắm. Sách ông viết đều do bà xuất bản. Ban ngày viết được trang nào thì tối đến, ông đặt trên một cái kệ gần đầu giường bà  để bà  đọc trước khi đi ngủ. Bà sửa cho văn nhã hơn và hoàn toàn tinh xác, ông luôn luôn theo ý bà.

      Ông rất sợ làm thất lạc bản thảo nên cấm người ở gái lau bàn viết của ông. Ông thường lấy phấn vạch một đường trên sàn để ngăn một khu vực không cho chị ở bước vào.

      Đây là bốn hàng chữ ông khắc lên mộ chí cô Susy con gái ông, mà nếu đem khắc lên mộ chí ông thì cũng rất hợp.

      Một trời ấm áp mùa hè, chiếu dìu dịu ở đây nhé.

      Gió ấm áp phương Bắc, thổi nhè nhẹ ở đây nhé.

      Cỏ xanh phủ lên, êm ái ngủ đi, êm ái ngủ đi!

      Xin chúc ai an giấc, an giấc, an giấc. (1)

16. Andrew Carnegie

Song thân ông Andrew Carnegie nghèo tới nỗi khi sanh ông không có tiền mời y sĩ hay cô mụ. Ông bắt đầu kiếm ăn, lãnh mỗi giờ có hai xu, sau gây được một gia tài là bốn trăm triệu Mỹ kim.


      Một lần tôi có cơ hội lại thăm nơi chôn nhau cắt rốn của ông ở Dunfermline, xứ Ecosse. Nhà chỉ có hai phòng: phòng dưới là xưởng dệt của thân phụ ông, phòng trên gác nhỏ xíu, tối tăm, thấp, sát mái, làm chỗ ăn ngủ cho gia đình.

      Khi gia đình Carnegie tới Châu Mỹ, thân phụ Andrew dệt khăn trải bàn và  đem bán dạo từng nhà. Bà thân ông giặt mướn tại nhà và khâu giày cho một người thợ giày. Andrew chỉ có mỗi một chiếc áo sơ mi mà bà thân ông giặt rồi ủi mỗi tối, khi ông đi ngủ rồi. Bà cụ làm việc từ mười sáu đến mười tám giờ mỗi ngày, và Andrew rất yêu quý cụ. Khi ông hai mươi hai tuổi ông hứa với mẹ rằng mẹ còn sống thì ông không lấy vợ. Ông giữ được lời hứa đó. Ba chục năm sau khi cụ quy tiên rồi, ông mới lập gia đình. Lúc đó ông đã năm mươi hai tuổi, và năm sáu mươi hai tuổi ông mới sanh cậu con một. Hồi nhỏ ông nói hoài với bà cụ:

      - Má, sau này con sẽ giàu có để má có áo lụa bận, có người ở để sai và có riêng một chiếc xe để đi.
      Ông thường bảo nhờ bà cụ mà ông thông minh, có nhiều khả năng và lòng yêu mẹ đã là nguyên động lực giúp ông thành công rực rỡ. Khi cụ mất, ông đau khổ trong nửa tháng, mỗi lần nhắc đến tên cụ là ông nghẹn ngào, không nên lời. Một lần ông trả hết nợ cho một bà già xứ Ecosse để bà này lấy lại được căn nhà  đã cầm cố cho người khác, chỉ vì bà giống bà cụ thân sinh ra ông.

      Ai cũng cho rằng Andrew Carnegie là ông vua thép mà ông không biết chút gì về sản xuất thép. Hàng trăm ngàn người làm việc cho ông chắc chắn hiểu kỹ thuật đó hơn ông. Như ông biết dùng người, và  đức này đã làm cho ông hóa ra giàu có. Ngay từ hồi nhỏ ông đã tỏ ra có thiên tư xuất chúng, trong nghệ thuật tổ chức và lãnh đạo, làm cho người khác vui lòng giúp mình.

      Có lần ở Ecosse, hồi còn bé ông bắt được con thỏ cái. Ít lâu sau thỏ cái sinh được một bầy con, nhưng ông không có gì để nuôi chúng. Ông nảy ra một ý tài tình: ông bảo trẻ con hàng xóm hễ kiếm đủ rau để nuôi thỏ thì ông lấy tên mỗi đứa đặt cho một con thỏ. Kế hoạch đó kết quả lạ lùng.
      Về sau, Carnegie dùng thuật tâm lý đó trong công việc làm ăn. Chẳng hạn ông muốn bán đường rầy cho công ty xe lửa Pennsylvania Railroad. Hội trưởng công ty hồi đó là J. Edgar Thomson. Andrew Carnegie cho cất ở Pittsbung một xưởng lớn dát mỏng thép mà ông đặt tên là "xưởng thép J. Edgar Thomson". Tất nhiên là ông Thomson khoái chí và bằng lòng mua liền những đường rầy của xưởng mang tên mình.

      Hồi đầu, Andrew Carnegie làm một anh đưa điện tín ở Pittsbung. Mỗi ngày lãnh được năm cắc mà ông đã lấy làm mãn nguyện lắm. Nhưng ông không biết châu thành Pittsbung và sợ mất việc nên phải học thuộc lòng tên và  địa chỉ của tất cả các hãng trong khu vực buôn bán.

      Ông chỉ thèm làm điện tín viên thực thụ, thèm muốn chết đi, và buổi tối ông học chữ moóc, sáng tới sớm để tập đánh tin. Một buổi sáng có tin quan trọng đặc biệt. Ở Philadelphie người ta gọi Pittsbung, gọi mấy lần mà chưa có điện tín viên nào tới. Andrew Carnegie chạy lại, nhận tin, chuyển tin và tức thì được nhắc lên chân điện tín viên, lương gấp đôi. Sau này ông thích kể lại lần thành công đầu tiên đó. Một bạn thân của ông tóm tắt luân lý trong truyện thành một câu ngộ nghĩnh dưới đây mà chúng ta nên ngẫm nghĩ kỹ:

      "Muốn trở nên một người ra sao thì phải hành động như đã là con người ấy".

      Nghị lực không có gì thắng nổi và lòng cao vọng phóng túng của Andrew Carnegie làm cho nhiều người để ý tới ông. Công ty Pennsylvania Railroad dựng một đường dây thép tư, Andrew Carnegie được công ty dùng làm điện tín viên rồi ít lâu sau lãnh chức thư ký riêng của Giám đốc phân khu.
      Một ngày nọ, một việc bất ngờ đưa ông lên con đường giàu sang. Một người ngồi bên cạnh ông trong toa xe lửa đưa cho ông coi bản đồ một kiểu toa mới, có chỗ nằm mà người đó mới vẽ xong. Hồi đó ghế nằm chỉ là những băng dài đóng vào hai bên hông toa chở hàng. Bản đồ mới giống kiểu toa ngày nay. Carnegie có óc sáng suốt đặc biệt của người Ecosse. Ông hiểu rằng sáng kiến đó hứa hẹn được nhiều. Ông vay tiền, hùn thêm một phần vốn quan trọng vào xí nghiệp, được hưởng những số lời lớn và năm ông hai mươi lăm tuổi, nội việc hùn vốn đó đã đem cho ông năm ngàn Mỹ kim mỗi năm.
      Một làn khác, một chiếc cầu cây trên đường hỏa xa cháy và sự giao thông phải ngưng trệ trong nhiều ngày. Lúc đó Andrew Carnegie làm giám đốc một ngành trong công ty. Ông hiểu rằng những cầu cây sẽ bị loại và thép sẽ là vật liệu trọng dụng. Ông vay tiền, lập một công ty làm những cầu sắt, và tiền lời ùn ùn vô mau quá, làm ông gần hoa cả mắt.

      Ông mó cái gì là cái đó biến thành vàng. Ông lên như diều. Vận may, một vận may không thể tưởng tượng được bám riết lấy ông. Ông với vài người bạn mua một cái trại giá bốn chục ngàn Mỹ kim, ở giữa một khu có mỏ dầu lửa, tại Pennsylvanie và chỉ trong một năm lời được một triệu Mỹ kim. Khi con người quỉ quyệt đó hai mươi bảy tuổi thì lợi tức mỗi tuần đã được ngàn Mỹ kim rồi, mà mười lăm năm trước chỉ kiếm được hai cắc rưỡi mỗi ngày.

      Việc dưới đây xảy ra năm 1862, Lincoln đương làm Tổng Thống. Nội chiến đương dữ dội. Sắp có nhiều sự thay đổi lớn. Biên giới mở rộng ra. Miền Tây xa xôi bắt đầu được khai phá. Những đường xe lửa sẽ đặt khắp trong nước. Nhiều thành thị lớn sẽ dựng lên. Châu Mỹ lảo đảo trước một kỷ nguyên mới mê hồn.

      Và Andrew Carnegie, với những lò nấu thép phun khói và lửa của ông, bị lôi cuốn trong ngọn thủy triều đương dựng đó, ông dựng được gia tài khổng lồ ngoài sức tưởng tượng.

      Vậy mà ông không phải là hạng người làm chết bỏ, Ông thích la cà. Ông bảo rằng những người cộng tác với ông biết nhiều hơn ông, và chính những người đó kiếm tiền cho ông. Người Ecosse có tính biển lận. Ông là người Ecosse mà lại không biển lận khi chia lời. Ông để các cộng tác với ông hưởng chung, và chắc chắn ông là người đã gây cho nhiều người nhất thành triệu phú. Trong đời ông, ông chỉ được học có bốn năm, vậy mà ông viết tám cuốn sách về du ký, tiểu sử, cảo luận và biên khảo kinh tế. Ông tặng sáu chục triệu Mỹ kim cho các thư viện công cộng và sáu mươi tám triệu nữa cho công việc cải thiện giáo dục.

      Ông thuộc hết thảy những bài thơ của Robert Burns và có thể đọc thuộc lòng trọn bộ những kịch Macbeth, Vua Lear, Romeo và Juliet, Nhà buôn ở Venice của Shakespeare.

      Ông không theo một tôn giáo nào cả mà tặng bản ngàn đàn ống cho các giáo đường.

      Ông đã tặng tới ba trăm sáu mươi lăm triệu Mỹ kim. Các nhật báo tổ chức những cuộc thi và thưởng người nào chỉ được cho ông cách hữu ích nhất để tiêu hết đống vàng của ông, vì ông đã tuyên bố rằng chết giàu là chết nhục



17. Enrico Caruso

Khi Enrico Caruso mất năm 1921, hồi bốn mươi tám tuổi, hàng triệu người buồn rầu, vì giọng hát của thời đại đã bặt hẳn từ ngày đó. Ông đã tắt nghỉ trong tiếng vỗ tay khen ông ở khắp thế giới văng vẳng bên tai ông. Ông làm việc quá sức, bị cảm hàn nhẹ, nhưng ông coi thường không thèm chữa, và suốt sáu tháng ông can đảm chống cự với thần chết, trong khi một triệu tín đồ yêu ông cầu nguyện cho ông qua khỏi.

      Giọng hát mê hồn của Caruso không phải là do trời cho mà là phần thưởng của nhiều năm gắng sức, kiên nhẫn luyện tập, giữ vững quyết định.

      Mới đầu giọng ông nhỏ quá, nhẹ quá đến nỗi thầy dạy hát bảo ông:"Anh không thể hát được. Anh không có giọng. Anh hát như tiếng gió thổi vào cửa lá sách vậy".

      Trong nhiều năm giọng ông vỡ ra và một lần ông bị thính giả huýt còi. Ít người đã được uống cạn ly rượu thành công như ông, vậy mà hồi danh thịnh nhất, nhớ lại ngày xưa đã thất bại, ông thường đau đớn đến sa lệ.

      Má ông mất khi ông mười hai tuổi và từ đó, bất kỳ đi đâu, ông cũng mang theo một tấm hình của bà cụ.

      Bà cụ sanh hai mươi mốt lần mà chỉ nuôi được có ba người con. Vốn quê mùa cụ có biết gì khác ngoài sự làm ăn khó nhọc và nhẫn nhục đau khổ, vậy mà cụ có linh tính bảo rằng một người con trai của cụ có thiên tài, danh tiếng sẽ vang lừng, và không có việc nào ích lợi cho con, mà cụ không làm, dù phải hy sinh rất lớn. Caruso thường vừa khóc vừa nói: "Má tôi nhịn mua giày dép, đi chân không, để tôi có tiền học hát".

      Hồi ông mới mười tuổi, thân phụ ông bắt ông thôi học, cho ông vào làm trong một xưởng. Mỗi tối, sau khi làm việc xong, ông học đ àn, nhưng mãi đến năm hai mươi mốt tuổi, ông mới được vui vẻ ca hát từ giã xưởng.

      Người ta cho ông hát trong một quán cà phê, không chịu trả công ông mà chỉ cho ông ăn bữa tối. Ông vồ ngay lấy cơ hội ấy.

      Sau cùng ông được hát trong một nhạc kịch trường. Lần đó mới thực là lần may mắn đầu tiên của ông. Trong lúc diễn thử, ông bị kích thích quá, thành thử giọng ông bể ra như những mảnh kính. Ông thử đi thử lại mấy lần, nhưng kết quả chỉ tai hại, ông khóc mướt, chạy về nhà.

      Lần đầu ra sân khấu, ông lảo đảo, tới nổi thính giả huýt còi phản đối. Lần đó ông chỉ đóng một vai tạm để thay thế vai chánh. Một tối, vai chánh thình lình đau mà ông không có mặt ở rạp. Người ta bảo đi tìm ông khắp đường phố. Sau cùng người ta thấy ông trong một tiệm rượu, gần say khướt. Hay tin, ông chạy một mạch về rạp, tới nơi ông hết hơi, người nóng bừng vì rượu và vì không khí trong phòng thay quần áo. Rồi thình lình trái đất quay như chong chóng. Và khi Caruso bước ra sân khấu, ông hát bậy bạ như điên, cả rạp nhao nhao lên phản đối.

      Sau buổi hát đó, ông bị đuổi. Hôm sau ông đau lòng quá, thất vọng quá, muốn tự tử.


      Trong túi chỉ còn mỗi một đồng, đủ để mua một chai rượu. Ngày hôm đó ông nhịn đói. Và  đúng lúc ông đương nghĩ nên tự tử cách nào thì một người nhạc kịch trường sai tới đẩy cửa bước vào, la:

      - Caruso! Về rạp ngay đi! Thính giả không muốn nghe ca sĩ đó nữa. Họ huýt còi đuổi hắn ra khỏi sân khấu rồi. Họ la đòi anh ra. Đòi anh cho kỳ được!

      Caruso đáp:

      - Đòi tôi! Họ khùng hở? Tại sao lại đòi tôi? Họ có biết tên tôi là gì đâu mà  đòi tôi?

      - Họ không biết tên anh thật. Nên họ bảo gọi cái anh say rượu hôm qua ra. Thì là anh chứ còn ai nữa!
      Khi Enrico Caruso mất, ông có mấy triệu bạc. Chỉ riêng một việc hát để người ta thu thanh vào đĩa, ông cũng kiếm được bốn trăm ngàn Anh kim rồi. Nhưng vì nhớ lại cảnh nghèo hồi bé, nên ông mới cần kiệm ghi hết thảy những chi phí bất kỳ lớn nhỏ vào một cuốn sổ cho tới khi ông chết.
      Có lẽ phút vui nhất trong đời ông là lúc ông được bồng đứa con gái ông lần đầu. Ông nói đi nói lại hoài rằng ông chỉ cần đợi khi nào con gái ông lớn một chút, chạy lăng xăng trong nhà, và mở được cửa phòng ông mà vô là ông mãn nguyện rồi. Và một hôm, ở Ý, ông đứng bên cạnh chiếc dương cầm, thì sở nguyện của ông thực hành được: con gái ông chạy vô, ông bồng nó lên, rồi nước mắt dòng dòng, ông nói với vợ: "Mình còn nhớ không, anh chỉ mong mỏi được thấy lúc này?".

      Không đầy một tuần sau ông mất.



18. Dorothy Dix

Theo ý bạn, ký giả nào có nhiều độc giả nhất? Tôi thì cho rằng ký giả đó là một người đ àn bà sung sướng nhất Hoa Kỳ, vì đã giúp cho đủ hạng người giải quyết những vấn đề tình cảm của họ. Đã bao lâu nay, bà là người mẹ, là giáo sĩ rửa tội cho hàng triệu người đau khổ, cả đ àn ông lẫn đ àn bà. Chưa có ai đã tránh cho đồng bào được nhiều vụ li dị, đã cứu vớt được nhiều gia đình như bà.


      Tên bà là Elizabeth Meriwether Gilmer. Bạn chưa nghe nói về bà ư? Có chứ! Đã nghe nói nhiều lần rồi, nghe tên Dorothy Dix nhiều lần rồi chứ! Dorothy Dix chính là bà. Hồi mới cầm viết, bà lựa bút hiệu đó vì bà thích nó, mà cũng vì bà muốn kỷ niệm một người mọi tên là Dix đã hầu hạ gia đình bà lúc bà còn nhỏ.

      Vậy bà ký tên Dorothy Dix dưới những bài đăng trong hai trăm tờ nhật báo, để cho hàng triệu độc giả khắp thế giới đọc, từ Luân Đôn tới Châu Úc, từ Nữu Ước tới Nam Mỹ và Nam Phi Châu.

      Cách đây ít lâu, tôi hân hạnh được uống trà với bà ở New Orleans, bà kể chuyện về tuổi thơ, về sự giáo dục của bà trong mười năm, sau cuộc nội chiến. Thân phụ bà có một trại nuôi ngựa giống ở biên giới Tennessee và Kentucky. Gia đình bà là một gia đình cổ ở phhương Nam vì chiến tranh mà sa sút. Bà nói:

      - Chúng tôi sống kỳ cục lắm, nghèo không ra nghèo, sang không ra sang. Ngôi nhà cũ của chúng tôi đẹp lắm, chung quanh có những cánh đồng cỏ mơn mởn, bò và cừu mập ú, nhởn nhơ bên cạnh những cánh đồng trồng lúa và bông vải. Ăn thì chén dĩa bằng bạc. Như tiền thì không có.

      Bà bận những đồ bằng len nhà, dệt ở hàng xóm. Bà thích kể rằng vú nuôi của bà là một con ngựa cái để đua, vì già và bệnh tật nên được thả ở trước nhà. Bà nói thêm:

      - Tôi biết cưỡi ngựa trước khi đi học. Ba tôi đặt tôi lên lưng ngựa, tôi níu chặt bờm ngựa trong khi nó ăn cỏ. Khi nào nó luồng qua một sợi dây thừng mắc quần áo hoặc một cành cây là tôi bị hất xuống đất. Tôi la hét cho tới khi có người chạy ra bồng tôi lên, đặt tôi trên lưng ngựa.

      Một chị vú da đen dạy cách ăn nói cư xử cho bà và chị em bà. Trong bữa cơm, chị ta đứng sau lưng bà, rình như một tên lính gác. Vô phúc mà láu ăn hoặc bốc đồ ăn hoặc khóc thì, cốp! Bị cú trên đầu liền.

      - Ăn uống cho đàng hoàng. Đừng làm như những thằng nhỏ mất dạy da trắng đó nữa!


      Ba đứa nhỏ phải chơi một mình, làm lấy đồ chơi mà chơi. Nhưng chơi với chó và ngựa, thú vị biết bao! Bà nói:

      - Chúng tôi được tự do như chim trên trời vậy. Không bị bó buộc gì hết. Muốn đi đâu thì đi, làm gì thì làm. Chúng tôi thắng yên cương rồi cho ngựa chạy phi vô rừng, đằng sau là một bầy chó sủa vang trời. Chúng tôi biết hết cả những bí mật của rừng, những chỗ chim cùn cút trốn ở đâu, chim ưng làm tổ ở đâu, thỏ giấu con ở đâu. Chúng tôi cũng biết chỗ nào có trái lý dại và mùa thu tới, chỗ nào có những hạt dẽ ngon nhất. Lòng tự tin của chúng tôi tăng lên rất mau, vì chúng tôi biết xoay sở lấy, biết biển báo khi gặp nỗi khó khăn.

      Đây là một điều lạ lùng nhất về bà. Chính một ông cụ già gần như điên, đã dạy bà  được nhiều điều rất quí. Ông cụ đó là bạn cũ của ông nội bà và sống trong nhà bà như người thân. Không những cụ dạy bà tập đọc mà còn hướng dẫn bà yêu những sách quí trong tủ sách nhà nữa. Bà nói:
      - Chưa đầy hai mươi tuổi, tôi đã thuộc lòng Shakespeare, Scott, Dickens, tôi đã đọc Smollet, Fielding và Richardson. Không có sách để trẻ em đọc, tôi đ ành nhai đại những sách khó tiêu nhất nhưng bổ ích của người lớn. Và lúc nào tôi cũng thấy sung sướng được đọc những sách đó.
      Bà  đi học trường nhà nước rất ít.

      Cha tôi cho tôi lại học trường cô Alice hay cô Jenny không phải vì các cô ấy dạy giỏi mà chỉ vì thân phụ các cô ấy đã có công lao với xứ sở, hoặc làm đại tá dưới quyền chỉ huy của tướng Beauregard, hoặc đã tử trận ở Gettysburg. Làm sao được? Đó cũng là một cách giúp các cô ấy sống.


      Trước khi biết bảy lần bảy là bốn mươi chín, bà  đã leo cây giỏi như một con sóc và cưỡi ngựa tài như một chú nài. Sự thật bà chỉ được học trong những sách cũ của thân phụ để lại.

      Rồi năm mười tám tuổi, bà về nhà chồng, tính sống cuộc đời yên ổn như mọi thiếu phụ khác trong trường hợp đó. Nhưng một bi kịch xảy ra, vùi bà trong một tai biến về hai phương diện gia đình và tài chánh. Mới cưới nhau được ít lâu, chồng bà thành một người tàn tật, một phế nhân. Bà phải săn sóc chồng, nuôi chồng cho tới khi chồng chết, trong ba mươi lăm năm đằng đẳng. Lúc đó bà không biết làm sao kiếm đủ nuôi thân mình, đừng nói là nuôi chồng nữa. Bà lo lắng quá, hóa đau, phải tới Gulf Coast ở Mississipi để dưỡng sức.

      Lần đi xa nhà  đó đã làm thay đổi hẳn đời bà. Trong khi nghỉ ngơi trên bờ biển, bà viết một truyện ngắn kể một việc xảy ra trong gia đình bà hồi nội chiến. Song thân bà sợ những đồ quí bằng bạc bị lính phương Bắc cướp mất, sai một tên nô lệ đem chôn ở bên mộ tổ tiên. Hắn chôn xong còn làm phép phù thủy yếm cho kẻ trộm khỏi tới gần. Bà bán truyện đó cho một bà hàng xóm làm chủ nhiệm một tờ nhật báo lớn nhất miền Nam, tờ Picayune ở New Orléans. Người ta trả bà ba Mỹ kim và dùng bà làm phóng viên trong tòa soạn. Như vậy bà chỉ kiếm được năm Mỹ kim mỗi tuần, vừa đủ cho hai ông bà sống, nhưng nhờ viết phóng sự mà sau này bà nổi danh khắp trong nước.

      Công việc đầu tiên của bà là mỗi chủ nhật viết một bài dài khuyên bảo phụ nữ về đời tình cảm của họ đối với chồng con.

      Phần đông nữ sĩ viết một lối văn cầu kỳ. Họ rán dùng một bút pháp có vẻ thông thái, độc đáo để tỏ ra mình hơn người, họ muốn tự tạo một tư cách "thượng đẳng". Dorothy Dix trái lại, viết rất giản dị, thành thử nữ độc giả thích ngay. Bà không cần tự tạo một tư cách giả tạo, chính bà  đã có một tư cách chân thực, mạnh mẽ của một phụ nữ Mỹ sống giữa thiên nhiên và những truyền thống của một gia đình cổ phương Nam. Một xã hội càng rập theo đời sống mới nhất luật bao nhiêu thì lại càng trọng những người còn giữ được cái ý nhị, tự nhiên của cổ nhân bấy nhiêu. Ở thời đại này, nhiều người nhờ bí quyết đó mà thành công trong nghề viết văn, nghề làm báo, truyền thanh, hát bóng, diễn kịch...

      Những bài của Dorothy Dix được hoan nghênh nhiệt liệt. William Rodolp Hearst luôn luôn tìm những tài ba mới, tặng bà những số tiền lớn để bà viết cho tờ Evening Journal ở Nữu Ước. Bà cần tiền lắm nhưng không bỏ chủ báo cũ, vì chính nhờ tờ Picayune mà bà  đã học được nghề viết báo. Vả lại lúc đó chủ tờ Picayune đau, cần bà ở lại giúp việc. Vì vậy bà không nhận lời William Rodolp Hearst, nhưng năm 1901, khi chủ báo cũ mất, bà qua viết tờ Evening Journal. Trong hai chục năm sau chẳng những bà giữ mục Tâm tình mà còn viết nhiều bài phóng sự lớn để đứng về phương diện nhân đạo mà phê bình những tin tức kích thích nhất, như vụ xử lớn về hình sự. Chẳng hạn bà viết phóng sự vụ xử Harry K. Thaw, nhà triệu phú ở Pittsburg đã giết kiến trúc sư nổi danh nhất Nữu Ước là Stanford White(...) Bà thuật lại vụ Hall Mills, một tội đại hình bí mật nhất của thế kỷ XX.


      Thành thử một thiếu nữ rất giản dị, mà hồi hai mươi tuổi còn quê mùa, chưa đi xe lửa quá sáu lần, chưa đi coi hát hoặc ra thành thị quá hai lần, sống trong một trại hẻo lánh ở Kentucky, nay đã thành một ký giả nổi danh nhất Nữu Ước.

      Người ta thường hỏi bà có phải chính bà viết những bức thư ký tên độc giả rồi lại tự đáp trên mục "Thư tâm tình" không. Bà  đáp:

      - Đâu có vậy! Cần gì phải thế? Mỗi ngày tôi nhận được từ một trăm tới một ngàn bức thư của độc giả mà!

      Những bức thư đó là những tài liệu lạ lùng về lòng người. Người ta không giấu giếm gì cả, cởi hết lòng với bà. Đọc nó, bà biết được hơn ai hết những thắc mắc của con người thời này.


      Bà  được các trường Đại học Tulane và Oglethorpe tặng nhiều vinh hàm, nhưng vì bà không có con, nên những vinh hàm đó không làm cho bà vui bằng khi nhận được những hàng chữ như vầy của thanh niên đau khổ, hoang mang: "Tôi trọng bà hơn má tôi, tôi biết rằng bà hiểu tôi..."

Каталог: UserFile -> Document
UserFile -> 29 Thủ tục công nhận tuyến du lịch cộng đồng
UserFile -> BÀi phát biểu củA ĐẠi diện sinh viên nhà trưỜng sv nguyễn Thị Trang Lớp K56ktb
UserFile -> BỘ XÂy dựNG
UserFile -> CỘng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam độc lập – Tự do – Hạnh phúc
UserFile -> BỘ XÂy dựng số: 10/2013/tt-bxd cộng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
UserFile -> BỘ CÔng thưƠng cộng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
UserFile -> CỘng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam kho bạc nhà NƯỚC Độc lập Tự do Hạnh phúc
UserFile -> MÔn toán bài 1: Tính a) (28,7 + 34,5) X 2,4 b) 28,7 + 34,5 X 2,4 Bài 2: Bài toán
Document -> Lêi nãi ®Çu TÝnh cÊp thiÕt cña ®Ò tµi
Document -> Lêi nãi ®Çu

tải về 0.69 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương