Ủy ban nhân dân tỉnh lào cai cộng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam



tải về 386.17 Kb.
trang1/4
Chuyển đổi dữ liệu06.08.2016
Kích386.17 Kb.
#14327
  1   2   3   4


ỦY BAN NHÂN DÂN

TỈNH LÀO CAI




CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc










Số: /KH-UBND




Lào Cai, ngày tháng 02 năm 2016











KẾ HOẠCH

Phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Lào Cai 5 năm 2016 - 2020



Phần thứ nhất:

ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH THỰC HIỆN KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN

KINH TẾ - XÃ HỘI 5 NĂM 2011 - 2015

Tỉnh Lào Cai triển khai thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011- 2015, với nhiều thuận lợi: Đảng và Nhà nước tiếp tục có nhiều chủ trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội miền núi, vùng cao; kế thừa những thành tựu trong phát triển kinh tế - xã hội sau hơn 20 năm tái lập tỉnh; tình hình chính trị và trật tự an toàn xã hội ổn định; quan hệ đối ngoại không ngừng được phát triển và mở rộng; vai trò và vị thế của Lào Cai trong khu vực các tỉnh miền núi phía Bắc, cũng như vị trí “cầu nối” giữa Việt Nam với vùng Tây Nam - Trung Quốc và các nước trong khối ASEAN ngày càng được khẳng định, tạo cơ hội cho sự phát triển của tỉnh…

Bên cạnh những thuận lợi nói trên, việc thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011 - 2015 cũng còn nhiều khó khăn, thách thức: Tác động của suy thoái kinh tế trong nước và toàn cầu; diễn biến phức tạp ở biển Đông, hoạt động xuất nhập khẩu qua các cửa khẩu trên địa bàn không ổn định; thiên tai, dịch bệnh, biến đổi khí hậu khó lường gây thiệt hại nặng nề. Kết cấu hạ tầng của tỉnh chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển. Nguồn thu ngân sách còn nhỏ, phụ thuộc nhiều vào Trung ương. Tỷ lệ hộ nghèo cao (chiếm 43%), tập quán canh tác của nhân dân vùng cao, vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn lạc hậu. Nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao chưa đáp ứng với yêu cầu phát triển của tỉnh là những hạn chế vốn có của tỉnh miền núi.

Với quyết tâm cao, tranh thủ những thời cơ, thuận lợi, đồng thời nỗ lực phấn đấu, khắc phục khó khăn, vượt qua thách thức của các cấp, các ngành; 5 năm qua, kinh tế của tỉnh duy trì được tốc độ tăng trưởng khá cao, các vấn đề xã hội có nhiều chuyển biến tích cực, an ninh quốc phòng được đảm bảo; các chỉ tiêu chủ yếu đều đạt và vượt so với kế hoạch (KH) đề ra.



I. NHỮNG KẾT QUẢ NỔI BẬT TRONG 5 NĂM QUA

1. Tăng trưởng kinh tế ổn định và tiếp tục duy trì ở mức cao

Tốc độ tăng trưởng kinh tế GRDP giai đoạn 2011 - 2015 đạt 14,1%/năm, cao hơn giai đoạn 2006 - 2010 là 1,4%, trong đó: nông, lâm nghiệp, thủy sản tăng 6,2%/năm, thấp hơn giai đoạn trước 0,6%; công nghiệp - xây dựng tăng 19%/năm, cao hơn giai đoạn trước 0,8%; dịch vụ tăng 14%/năm, cao hơn giai đoạn trước 2,1%.

GDP bình quân đầu người (giá hiện hành) đến hết năm 2015 đạt 39,4 triệu đồng/người/năm, gấp 2,4 lần so năm 2010, vượt 2,6% KH.

Cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng, tích cực: Tỷ trọng ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản giảm từ 28,3% năm 2010 xuống còn 15,7% năm 2015; công nghiệp và xây dựng tăng từ 37,8% lên 43,1%; dịch vụ tăng từ 37,9% lên 41,2%.



2. Sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy sản tiếp tục tăng trưởng, cơ cấu kinh tế nội ngành có sự chuyển dịch tích cực; phát triển nông thôn có bước chuyển biến mạnh mẽ

Giai đoạn 2011 - 2015 giá trị sản sản xuất ngành nông, lâm nghiệp và thuỷ sản của tỉnh tiếp tục tăng trưởng nhờ từng bước khai thác tiềm năng đất đai, lao động, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất...; tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất ngành nông nghiệp bình quân đạt trên 6%/năm, đạt mục tiêu đề ra, cao hơn 0,2% so giai đoạn 2006-2010. Cơ cấu kinh tế nội ngành có sự chuyển dịch tích cực: Tỷ trọng trồng trọt giảm dần từ 67,9% năm 2010 xuống còn 57,1% năm 2015; tỷ trọng chăn nuôi tăng từ 29,9% năm 2010 lên 40,9% năm 2015; dịch vụ nông nghiệp từ 2,2% năm 2010 còn 2% năm 2015.

Sản xuất nông nghiệp có bước phát triển tiến bộ khá toàn diện, đã phát huy có hiệu quả những lợi thế về đất đai, khí hậu để chuyển đổi cơ cấu cây trồng theo hướng sản xuất hàng hoá gắn với thị trường tiêu thụ. Các vùng sản xuất hàng hóa: lúa, ngô, chè, chuối, dứa… được hình thành rõ; bước đầu xây dựng các vùng sản xuất có hiệu quả như: cây chuối cấy mô, rau an toàn, hoa, cây ăn quả ôn đới1. Các tiến bộ khoa học kỹ thuật được áp dụng phổ biến vào sản xuất, đặc biệt là kỹ thuật giống, thâm canh, tăng vụ (trên 90% diện tích lúa, ngô, đậu tương, lạc được trồng giống mới có năng suất cao). Sản xuất tăng vụ được mở rộng đem lại hiệu quả trong chuyển dịch cơ cấu mùa vụ. Năng suất, sản lượng các loại cây trồng đều tăng, năm sau cao hơn năm trước. Tổng sản lượng lương thực có hạt năm 2015 đạt trên 281.800 tấn, tăng trên 55.000 tấn so với năm 2010, bằng 110,5 so KH và 114,7% so với mục tiêu Đại hội XIV. Giá trị sản xuất trên đơn vị canh tác bình quân đến hết năm 2015 dự kiến đạt 46,5 triệu đồng/năm, bằng 1,4 lần so với năm 2010, bằng 122% so KH.

Chăn nuôi đại gia súc phát triển theo hướng tập trung, mở rộng quy mô, áp dụng tiến bộ kỹ thuật chăn nuôi nâng cao chất lượng, đạt hiệu quả cao2. Sản lượng thịt hơi bình quân tăng 17 %/năm, sản phẩm chăn nuôi đã cơ bản đáp ứng đủ cho nhu cầu tiêu dùng của tỉnh và đã có một phần sản phẩm xuất bán ra ngoại tỉnh. Bước đầu khai thác những ưu thế về mặt nước, khí hậu để phát triển thủy sản đa dạng; đã hình thành một số vùng nuôi thủy sản tập trung tại Sa Pa, Bát Xát, Bảo Thắng, Bảo Yên, Văn Bàn3. Đặc biệt tỉnh đã phát triển được nghề nuôi cá nước lạnh trong bồn, bể với sản phẩm đặc trưng là cá hồi tại Sa Pa, mang lại hiệu quả kinh tế cao, dần trở thành thương hiệu được thị trường ưa chuộng.

Lâm nghiệp được quan tâm đầu tư; đã dần chuyển đổi từ trồng rừng gỗ nhỏ sang trồng rừng gỗ lớn và trồng rừng đa mục đích; phát huy chức năng rừng phòng hộ, rừng đặc dụng; từng bước hình thành vùng nguyên liệu tập trung theo hướng chuyên canh, phát triển rừng nguyên liệu gắn với quy hoạch các cơ sở chế biến. Các chỉ tiêu trồng mới rừng tập trung (sản xuất, phòng hộ, đặc dụng) đều đạt và vượt kế hoạch giao4. Các nhà máy chế biến đang được đầu tư với công nghệ tiên tiến, phù hợp góp phần nâng cao giá trị của sản phẩm lâm nghiệp. Tài nguyên rừng được bảo vệ, các nguồn gen quý hiếm và đặc hữu được bảo tồn và phát triển. Tỷ lệ che phủ rừng hàng năm tăng 0,71%/năm đạt 53,3%, vượt 0,3% so KH, tăng 2,3% so năm 2010.

Nông thôn có bước phát triển theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, chuyển giao ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất và đời sống. Hệ thống dịch vụ nông nghiệp được củng cố, tăng cường. Kết cấu hạ tầng nông thôn được cải thiện rõ rệt. Ngành nghề nông thôn được khuyến khích phát triển, giảm sản xuất thuần nông, tăng dần tỷ trọng tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ. Làng nghề truyền thống được khôi phục, số lượng làng nghề có tăng, quy mô nhiều làng nghề được mở rộng tạo được nhiều việc làm, làm gia tăng giá trị nông sản5

Chương trình mục tiêu quốc gia về Xây dựng nông thôn mới được các cấp, các ngành tích cực triển khai. Trong giai đoạn 2011-2015, tỉnh đã xây dựng 05 nhiệm vụ trọng tâm để phát động phong trào thi đua trong xây dựng nông thôn mới, đó là: (1) Phát triển sản xuất nâng cao thu nhập cho người dân; (2) Phát triển giao thông nông thôn; (3)Vệ sinh môi trường nông thôn; (4) An ninh trật tự xã hội nông thôn; (5) Phát triển hệ thống giáo dục mầm non cho trẻ dưới 5 tuổi. Đến hết năm 2015, có 21 xã đạt tiêu chí nông thôn mới, bằng 60% KH, bằng 14,5% tổng số xã trên địa bàn. Thành phố Lào Cai hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới. Bình quân số tiêu chí đạt chuẩn/xã: 9,63 tiêu chí, tăng 6,33 so với năm 20106. 100% số xã có đường ô tô đến trung tâm xã; 100% số thôn bản có đường giao thông liên thôn và đi được xe máy đến tất cả các thôn bản; hệ thống thuỷ lợi đã đảm bảo nước tưới cho 99% diện tích ruộng vụ Xuân và 95% diện tích ruộng vụ Mùa; 100% số xã có trường, lớp học kiên cố tại trung tâm, 70% thôn, bản có điểm trường kiên cố; 100% số xã có điện lưới quốc gia đến trung tâm xã với 93% hộ ở nông thôn được dùng điện; 100% số xã có trạm y tế xã; 87% số hộ nông thôn được dùng nước sinh hoạt hợp vệ sinh; cơ bản xoá nhà tạm cho hộ nghèo tại khu vực nông thôn, trên 8.500 lao động vùng nông thôn được đào tạo nghề; sắp xếp ổn định dân cư được đẩy mạnh, bố trí, di chuyển trên 1.700 hộ dân ra khỏi vùng sạt lở...



3. Sản xuất công nghiệp đạt tốc độ tăng trưởng cao, tạo “đột phá” trong phát triển kinh tế của tỉnh

Sản xuất công nghiệp phát huy có hiệu quả những tiềm năng, lợi thế về khai thác chế biến khoáng sản, đầu tư phát triển thuỷ điện, sản xuất vật liệu xây dựng, chế biến nông lâm sản; đã tạo được cơ sở quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, đưa Lào Cai từng bước trở thành trung tâm công nghiệp luyện kim và hóa chất, phân bón của vùng và cả nước. Nhiều dự án, nhà máy lớn chế biến sâu khoáng sản của địa phương: Apatit, sắt, đồng… đi vào hoạt động7. Tiềm năng về thủy điện được quan tâm đầu tư triển khai thực hiện, theo tiến độ đề ra8. Sản xuất công nghiệp và tiểu - thủ công nghiệp đang đà phát triển mạnh, giá trị sản xuất ngành công nghiệp (theo 1994) đạt 7.403 tỷ đồng, gấp 3,4 lần so năm 2010, bằng 145% so KH. Cơ cấu nội ngành công nghiệp cũng có bước chuyển dịch theo hướng tích cực, giảm tỷ trọng giá trị sản xuất công nghiệp khai thác, tăng nhanh tỷ trọng giá trị sản xuất công nghiệp chế biến9.

Hoạt động trong các khu, cụm công nghiệp trên địa bàn tỉnh có bước chuyển biến tích cực, tỷ lệ lấp đầy tại các khu công nghiệp đều trên 80%, thu hút 179 dự án đăng ký đầu tư với tổng vốn đầu tư trên 23.000 tỷ đồng, trong đó có 97 dự án đi vào hoạt động sản xuất, tạo việc làm cho trên 7.300 lao động, trong đó có trên 80% là lực lượng lao động trên địa bàn tỉnh.

Các chính sách khuyến khích phát triển tiểu thủ công nghiệp của tỉnh đã được triển khai hiệu quả. Trên địa bàn có trên 7,3 nghìn cơ sở sản xuất tiểu thủ công nghiệp với giá trị sản xuất đạt 520 tỷ đồng, tạo ra nhiều sản phẩm có thương hiệu đáp ứng nhu cầu tiêu dùng, mua sắm của khách du lịch và tạo việc làm cho gần 14,2 nghìn lao động.

4. Huy động vốn đầu tư phát triển đạt nhiều kết quả, kết cấu hạ tầng được quan tâm đầu tư

Công tác quy hoạch, kế hoạch trên địa bàn được quan tâm triển khai thực hiện10, là cơ sở quan trọng để huy động nguồn lực đầu tư, phát triển kết cấu hạ tầng, tập trung khai thác và bố trí nguồn lực để thực hiện.

Với việc xây dựng và hoàn thành phê duyệt các quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh và 9/9 huyện, thành phố, quy hoạch nguồn nhân lực, quy hoạch các ngành, lĩnh vực là cơ sở cho công tác lập kế hoạch 5 năm và hàng năm của từng đơn vị cũng như của tỉnh, nhằm đảm bảo phù hợp theo định hướng, mục tiêu phát triển chung đã đề ra. Trên cơ sở các kế hoạch hàng năm được phê duyệt, tỉnh tổ chức thực hiện và đã thu được nhiều kết quả trong việc phát triển kinh tế - xã hội, hầu hết các chỉ tiêu đều đạt so với Trung ương giao và kế hoạch tỉnh giao.

Tổng vốn đầu tư toàn xã hội ước đạt 79,3 nghìn tỷ đồng; gấp 3,17 lần giai đoạn trước, bình quân hằng năm tăng 18%. Cơ cấu vốn đầu tư chuyển biến theo hướng giảm dần tỷ trọng vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước, tăng nhanh nguồn vốn tín dụng và vốn của các thành phần kinh tế (đầu tư từ ngân sách nhà nước giảm từ 40,3% giai đoạn 2006 - 2010 xuống còn 29% giai đoạn 2011 - 2015; vốn ngoài ngân sách tăng từ 52% lên 70%). Các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh đã đóng góp tích cực cho đầu tư phát triển của tỉnh và chiếm 63,6% tổng vốn đầu tư. Trong 5 năm qua, đã chấp thuận đầu tư 326 dự án với tổng vốn đăng ký 50,9 nghìn tỷ đồng; gấp 1,7 lần về số dự án và 2,7 lần về vốn đăng ký so năm 201011; đã thu hút được 19 chương trình, dự án ODA với tổng số vốn 178,8 triệu USD (tương đương 3.616 tỷ đồng); 135 dự án NGO với tổng vốn tài trợ 255 tỷ đồng; 30 dự án FDI với tổng vốn đăng ký 505 triệu USD. Nhiều công trình đầu tư bằng nguồn vốn ODA đã hoàn thành, đưa vào sử dụng và đem lại hiệu quả thiết thực như Dự án Giảm nghèo (WB) giai đoạn 2, Dự án Ngành cơ sở hạ tầng nông thôn (vốn AFD, ADB), dự án WB đô thị…, nhờ vậy kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội được quan tâm đầu tư và liên tục cải thiện qua các năm, đặc biệt là kết cấu hạ tầng cho phát triển vùng cao, vùng nông thôn và phát triển vùng kinh tế trọng điểm của tỉnh, góp phần tích cực vào quá trình xoá đói giảm nghèo, thúc đẩy kinh tế phát triển, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Đã phối hợp chặt chẽ với bộ, ngành trung ương hoàn thành đường cao tốc Hà Nội - Lào Cai, cải tạo nâng cấp QL4E, thực hiện nâng cấp đường sắt Yên Viên - Lào Cai, nghiên cứu xây dựng Sân bay Lào Cai. Tiếp tục tập trung đầu tư xây dựng Trung tâm hành chính hiện đại của tỉnh, chỉnh trang khu đô thị cũ và hoàn thành việc di chuyển toàn bộ các cơ quan hành chính sự nghiệp của tỉnh về khu đô thị mới Lào Cai - Cam Đường, tháng 11 năm 2014 TP Lào Cai đã được công nhận là đô thị loại II. Hoàn thành cầu Phố Lu, cầu Giang Đông, Nhà Văn hóa Trung tâm, sân vận động trung tâm, Bảo Tàng, Trung tâm trưng bày ngoài trời. Tiếp tục đầu tư hoàn chỉnh hạ tầng thiết yếu tại Cửa khẩu quốc tế Lào Cai và các cửa khẩu phụ, Khu thương mại - công nghiệp Kim Thành, hạ tầng kỹ thuật và xử lý nước thải tại các cụm công nghiệp Đông Phố Mới, Tằng Loỏng, khu vực Kim Tân TP Lào Cai; hạ tầng kỹ thuật sau kè sông Hồng đoạn từ cầu Cốc Lếu đến cầu Phố Mới…; tăng cường đầu tư hạ tầng thiết yếu đô thị huyện Sa Pa, Văn Bàn, Mường Khương tạo nên hệ thống đô thị miền núi. Hoàn thành nâng cấp 296 km đường tỉnh lộ, 539 km đường đến trung tâm xã, 2.476 đường giao thông nông thôn…



5. Kinh tế cửa khẩu, du lịch tiếp tục được khẳng định là ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh. Thu ngân sách nhà nước trên địa bàn tăng cao

Thương mại phát triển mạnh đáp ứng tốt nhu cầu tiêu dùng của nhân dân trên địa bàn; đặc biệt đối với vùng sâu, vùng xa. Hệ thống chợ, cửa hàng thương nghiệp, vật tư nông nghiệp được quan tâm phát triển tới các trung tâm cụm xã, các khu vực vùng sâu, vùng xa... đã góp phần tích cực thúc đẩy sản xuất hàng hóa, đáp ứng các nhu cầu phân phối hàng hóa thiết yếu và tiêu thụ nông sản cho nông dân. Tổng mức luân chuyển hàng hoá bán lẻ và doanh thu dịch vụ năm 2015 đạt trên 14.892 tỷ đồng, tăng gấp 2,8 lần so năm 2010, bằng 117% so KH; tốc độ bình quân tăng 16,8%/năm.

Khu kinh tế cửa khẩu Lào Cai hoạt động sôi động, Khu thương mại - công nghiệp Kim Thành, khu cửa khẩu Quốc tế đường bộ số 2 đã đi vào vận hành, thủ tục hành chính tại cửa khẩu được giải quyết nhanh gọn, thông thoáng; hàng hoá xuất khẩu đã mở rộng đến thị trường nhiều nước trên thế giới… Đến hết năm 2015, trên địa bàn tỉnh đã thu hút trên 600 đơn vị doanh nghiệp trong tỉnh cũng như nhiều doanh nghiệp trên địa bàn toàn quốc tham gia sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu qua các cửa khẩu của tỉnh Lào Cai khi cơ sở hạ tầng và các điều kiện khác được thúc đẩy và quan tâm hơn. Giá trị hàng hóa XNK theo xu hướng tăng lên hàng năm, năm 2015 đạt 2.144 triệu USD; gấp 2,6 lần so với năm 2010 (822 triệu USD), bằng 120% so KH (1.780 triệu USD); tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn 2011 - 2015 đạt 22%, tăng 3% so với giai đoạn trước (18,5%)12. Hoạt động xuất, nhập khẩu đã đóng góp quan trọng vào tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn với tốc độ tăng thu bình quân 5 năm 2011 - 2015 đạt khoảng 30%.



Du lịch phát triển nhanh, toàn diện cả địa bàn, sản phẩm và chất lượng; nổi bật với các khu du lịch Sa Pa, Bắc Hà và thành phố Lào Cai. Công tác quảng bá, xúc tiến du lịch được triển khai với nhiều hình thức; quan tâm liên kết du lịch với các tỉnh trong khu vực. Hoạt động du lịch thu được nhiều kết quả, tạo thêm nhiều việc làm và tăng thu nhập cho lao động địa phương; các cơ sở phục vụ du lịch như nhà hàng, khách sạn cơ bản đáp ứng được yêu cầu của du khách. Cơ sở lưu trú tăng gần 2 lần so với năm 2010, phòng nghỉ tiêu chuẩn 3 - 5 sao chiếm 21%13. Lượng khách đến Lào Cai hằng năm tăng bình quân trên 20%; năm 2015, đón trên 2.091 nghìn lượt khách, gấp 2,2 lần năm 2010.

Thu ngân sách nhà nước trên địa bàn tăng trưởng cao, hết năm 2015 ước đạt trên 5.505 tỷ đồng, gấp 2,6 lần so với năm 2010, bằng 157,3% so KH. Các khoản thu từ thuế, phí và thu khác từ kinh tế địa phương tăng trưởng mạnh mẽ, tỷ trọng so với tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn ngày càng tăng lên biểu hiện sự phát triển của nền kinh tế và chất lượng của việc nuôi dưỡng và khai thác nguồn thu14. Thu từ hoạt động xuất nhập khẩu có những bước phát triển khá, phản ánh sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế cửa khẩu Lào Cai trong những năm vừa qua, đồng thời khẳng định vai trò quan trọng của cửa khẩu Lào Cai. Số thu từ hoạt động xuất nhập khẩu giai đoạn 2011-2015 đạt 7.275 tỷ đồng, gấp 2,2 lần giai đoạn 2006-2010. Cùng với sự tăng trưởng của thu ngân sách, công tác quản lý chi ngân sách cũng liên tục được đổi mới và tăng cường theo hướng đơn giản hoá quy trình, tăng hiệu quả, đẩy mạnh thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Chi ngân sách hàng năm đều tăng trưởng với tốc độ cao, chi ngân sách địa phương năm 2015 đạt 9.638 tỷ đồng, tăng gấp 2 lần so với năm 2010.

Hoạt động tín dụng bám sát mục tiêu, nhiệm vụ chính trị của tỉnh, đã huy động và đáp ứng nhu cầu về vốn cho các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, giai đoạn 2011 - 2015. Tổng nguồn vốn huy động bình quân hằng năm tăng trưởng 25,3%. Tổng dư nợ cho vay bình quân hằng năm tăng trưởng 29%. Chất lượng tín dụng được chú trọng, tỷ lệ nợ xấu luôn dưới 3%.

Dịch vụ vận tải hành khách và hàng hoá tiếp tục phát triển, chất lượng dịch vụ vận tải được nâng lên, cơ bản đáp ứng được nhu cầu giao lưu hàng hoá và đi lại của nhân dân. Từ tháng 9/2014 khối lượng hành khách vận chuyển sẽ chuyển dần sang vận tải đường bộ do tuyến đường bộ cao tốc Nội Bài - Lào Cai đưa vào khai thác. Các phương tiện tham gia hoạt động vận tải trên địa bàn ngày càng đa dạng và chất lượng hơn. Đã đưa vào khai thác hệ thống xe buýt trong nội thị thành phố Lào Cai và Lào Cai đi Sa Pa, tuyến xe khách Lào Cai - Hà Nội - các tỉnh miền Bắc, Trung, Nam; hệ thống bến xe được nâng cấp, chất lượng dịch vụ được nâng lên, khối lượng vận chuyển tăng bình quân 20%/năm15.

Bưu chính - viễn thông: Cơ sở hạ tầng bưu chính, viễn thông được đầu tư với công nghệ hiện đại, có độ bao phủ rộng khắp với tốc độ và chất lượng cao, đồng thời công tác quản lý Nhà nước được tăng cường, định hướng các doanh nghiệp viễn thông phát triển đa dạng hóa, nâng cao chất lượng phục vụ. Khuyến khích các doanh nghiệp sử dụng chung cơ sở hạ tầng, ngầm hóa, gọn hóa mạng ngoại vi. Đến hết năm 2015, mạng lưới Bưu chính toàn tỉnh có 203 điểm cung cấp dịch vụ, 906 trạm phát song di động, phủ song 100% tới các trung tâm xã. Mật độ thuê bao điện thoại đạt 78 thuê bao/100 dân; mật độ thuê bao Internet đạt 7,8 thuê bao/100 dân. Dịch vụ truyền hình qua giao thức Internet được các doanh nghiệp quan tâm đầu tư, tổng số thuê bao NetTV và MyTV là 15 nghìn.

6. Phát triển thị trường và các thành phần kinh tế

Thị trường hàng hóa ngày càng phong phú đa dạng, thị trường lao động, bất động sản, khoa học công nghệ và các thị trường dịch vụ khác (giáo dục, y tế, văn hóa, thể thao…) đã hình thành và từng bước phát triển; môi trường đầu tư kinh doanh được cải thiện, bình đẳng giữa các thành phần kinh tế tạo điều kiện thu hút đầu tư, huy động nguồn lực cho phát triển kinh tế. Thực hiện cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, xóa bỏ độc quyền kinh doanh.

Kinh tế tư nhân, kinh tế cá thể được khuyến khích phát triển. Kinh tế tập thể tại khu vực nông thôn bước đầu phát huy hiệu quả. Các doanh nghiệp nhà nước được sắp xếp, đổi mới, cơ cấu lại đúng ngành nghề kinh doanh, đảm bảo doanh thu, lợi nhuận, thu nhập16. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được tạo điều kiện phát triển. Đến năm 2015, có 3.060 doanh nghiệp được cấp chứng nhận đăng ký kinh doanh, tăng 80% so năm 2010 (1.700 doanh nghiệp)17; với tổng số vốn đăng ký khoảng 17.380 tỷ đồng, gấp hơn 1,6 lần so với năm 2010 (10.500 tỷ đồng).

7. Giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực; ứng dụng khoa học – công nghệ

Sự nghiệp giáo dục và đào tạo có nhiều chuyển biến tích cực. Quy mô, mạng lưới giáo dục đào tạo phát triển18. Phổ cập giáo dục tiểu học và trung học cơ sở tiếp tục được củng cố, duy trì và nâng cao chất lượng; đạt chuẩn phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi vào năm 2013, trước 02 năm so mục tiêu Đại hội. Đội ngũ giáo viên được tăng cường và ngày càng chuẩn hóa. Cơ sở vật chất trường, lớp học, nhà công vụ cho giáo viên và nhà ở bán trú cho học sinh được quan tâm đầu tư. Chính sách ưu tiên đầu tư cho giáo dục vùng cao, vùng đồng bào dân tộc được mở rộng và thực hiện có hiệu quả. Trường học đạt chuẩn tăng nhanh, chiếm 44% tổng số trường, tăng 21,9% so năm 201019. Hệ thống trường phổ thông dân tộc nội trú, bán trú tiếp tục phát triển, trở thành nòng cốt của giáo dục vùng cao. Giáo dục thường xuyên được mở rộng quy mô, đa dạng hoá loại hình đào tạo đáp ứng nhu cầu người học20. Công tác hướng nghiệp, phân luồng học sinh tốt nghiệp trung học cơ sở, trung học phổ thông21, xã hội hóa giáo dục triển khai mạnh, đạt nhiều kết quả tốt. Phân hiệu trường Đại học Thái Nguyên tại Lào Cai được thành lập, chuẩn bị cho thành lập Trường Đại học Lào Cai.

Đào tạo nguồn nhân lực được quan tâm. Các cơ sở dạy nghề được mở rộng quy mô và nâng cao chất lượng theo hướng xã hội hóa22. Đào tạo nghề cho đối tượng tái định cư, người nghèo, người dân tộc thiểu số và các ngành nghề phi nông nghiệp, cho các khu công nghiệp, dịch vụ du lịch, đô thị... được quan tâm. Tỷ lệ lao động qua đào tạo tăng từ 38,8% năm 2010 lên 55% năm 2015; trong đó đào tạo nghề tăng từ 27,8% lên 43,1%; cơ cấu lao động chuyển dịch đúng hướng23.

Hoạt động khoa học và công nghệ đã gắn nghiên cứu với ứng dụng. Trên 80% đề tài khoa học được áp dụng vào thực tế, trong đó đã nghiên cứu, lựa chọn thành công nhiều giống cây trồng, vật nuôi mới có năng suất, chất lượng cao24. Đăng ký bảo hộ sở hữu trí tuệ, nhãn hiệu sản phẩm hàng hóa tăng gấp 2 lần so giai đoạn trước. Đẩy mạnh hợp tác về khoa học và công nghệ với các trường đại học và các viện nghiên cứu; quan tâm ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, chế biến khoáng sản, nông, lâm sản.

Công nghệ thông tin phát triển mạnh mẽ. Hạ tầng thông tin cấp tỉnh được đầu tư tương đối đồng bộ, hiện đại và mở rộng đến cấp xã, trường học. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin25; chỉ số ứng dụng công nghệ thông tin của tỉnh luôn xếp ở thứ hạng cao so với các tỉnh trong cả nước26.

8. Phát triển lĩnh vực xã hội

Công tác giảm nghèo được xác định là nhiệm vụ chính trị trọng yếu, được ưu tiên đầu tư, thực hiện đồng bộ. Quan tâm thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế cho Nhân dân. Đề án Giảm nghèo nhanh, bền vững được thực hiện hiệu quả. Tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 42,99% năm 2010 xuống còn 12,11% (theo chuẩn nghèo giai đoạn 2011-2015), bình quân giảm 6,18%/năm, vượt mục tiêu KH (3-5%).

Công tác giải quyết việc làm cho người lao động được quan tâm. Hệ thống Trung tâm giới thiệu việc làm từng bước được hình thành, đáp ứng nhu cầu của người lao động và sử dụng lao động. Trong 5 năm 2011 – 2015, giải quyết việc làm mới cho khoảng 55.776 người, tăng 17,4% so với giai đoạn trước, bằng 111,6% KH. Cơ cấu lao động chuyển dịch theo đúng hướng, giảm dần tỷ trọng lao động trong lĩnh vực nông nghiệp từ 72,22% năm 2010 xuống còn 69,02% năm 2015; tăng dần tỷ trọng công nghiệp từ 8,73% năm 2010 lên 10,63% năm 2015; Dịch vụ từ 19,05% năm 2010 lên 20,35% năm 2015.

Chăm sóc sức khỏe nhân dân được chú trọng, hệ thống y tế được quan tâm đầu tư phát triển theo hướng hiện đại, đồng bộ. Cơ sở vật chất, trang thiết bị, nhân lực đáp ứng nhiệm vụ phòng, chữa bệnh ngay từ cơ sở: Bệnh viện đa khoa tỉnh được đầu tư xây dựng mới đồng bộ và đi vào hoạt động từ năm 2013; thành lập mới Bệnh viện Sản Nhi, Bệnh viện Nội tiết; nâng quy mô Bệnh viện Y học cổ truyền; xây dựng mới Bệnh viện Phục hồi chức năng. Các bệnh viện tuyến huyện, phòng khám đa khoa khu vực đều được mở rộng, cải tạo nâng cấp, xây dựng mới; trang thiết bị đồng bộ đáp ứng ngày càng cao nhu cầu khám chữa bệnh của nhân dân. Trạm y tế xã, phường, thị trấn được chú trọng đầu tư, 100% xã phường thị trấn có trạm y tế hoạt động; 87 xã đạt bộ tiêu chí quốc gia về y tế. Phát triển cơ sở khám, chữa bệnh ngoài công lập, cơ sở kinh doanh thuốc – vật tư y tế: Có 1 bệnh viện tư nhân đi vào hoạt động, 24 cơ sở khám chữa bệnh tư nhân đa khoa và chuyên khoa được cấp phép hoạt động theo Luật Khám chữa bệnh27. Các đơn vị kinh doanh thuốc, vật tư y tế gồm 09 công ty cổ phần, TNHH, với 119 cơ sở bán lẻ, 28 nhà thuốc tư nhân, 01 nhà thuốc bệnh viện và 102 đại lý bán thuốc. Đến nay 94,5% người dân có thẻ bảo hiểm y tế. Đào tạo và phát triển nhân lực y tế được đặc biệt quan tâm, đến năm 2015 đạt 9,3 bác sỹ và 1,2 dược sỹ đại học/vạn dân và có 40 bác sỹ xã; 100% thôn bản có số nhân viên y tế thôn bản hoạt động. Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng thể cân nặng/tuổi giảm còn 19,9%, đạt KH; giảm tỷ lệ tăng dân số tự nhiên xuống còn 1,3%, vượt mục tiêu KH (1,4%).

Công tác chăm sóc người có công được chú trọng và ngày càng được tăng cường theo hướng xã hội hoá; phát động và thực hiện tốt phong trào “đền ơn đáp nghĩa, uống nước nhớ nguồn”, công tác cứu trợ đã được các ngành, các cấp quan tâm. Công tác phòng chống tệ nạn xã hội được đẩy mạnh, phong trào xây dựng xã phường lành mạnh không có tệ nạn xã hội ngày càng được nhân rộng. Công tác xã hội được duy trì thường xuyên, chăm sóc và giải quyết tốt chế độ, chính sách cho các đối tượng được hưởng.

9. Lĩnh vực văn hóa - thông tin, thể dục thể thao

Di sản văn hóa các dân tộc được bảo tồn và phát huy, gắn bảo tồn văn hóa với phát triển du lịch, giảm nghèo bền vững. Các hoạt động văn hóa ở cơ sở được đẩy mạnh, chất lượng ngày càng được nâng cao. Hệ thống thiết chế văn hóa từ cấp tỉnh đến huyện, xã, phường, thị trấn, thôn bản, khu phố từng bước được xây dựng và củng cố. Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” được tập trung chỉ đạo thực hiện có kết quả, góp phần tạo ra môi trường văn hoá lành mạnh cho nhân dân. Đến hết năm 2015 toàn tỉnh có 78% hộ gia đình; tăng 6,3% so với năm 2010 (71,7%); 95% tỷ lệ cơ quan, trường học đơn vị đạt danh hiệu văn hoá, tăng 5% so với năm 2010 (90%).



Sự nghiệp thể dục thể thao đã có sự phát triển khá rõ rệt về nhiều mặt. Phong trào thể dục thể thao quần chúng thường xuyên diễn ra sôi động ở khắp các huyện, thị và cơ sở. Thể thao thành tích cao đạt được một số kết quả đáng ghi nhận, mỗi năm tham dự 20 - 25 giải khu vực và toàn quốc, nhiều giải đã đạt thành tích tốt. Tỷ lệ số người dân thường xuyên tham gia luyện tập thể dục thể thao được triển khai rộng khắp, năm 2015 dự kiến đạt 25%, tăng 4% so với năm 2010 (21%).

10. Tăng cường quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường, phòng chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu

Tài nguyên đất đai được quản lý chặt chẽ, khai thác sử dụng đúng mục đích. Với cơ chế, chính sách phù hợp, công khai, dân chủ, công bằng đã cơ bản giải quyết được những tồn tại trong những năm trước đây và những vấn đề mới nảy sinh. Hình thức giao đất được chuyển đổi dần từ xét cấp sang đấu giá, từ thuê sang giao đất có thu tiền. Tình trạng vi phạm pháp luật, tranh chấp, khiếu nại về đất đai được xử lý và giải quyết tốt. Người sử dụng đất hiểu rõ quyền lợi, nghĩa vụ của mình nên đã thực hiện tốt nghĩa vụ tài chính, nguồn thu từ đất tăng mạnh qua các năm, góp phần quan trọng trong việc xây dựng hạ tầng cơ sở và phát triển đô thị của tỉnh.

Tài nguyên khoáng sản, tài nguyên nước được kiểm kê, đánh giá đưa vào dữ liệu quản lý, cấp phép khai thác, sản xuất đúng quy định, phù hợp với quy hoạch và yêu cầu về bảo vệ môi trường. Công tác bảo vệ môi trường đã có bước chuyển biến rõ rệt: Nhận thức về bảo vệ môi trường trong các cấp, các ngành và đại bộ phận cán bộ, nhân dân được nâng lên một bước; công tác bảo vệ môi trường ở một số đơn vị, doanh nghiệp được chú trọng; công tác bảo vệ, đa dạng sinh học được quan tâm đúng mức, do đó bước đầu đã giảm thiểu được ô nhiễm môi trường, mức độ suy thoái và sự cố môi trường từng bước được hạn chế28. Nhìn chung khai thác tài nguyên và bảo vệ môi trường được tăng cường. Tỷ lệ che phủ rừng đến năm 2015 ước đạt 53,3%, tăng 3,3% so với thực hiện năm 2010, đạt mục tiêu kế hoạch. Thu gom chất thải rắn ở đô thị đạt 95% và tỷ lệ xử lý chất thải rắn y tế đạt tiêu chuẩn đạt 91%, tăng 20% so với năm 2010.

Ứng phó với biến đổi khí hậu được triển khai lồng ghép vào các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Các công trình kè được tích cực triển khai xây dựng, phát huy hiệu quả chống sạt lở bảo vệ sông, suối, biên giới, cơ sở hạ tầng, khu dân cư. Chính quyền các cấp đã chủ động hơn trong phòng tránh thiên tai, cứu hộ, cứu nạn, giảm thiểu những thiệt hại do biến đổi khí hậu gây ra.



11. Quốc phòng được củng cố và giữ vững, an ninh chính trị ổn định, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo, công tác đối ngoại phát triển vượt bậc

Công tác quốc phòng, an ninh được tăng cường luôn chủ động trong mọi tình huống. Kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế - xã hội với củng cố quốc phòng, an ninh. Thế trận quốc phòng toàn dân kết hợp với thế trận an ninh nhân dân được củng cố ngày càng vững mạnh. Xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh, huyện, thành phố vững chắc; tổ chức luyện tập, diễn tập khu vực phòng thủ sát thực tế, đạt kết quả cao. Khu kinh tế quốc phòng hoạt động hiệu quả; các công trình quốc phòng được chú trọng đầu tư. Thực hiện sắp xếp, ổn định dân cư biên giới hiệu quả, góp phần giữ vững đường biên, mốc giới và bảo vệ chủ quyền lãnh thổ quốc gia. Lực lượng vũ trang duy trì nghiêm kỷ luật, nâng cao chất lượng huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu.

Công tác bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự an toàn xã hội đã huy động sức mạnh của cả hệ thống chính trị và toàn thể Nhân dân. Phát huy vai trò nòng cốt của lực lượng công an trong việc bảo đảm an ninh trật tự trên địa bàn; kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch. Phát hiện và xử lý kịp thời các vi phạm pháp luật, bảo đảm an ninh trên tuyến biên giới; xây dựng và triển khai các phương án bảo vệ tuyệt đối an toàn các mục tiêu, công trình trọng điểm, các sự kiện chính trị trên địa bàn tỉnh. Kiềm chế, xử lý kịp thời các đối tượng tuyên truyền thành lập “Nhà nước Mông”, hoạt động lợi dụng tôn giáo trái pháp luật, lợi dụng khiếu kiện vi phạm pháp luật. Xử lý kịp thời các vụ việc phức tạp ngay từ cơ sở, không để bị động, bất ngờ, không để hình thành các “điểm nóng”. Làm tốt công tác bảo vệ an ninh chính trị nội bộ; tăng cường các biện pháp đảm bảo an ninh kinh tế, an ninh văn hóa tư tưởng, an ninh thông tin, bảo vệ bí mật nhà nước.

Chủ động phòng ngừa và đấu tranh có hiệu quả, kiềm chế sự gia tăng của tội phạm, tai nạn, tệ nạn xã hội; tỷ lệ điều tra, phá án cao đạt trên 80%, trong đó án rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng đạt 99,3%; nâng cao hiệu quả công tác điều tra, xử lý tội phạm, không để oan, sai và vi phạm pháp luật trong hoạt động tư pháp.

Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về an ninh, trật tự; tăng cường công tác quản lý về: xuất, nhập cảnh, người nước ngoài, cư trú, vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ và quản lý ngành nghề kinh doanh có điều kiện về an ninh trật tự. Triển khai đồng bộ các biện pháp đảm bảo trật tự an toàn giao thông, phòng chống cháy nổ, cứu hộ, cứu nạn. Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật được tăng cường, nhận thức và ý thức chấp hành pháp luật của Nhân dân được nâng lên. Phong trào “Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc” được chú trọng, phát huy hiệu quả thiết thực góp phần đảm bảo an ninh trật tự trên địa bàn.

Hoạt động đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước và ngoại giao Nhân dân được kết hợp hài hòa, tạo môi trường thuận lợi phát triển kinh tế, xã hội. Phương châm “đa phương hóa, đa dạng hóa” các quan hệ, hợp tác quốc tế trở thành định hướng đối ngoại lớn của tỉnh. Quan hệ hữu nghị, hợp tác giữa Lào Cai với tỉnh Vân Nam (Trung Quốc) phát triển toàn diện, cùng có lợi. Hợp tác với vùng Aquitaine (Cộng hòa Pháp) đã đi vào chiều sâu. Quan hệ với các địa phương nước ngoài, các vùng lãnh thổ, tổ chức quốc tế ngày càng sâu rộng và luôn là đối tác tin cậy của các nhà đầu tư và các nhà tài trợ quốc tế.



12. Đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cơ sở được quan tâm đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ. Cải cách hành chính được đẩy mạnh và thu được nhiều kết quả quan trọng

Trình độ của đội ngũ cán bộ cơ sở, cán bộ là người dân tộc thiểu số được nâng lên một bước và được bố trí sắp xếp theo hướng chuẩn hóa, tương ứng với yêu cầu và nhiệm vụ lâu dài. Chính sách tăng cường, thu hút, bố trí cán bộ về cơ sở đã phát huy hiệu quả thiết thực, góp phần thay đổi lề lối, tác phong làm việc, tạo được niềm tin cho nhân dân, làm thay đổi nhận thức cục bộ ở địa phương. Đến hết 2015 đào tạo, bồi dưỡng về lý luận chính trị cho 49.285 lượt người, bằng 1,5 lần so với năm 2010 (32.049 lượt người); kiến thức quản lý nhà nước và kiến thức chuyên ngành cho 41.115 lượt người, bằng 2 lần so với năm 2010 (20.898 lượt người). Đào tạo nghề cho 65.069 lượt người, bằng 4,6 lần so với năm 2010 (14.079 người) vượt 1,6% KH của giai đoạn;… Qua đó, đội ngũ cán bộ được bổ sung về số lượng, nâng cao về chất lượng.

Cải cách hành chính được quan tâm chỉ đạo hướng mạnh về cơ sở. Các thủ tục hành chính được đơn giản hoá việc giải quyết công việc theo cơ chế “một cửa” bước đầu được phát huy. Cơ chế chính sách trên các lĩnh vực được ban hành kịp thời, tạo môi trường thuận lợi, thông thoáng cho phát triển kinh tế - xã hội. Tổ chức bộ máy được sắp xếp tinh gọn, chức năng nhiệm vụ rõ ràng. Việc phân cấp cho cơ sở được tăng cường, góp phần tích cực tạo ra sự năng động, chủ động ở cơ sở. Cơ chế quản lý tài chính trong các cơ quan quản lý nhà nước, các đơn vị sự nghiệp từng bước được đổi mới và đem lại hiệu quả…

Đánh giá chung:

Trong 5 năm qua (2011-2015), mặc dù còn nhiều khó khăn, song với những chủ trương, quan điểm, định hướng đúng đắn, sát thực tế cùng với sự năng động, sáng tạo trong công tác chỉ đạo điều hành, sự quyết tâm phấn đấu nỗ lực của các cấp, các ngành và nhân dân trên địa bàn nên nền kinh tế - xã hội của tỉnh đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng:

(1) Tốc độ tăng trưởng kinh tế tỉnh (GDP) duy trì ở mức cao, trung bình đạt 14,1%/năm. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch nhanh hơn và theo hướng tích cực; trong từng ngành kinh tế, đã có chuyển dịch cơ cấu sản xuất, sản xuất gắn kết với thị trường, nâng cao chất lượng, hiệu quả.

(2) Nông nghiệp nông thôn tập trung vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế, bảo vệ môi trường, giữ gìn an ninh trật tự. Công nghiệp tạo ra sức đột phá lớn, là một trong những trung tâm công nghiệp, hóa chất lớn của cả nước, đã tạo ra sự lan tỏa trong các ngành, lĩnh vực của khu vực. Đô thị và kết cấu hạ tầng có bước phát triển vượt bậc. Thu ngân sách nhà nước trên địa bàn tăng nhanh và ổn định qua các năm. Hoạt động xuất nhập khẩu và du lịch phát triển nhanh, bền vững.

(3) Bản sắc văn hóa các dân tộc được giữ gìn, bảo tồn và phát huy làm nên nét đặc trưng của cộng đồng các dân tộc Lào Cai, đồng thời là những tiềm năng, thế mạnh cho kinh tế, du lịch của tỉnh phát triển. Chất lượng giáo dục, y tế, công tác chăm sóc sức khỏe cho nhân dân được nâng cao. Đời sống nhân dân tiếp tục được cải thiện. Khoa học và công nghệ ứng dụng mạnh vào sản xuất và đời sống. Bảo vệ môi trường và giải quyết các vấn đề xã hội có chuyển biến tích cực, giảm nghèo nhanh.

(4) Quốc phòng được củng cố, an ninh được tăng cường, trật tự an toàn xã hội được bảo đảm. Hoạt động đối ngoại tiếp tục mở rộng, phát triển, đi vào chiều sâu. Xây dựng biên giới hòa bình, hữu nghị; hợp tác toàn diện với tỉnh Vân Nam, Trung Quốc sâu sắc và bền vững hơn.

So với Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm (2011-2015), trong tổng số 33 chỉ tiêu tổng hợp về kinh tế - xã hội, có 28/33 chỉ tiêu đạt và vượt kế hoạch; 05/33 chỉ tiêu không đạt kế hoạch:(1) Số xã đạt chuẩn nông thôn mới; (2) Số xã đạt chuẩn quốc gia về y tế; (3) Tỷ lệ trẻ em dưới 1 tuổi tiêm chủng đầy đủ; (4) Tỷ lệ hộ dân được sử dụng nước sạch và hợp vệ sinh; (5) Tỷ lệ khu CN có hệ thống xử lý nước thải, chất thải tập trung.

II. TỒN TẠI, HẠN CHẾ VÀ NGUYÊN NHÂN

1. Tồn tại, hạn chế

1.1. Về phát triển kinh tế

- Tốc độ tăng trưởng hàng năm cao, đạt kế hoạch nhưng chất lượng tăng trưởng còn thấp, các lĩnh vực chưa thực sự bền vững; thu nhập bình quân đầu người cao hơn bình quân vùng Trung du Miền núi phía Bắc, nhưng mới chỉ bằng khoảng 83% của cả nước.

- Việc thực hiện tái cơ cấu nền kinh tế còn nhiều khó khăn và chưa đáp ứng được yêu cầu. Trong lĩnh vực đầu tư công, tình trạng nợ đọng xây dựng cơ bản từ những năm trước chưa được giải quyết dứt điểm, huy động vốn đầu tư chưa đáp ứng được nhu cầu đầu tư phát triển. Tổ chức sản xuất kinh doanh của nhiều ngành, sản phẩm chưa gắn với mạng sản xuất và chuỗi giá trị trong nước và ngoài nước. Công nghệ chậm đổi mới, năng suất và sức cạnh tranh của sản phẩm chưa được cải thiện nhiều.

- Chất lượng công tác quy hoạch còn hạn chế, tầm nhìn chưa đủ; nên chưa thực sự là căn cứ cho định hướng phát triển. Môi trường đầu tư kinh doanh đã có nhiều cải thiện, song ở một số lĩnh vực vẫn còn thiếu đồng bộ và tính ổn định.Về giáo dục đào tạo chưa thực sự gắn với nhu cầu, đặc biệt là đào tạo nghề, đào tạo chất lượng cao. Kết cấu hạ tầng chưa đồng bộ, đặc biệt cơ sở vật chất kỹ thuật về kinh tế, xã hội ở vùng sâu, vùng xa còn thiếu thốn (phòng học, trạm xá, giao thông nông thôn, nước ăn, thuỷ lợi còn rất nhiều khó khăn). Nhiều tuyến đường giao thông quốc lộ, tỉnh lộ trên địa bàn tỉnh đã xuống cấp nhưng chậm được khắc phục, ảnh hưởng lớn đến vận chuyển hàng hóa và hành khách… Hệ thống thiết chế văn hóa, thể thao, du lịch còn thiếu và yếu; các thiết chế thể thao cấp tỉnh (rạp chiếu phim, nhà văn hóa, bảo tàng, sân vận động) chưa hoàn thiện.

- Chuyển đổi cơ cấu nội ngành nông nghiệp còn chậm; trình độ canh tác của nông dân chưa cao; phát triển các loại cây trồng, sử dụng giống, thuốc bảo vệ thực vật chưa được kiểm soát triệt để, sản phẩm nông nghiệp phụ thuộc nhiều vào thị trường, giá cả không ổn định; chưa có nhiều dự án chế biến nông sản và dự án nông nghiệp chất lượng cao đầu tư vào sản xuất; một số chính sách ưu đãi nông lâm nghiệp, nông thôn triển khai chậm, chưa hiệu quả; chưa thu hút được các doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn.

- Giá trị gia tăng của các sản phẩm công nghiệp chưa cao; chưa kích thích phát triển công nghiệp phụ trợ và các dịch vụ đi kèm... Hạ tầng kỹ thuật các khu công nghiệp chưa được đầu tư đồng bộ, ô nhiễm môi trường tại khu công nghiệp Tằng Loỏng, việc đầu tư hạ tầng cho các cụm công nghiệp ở các huyện còn hạn chế. Cơ sở tiểu thủ công nghiệp phân tán, sản xuất mang tính tự phát, chưa phát huy được tiềm năng, thế mạnh của từng địa phương.

- Lượng khách du lịch đến Lào Cai dự báo sẽ đông, tuy nhiên sẽ có nhiều khó khăn thách thức: Bến đỗ đậu xe tại các điểm, khu du lịch chưa đáp ứng được yêu cầu, cơ sở lưu trú chất lượng cao còn chưa nhiều, còn xuất hiện tình trạng chèo kéo khách, tắc nghẽn giao thông cục bộ tại các điểm giao cắt đô thị, trên các tuyến đường đi tới các điểm du lịch, vận tải hành khách, dịch vụ lưu trú, ăn uống chưa đáp ứng được nhu cầu trong những ngày cuối tuần, các dịp nghỉ lễ...

1.2. Về Văn hóa - xã hội:

- Chất lượng giáo dục toàn diện có chuyển biến, nhưng chưa đáp ứng yêu cầu; đặc biệt ở vùng cao, vùng đồng bào dân tộc thiểu số; sự chênh lệch về chất lượng giáo dục giữa các vùng nhất là vùng sâu, vùng xa và vùng thành thị có giảm, nhưng mức độ còn chậm. Thiếu các trang thiết bị như phòng thực hành tin học, ngoại ngữ, máy chiếu.. nên việc triển khai ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý ứng dụng và đổi mới phương pháp dạy học còn hạn chế. Cơ cấu lao động giữa các ngành chưa hợp lý, thiếu công nhân lành nghề, chuyên gia giỏi. Hoạt động khoa học công nghệ chưa thực sự trở thành động lực phát triển kinh tế - xã hội, tính thực tiễn chưa cao.

- Thiếu nguồn bác sỹ, dược sỹ đại học. Cơ sở vật chất y tế xã còn khó khăn, chất lượng khám chữa bệnh và tỷ lệ bác sỹ ở tuyến xã còn thấp. Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng còn cao.

- Sự nghiệp phát triển và xây dựng phong trào thể dục, thể thao ở cơ sở chưa đều. Thiết chế văn hoá cơ sở nghèo nàn, các thế mạnh thể thao dân tộc chưa được khai thác nhiều. Nếp sống văn minh đô thị đổi mới chậm. Nhiều phong tục tập quán lạc hậu chưa được cải thiện đáng kể.

- Đời sống của một bộ phận dân cư ở khu vực nông thôn, vùng sâu vùng đồng bào dân tộc còn khó khăn, chênh lệch mức sống giữa người dân thành thị và nông thôn mặc dù có giảm dần, song vẫn còn khoảng cách đáng kể. Xoá đói, giảm nghèo chưa bền vững, tỷ lệ cận nghèo cao, tiềm ẩn tái nghèo lớn.

1.3. Về bảo vệ môi trường

Việc lồng ghép bảo vệ môi trường, phát triển bền vững với các chương trình, đề án, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội đã được triển khai thực hiện nhưng chỉ ở bước đầu thực hiện và hiệu quả chưa cao. Quản lý sử dụng đất đai chưa chặt chẽ; công tác đền bù giải phóng mặt bằng còn phát sinh khiếu kiện. Hiệu quả khai thác, chế biến khoáng sản chưa cao. Đầu tư cơ sở hạ tầng xử lý chất thải đô thị, khu công nghiệp chưa đáp ứng yêu cầu. Ô nhiễm trong hoạt động công nghiệp, khai thác chế biến khoáng sản chưa được giải quyết triệt để. Khả năng dự báo biến đổi khí hậu còn kém, hậu quả thiên tai nặng nề; việc ứng phó với biến đổi khí hậu, bảo vệ đa dạng sinh học triển khai chưa đồng bộ. Nguồn nước mặt các sông, suối trên địa bàn suy giảm nghiêm trọng cả chất lượng và lưu lượng.



1.4. Về an ninh quốc phòng

Một số địa phương, phát triển kinh tế, xã hội gắn với quốc phòng, an ninh chưa đạt hiệu quả cao; tiềm ẩn nhiều yếu tố phức tạp về an ninh biên giới, an ninh chính trị, an ninh xã hội và an ninh trong vùng dân tộc, tôn giáo. Hoạt động xuất, nhập cảnh trái phép, tuyên truyền đạo trái pháp luật, khiếu kiện, tội phạm, vi phạm pháp luật, tai nạn, tệ nạn xã hội còn xảy ra. Công tác nắm tình hình và xử lý, giải quyết một số vấn đề phức tạp về an ninh, trật tự tại cơ sở còn lúng túng. Ý thức chấp hành pháp luật trong một bộ phận Nhân dân chưa cao. Chất lượng Phong trào “Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc” chưa toàn diện.



1.5. Về cải cách hành chính

Công tác quản lý nhà nước còn bất cập so với yêu cầu phát triển: Quản lý nhà nước về quy hoạch, đất đai, tài nguyên, môi trường, đô thị... quản lý hoạt động sản xuất, vận chuyển, tiêu thụ quặng đồng, vàng và các loại khoáng sản khác còn nhiều bất cập. Cải cách hành chính tuy có những chuyển biến căn bản, song chưa đáp ứng được yêu cầu. Công tác phòng chống tham nhũng; thực hành tiết kiệm, chống lãng phí hiệu quả chưa thực sự chuyển biến mạnh.



2. Nguyên nhân

2.1. Nguyên nhân khách quan:

- Những tác động lớn khó lường từ bên ngoài, đặc biệt là những biến động và tác động của cuộc khủng hoảng tài chính và suy giảm kinh tế toàn cầu có phần ảnh hưởng trực tiếp tới kinh tế - xã hội tỉnh: Do chịu ảnh hưởng của lạm phát, khủng hoảng tài chính và suy giảm kinh tế thế giới, tốc độ tăng trưởng chung (GDP) và một số lĩnh vực (công nghiệp, nông nghiệp, thuỷ sản…) bị chững lại và có xu hướng giảm. Thiên tai liên tiếp xảy ra trên địa bàn, gây thiệt hại về người, tài sản, cây trồng, vật nuôi.

- Nền kinh tế chung của cả nước rơi vào tình trạng tăng trưởng chậm, làm thu hẹp thị trường cũng như làm chậm nhịp đầu tư các công trình kết cấu hạ tầng liên quan đến tỉnh, làm thay đổi các cơ hội đầu tư phát triển trên địa bàn. Mặc dù kinh tế xã hội của tỉnh phát triển khá trong những năm gần đây nhưng do xuất phát điểm thấp, quy mô, tiềm lực kinh tế còn nhỏ bé nên khả năng ứng phó với những ảnh hưởng, tác động từ bên ngoài vẫn còn hạn chế.

2.2. Nguyên nhân chủ quan:

- Năng lực lãnh đạo, chỉ đạo điều hành của cấp cơ sở có nơi chưa theo kịp yêu cầu phát triển. Quản lý nhà nước đối với một số lĩnh vực: đất đai, tài nguyên khoáng sản, du lịch dịch vụ, quy hoạch, hạ tầng đô thị... chưa được thực hiện tốt. Quản lý lĩnh vực xã hội còn thiếu đồng bộ, thiếu sự liên kết giữa các chính sách.

- Một số cơ chế, chính sách của Nhà nước còn vướng mắc do sự bất cập, không đồng bộ, trong quá trình triển khai thực hiện cón gặp nhiều khó khăn. Việc nghiên cứu, đề xuất với Trung ương những cơ chế, chính sách mang tính đột phá cho sự phát triển của Lào Cai trong thời gian đầu thực hiện kế hoạch còn chưa nhiều: Chính sách thu hút đầu tư, hỗ trợ đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn chưa đủ mạnh. Chính sách quản lý thương mại, biên mậu thường bị động; hoạt động xúc tiến thương mại hiệu quả chưa cao…

- Ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất còn chậm. Việc nhân rộng mô hình sản xuất, đổi mới hình thức tổ chức sản xuất chưa tích cực. Thiếu nguồn lực đầu tư kết cấu hạ tầng.

- Việc cụ thể hoá và chỉ đạo tổ chức triển khai thực hiện các chủ trương chính sách lớn của Đảng, Chính phủ: Trong việc phối hợp với các Bộ, ngành Trung ương và các địa phương liên quan để cụ thể hoá và chỉ đạo tổ chức triển khai thực hiện các chủ trương chính sách lớn của Đảng, Chính phủ trên địa bàn Lào Cai đã đạt được nhiều kết quả, tuy nhiên chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu của sự phát triển.


Каталог: Uploads
Uploads -> -
Uploads -> 1. Most doctors and nurses have to work on a once or twice a week at the hospital
Uploads -> Kính gửi Qu‎ý doanh nghiệp
Uploads -> VIỆn chăn nuôi trịnh hồng sơn khả NĂng sản xuất và giá trị giống của dòng lợN ĐỰc vcn03 luậN Án tiến sĩ NÔng nghiệp hà NỘI 2014
Uploads -> Như mọi quốc gia trên thế giới, bhxh việt Nam trong những năm qua được xem là một trong những chính sách rất lớn của Nhà nước, luôn được sự quan tâm và chỉ đạo kịp thời của Đảng và Nhà nước
Uploads -> Tác giả phạm hồng thái bài giảng ngôn ngữ LẬp trình c/C++
Uploads -> BỘ TÀi nguyên và MÔi trưỜng
Uploads -> TRƯỜng đẠi học ngân hàng tp. Hcm markerting cơ BẢn lớP: mk001-1-111-T01
Uploads -> TIÊu chuẩn quốc gia tcvn 8108 : 2009 iso 11285 : 2004
Uploads -> ĐỀ thi học sinh giỏi tỉnh hải dưƠng môn Toán lớp 9 (2003 2004) (Thời gian : 150 phút) Bài 1

tải về 386.17 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
  1   2   3   4




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương