ĐƯỜng lối của chúA



tải về 276.83 Kb.
trang1/2
Chuyển đổi dữ liệu01.05.2018
Kích276.83 Kb.
#37662
  1   2
ĐƯỜNG LỐI CỦA CHÚA
HƯƠNG VĨNH

Thật vậy, tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi, và đường lối các ngươi không phải là đường lối của Ta – sấm ngôn của ĐỨC CHÚA.



Trời cao hơn đất chừng nào thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi, và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng của các ngươi chừng ấy.

(Is 55, 8-9)



Hè về! Hè về!
Vào những thập niên 50 – 70, bài hát “Hè Về” của Hùng Lân trở nên quen thuộc mỗi độ Xuân tàn và Hè sang. Những câu hát dễ thương dưới đây thường vang vọng trên cửa miệng của đám học sinh non dại thời bấy giờ:
Trời hồng hồng sáng trong trong

Ngàn phượng rung nắng ngoài song

Cành mềm mềm gió ru êm

Lọc mầu mây bích

Ngọc qua mầu duyên

Đàn nhịp nhàng hát vang vang

Nhạc hoà thơ đón hè sang.


Hè về trong khóm trúc mềm đầu bờ


Hè về trong tiếng sáo diều dật dờ

Hè về gieo ánh tơ.
Bâng khuâng nghe nắng đùa mây trắng đàn chim cánh đo trời

Phân vân đôi mái chèo lữ thứ thuyền ai biếng trôi

Xa xa lớp lúa dồn cao sóng vàng leo dốc chân đồi

Thanh thanh hương sen nồng ướp gió trắng khi chiều rơi.”

…….
Ở Bắc Mỹ, “hè về” là dịp cư dân miền Tây đi du lịnh miền Đông vì khí hậu mùa hè ở đây dễ chịu hơn thời tiết băng giá mùa đông!


Trong bối cảnh đó, mỗi dịp hè, tôi thường “thiên di” từ miền Tây sang miền Đông Canada để thay đổi không khí, đồng thời thăm viếng gia đình sinh sống nơi đây. Mùa hè nầy, tôi “thiên di” một tháng (giữa tháng 7 – giữa tháng 8/2015).
I.- THÀNH PHỐ MONTREAL
Thành Phố với trăm tháp chuông
Điểm dừng chân đầu tiên của tôi là Thành Phố Montreal, vốn rất thân quen với tôi. Từ thời xa xưa, Thành Phố Montreal được mệnh danh là “Thành phố với trăm tháp chuông” (Ville aux cent clochers), vì rải rác trong Thành Phố, xuất hiện rất nhiều ngôi thánh đường Công Giáo.
Montreal là thành phố thuộc tỉnh bang Québec – cái nôi của Giáo Hội Công Giáo ở Bắc Mỹ. Rất nhiều con đường ở Montreal còn mang tên các vị Thánh Công Giáo.
Đền Thánh Giuse Montreal và Thánh Sư Huynh André Bessette


(Đền Thánh Giuse Montreal)
Khi đến Montreal, du khách không thể không đi kính viếng Đền Thánh Giuse Montreal. Ngoài địa điểm du lịch, Đền Thánh Giuse còn là nơi linh thiêng để nhiều người đến cầu khẩn xin ơn với Thánh Giuse và rất nhiều người được toại nguyện, kể cả những người ngoài Công Giáo.
Ðền Thánh Giuse Montréal gồm nhiều kiến trúc khác nhau, tạo thành một ngọn đồi thánh thiêng chiếm lãnh trên 500 mẫu tây.
Ngay cạnh nhà tiếp đón du khách có một tháp chuông cao với một bộ chuông gồm 56 chuông lớn nhỏ khác nhau. Trọng lượng bộ chuông lên tới 11 tấn. Bộ chuông này do Chính phủ Pháp đặt làm để trang trí trên Tháp Eiffel tại Thủ Ðô Paris, nhưng vì lý do kỹ thuật, nhà sản xuất Paccard et Frères đã dâng tặng Ðền Thánh năm 1955, nhân kỷ niệm 50 năm xây cất Đền Thánh.
Bên cạnh đó là Nguyện Ðường Khấn Thánh Giuse với 8 phù điêu lớn do điêu khắc gia người Canada Joseph Guardo thực hiện năm 1948, theo TÁM tước hiệu mà truyền thống Công Giáo vẫn suy tôn Thánh Giuse: Ðấng Bảo Trợ các Gia Ðình, Bổn Mạng giới Thợ Thuyền, Đấng Bảo Trợ các Tâm Hồn Thanh Khiết, Bổn Mạng Người Chết Lành, Đấng Nâng Ðỡ những ai Ðau Khổ, Niềm Hy Vọng của Bệnh Nhân, Đấng Xua Đuổi thần dữ và Ðấng Bảo Trợ Giáo Hội.

Dọc theo hành lang nguyện đường, treo la liệt trên tường hàng ngàn chiếc nạng, và những bia đá cẩm thạch mà các người hành hương đã để lại hầu tri ân Thánh Giuse, vì họ đã được lành bệnh lạ thường nhờ sự chuyển cầu của Thánh Nhân trước tòa Chúa.


Từ hành lang nguyện đường nhỏ, tiến sang phía tay phải là ngôi mộ lớn bằng đá cẩm thạch màu đen huyền, nơi an nghỉ của Sư Huynh André. Vì có quá nhiều phép lạ xảy ra nhờ lời chuyển cầu của thày André, nên Đức Gioan Phaolô II đã suy tôn Thày lên bậc Chân Phước ngày 23 tháng 5 năm 1982. Và Đức Biển Đức XVI suy tôn lên hàng Hiển Thánh ngày 17/10/2010.


(Thánh Sư Huynh André Bessette)


Bên cạnh đó là Nhà Thờ Hầm (The Crypt Church). vì nằm dưới Vương Cung Thánh Ðường, có trên 1,000 chỗ ngồi, được xây cất năm 1916.


Chính giữa cung thánh là tượng Thánh Cả Giuse, cao 2m75, nặng 2, 3 tấn, do nghệ sĩ người Ý là ông A. Giacomini, đã tạc bằng đá hoa cương màu trắng rất quý hiếm gọi là carrara.


Trên những bức tường nhà thờ hầm là những tranh màu bằng kính (The Stained Glass Windows) mô tả những giai đoạn chính trong cuộc đời Thánh Cả Giuse. Ðây là công trình nghệ thuật của hai nghệ sĩ Canada – ông Perdriau và ông O' Shea – hoàn thành năm 1919.

Từ nhà thờ hầm bước ra là cầu thang máy cuốn để lên trên lầu. Đây là phòng nghỉ chân cho khách hành hương. Bên ngoài là ban công khá cao, có thể phóng tầm mắt để nhìn bao quát thành phố Montréal trước mặt. Phía đối diện là trường trung học Notre Dame, nơi mà Sư Huynh André đã phục vụ như một người gác dan cổng trường trên 40 năm.


Sau đó lên lầu là khu triển lãm nhỏ về cuộc đời Sư Huynh AndréNgoài những bức tranh trên tường chụp căn nhà bé nhỏ tồi tàn Sư Huynh đã cất tiếng khóc chào đời, cho đến những tài liệu, những hình ảnh chụp lúc sinh thời và khi qua đời, người ta thấy có 4 phòng lớn:

- Phòng I mô tả cảnh thày André làm người gác dan suốt 40 năm tại cổng trường trung học Notre Dame (1870-1909).

- Phòng II là văn phòng nơi Sư Huynh đón tiếp và săn sóc các bệnh nhân.

- Phòng III là căn phòng ngủ đơn sơ, có một giường cá nhân, một bàn nhỏ và chiếc ghế, một cái dù (cái ô) đen treo trên tường.

- Phòng IV là một phòng nhỏ bằng sắt mạ đồng, có lan can chung quanh, chính giữa có đặt trái tim đã khô của Sư Huynh trong một hộp nhỏ bằng vàng. Ðây là truyền thống lâu đời của nước Pháp và nước Ý, thường lấy trái tim của các bậc vĩ nhân nổi tiếng để dân chúng tri ân và tôn vinh.


Bên cạnh phòng nghỉ chân là cả một khu vườn rất rộng, cây cối và hoa cảnh cắt xén mỹ thuật, do kiến trúc sư phối cảnh Frederick G. Todd thiết kế để dựng 14 chặng đàng Thánh Giá, với những bức tượng màu trắng rất mỹ thuật do hai nghệ sĩ Ercolo Barieri và Louis Parent tạc bằng đá cẩm thạch quý giá. Những bức tượng 14 đàng Thánh gia này với kích thước như một người trung bình được chiếu sáng ban đêm do một hệ thống ánh sáng do chuyên viên Jean d'Orsay nghiên cứu.


Tại khu vườn này có một tương Chúa Kitô Phục sinh, dưới chân tượng là một hệ thống phun nước khá lớn, giúp người hành hương có những giây phút trầm lặng suy tư về cuộc đời.

Kế đó là Bảo Tàng Viện chiếm cả một khu vực lớn cạnh Vương Cung Thánh Ðường với chủ đề Thánh Gia Thất Chúa Kitô, Ðức Mẹ và Thánh Giuse, chiếm cả hai tầng lầu mênh mông là một công trình thu thập các tác phẩm nghệ thuật quý giá, qua nhiều năm khác nhau, khởi đầu từ khi xây cất đền thờ nhỏ đầu tiên từ năm 1905.


Bước vào bảo tàng viện, người ta sẽ bị choáng ngợp bởi một bức tranh sơn dầu thật lớn do nghệ sĩ André Bergeron thực hiện cùng với rất nhiều tác phẩm nghệ thuật của các nghệ sĩ Canada và hầu hết các quốc gia trên thế giới.

Có 2 khu vực khác nhau:

- Bảo tàng viện bằng sáp do nghệ sĩ Joseph Guardo thực hiện năm 1955, gồm 10 cảnh sinh hoạt của Thánh Gia Thất, với 76 bức tượng bằng sáp, với kích thước giống như người thật.

- Bảo tàng viện Giáng Sinh, bao gồm 330 máng cỏ do các nghệ sĩ của 130 quốc gia trên khắp thế giới thực hiện. Từ chủ đề Chúa Kitô Giáng Sinh, mầu nhiệm Ngôi Hai Nhập Thể đã được các nghệ sĩ của các quốc gia Âu Châu, Mỹ Châu, Phi Châu, Á Châu và Châu Thái Bình Dương tìm nguồn cảm hứng và thể hiện bằng rất nhiều hình thức khác nhau…Những máng cỏ bằng gỗ, bằng pha lê, bằng kiếng, bằng vải, sơn dầu, tranh thủy mạc, bằng sứ, bằng sành v.v… đã nói lên tinh hoa và văn hóa của mỗi dân tộc.

Tại đây có hai bộ hang đá máng cỏ của Việt Nam: một bằng rễ cây đẽo gọt rất tinh vi mỹ thuật và một tranh sơn mài vẽ Chúa Kitô, Ðức Mẹ và Thánh Giuse dưới y phục và dáng vóc người Việt nam. Hai hang đá máng cỏ này do Nhà văn Phạm Ðình Khiêm, Sàigòn, kính tặng bảo tàng viện năm 1992.


Ngoài ra còn có các máng cỏ từng quốc gia như Nhật Bản, Phi Luật Tân, Tiệp Khắc, Pháp, Ðức v.v…

 
Điểm nổi bật nhất của Đền Thánh là Vương Cung Thánh Ðường kính Thánh Giuse, dài 105 mét, rộng 65 mét, chiều cao từ nền đến mái vòm 60 mét, nếu tính chung từ nhà thờ hầm đến chóp đỉnh thánh giá 319 mét, đường kính mái vòm bên trong 26 mét, mái vòm bên ngoài 39 mét.


Toàn bộ Vương Cung Thánh Ðường cao 263 mét sánh với mặt biển. Đây cũng là ngọn tháp cao nhất thành phố Montréal. Năm 2005, nhân dịp kỷ niệm 100 năm khởi công xây dựng, chính phủ Canada đã ghi Đền Thánh Giuse Montreal vào sổ các Danh Lam Thắng Cảnh Lịch Sử Quốc Gia.

Quả thật Chúa Quan Phòng thật kỳ diệu, đã sử dụng những con người tầm thường, bé nhỏ, ít học, bình dân như Sư Huynh André – vị sáng lập Ðền Thánh Giuse Montréal – để thực hiện giữa trần gian những chương trình vĩ đại của Ngài.


Sống chứng nhân trong cuộc đời thường
Hai tuần lễ ở Montreal đã mang lại cho tôi một niềm thích thú lớn lao là được diện kiến hai Niên Trưởng (NT) của Hội Cựu Chủng Sinh Huế Hải Ngoại (CCSHHN). Đó là các NT DB và LVC. Hai Vị nầy đã ngoại bát tuần. NT DB tương đối còn khoẻ mạnh và minh mẩn hơn NT LVC.
Tôi gặp hai Vị ở nhà NT DB – một căn nhà khang trang – là nơi NT DB và Phu Nhân sinh sống. Hai Vị có 6 người con và 11 cháu gồm 8 nội và 3 ngoại.
Hằng ngày, các con gái hay con dâu mang thức ăn lại cho hai Vị. NT DB chỉ cắm nồi cơm điện là xong. Riêng Phu Nhân của NT phải ngồi xe lăn. Hôm đó Phu Nhân ngồi xe lăn ở trong phòng ngủ, nhìn ra ngôi vườn phía sau và tràng hạt trên tay. Mỗi ngày không biết Phu Nhân đã lần bao nhiêu tràng chuỗi.
NT DB cho biết hằng ngày con gái/dâu, có khi cả cháu nữa, phụ giúp Phu Nhân tắm rửa. Riêng mùa hè, mỗi khi tốt trời, chiều chiều các cháu nội/ngoại thay nhau đẩy xe lăn đưa Phu Nhân ra đường dạo chơi! Đó là cảnh tượng không phải mọi gia đình VN ở hải ngoại có thể thực hiện được. Tạ Ơn Chúa!
Đối với cả hai NT DB và LVC, tuy đã lớn tuổi, nhưng trang mạng CCSHHN là niềm vui của hai Vị và không ngày nào hai Vị không truy cập.
Riêng NT LVC rất vui mỗi khi vào trang mạng CCSHHN và NT đã đọc rất kỹ những tin tức cũng như những bài chia sẻ trên đó. NT đã đọc với niềm thích thú và ghi nhớ nhiều điều! Một điểm hơi buồn là sức khoẻ của NT LVC không được khả quan lắm: tai nghe không rõ, mặc dù có mang máy thính thị trên tai, đi đứng hơi khó khăn và phần nào hơi lẫn nên các con đã kiếm một viện dưỡng lão thích hợp để NT vào đó ở, kể từ sau lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời, hầu NT được săn sóc chu đáo hơn.
II.- NEW JERSEY VÀ PHILADELPHIA
Trong hai tuần lễ ở New Jersey, Hoa Kỳ, tôi có dịp ghé thăm NT NĐN ở Thành Phố Philadelphia, tiểu Bang Pennsylvania, đồng thời kính viếng Đền Nữ Thánh Rita.
Sống đạo giữa giòng đời

NT NĐN thuộc Hội CCSHHN với 10 năm tù CS vì là một cựu sĩ quan cấp tá của Quân Lực VNCH. Trong lúc NT đi tù, Phu Nhân đã buôn bán tần tảo trong thời gian bao cấp, kinh tế khó khăn, để nuôi 11 người con – 5 trai và 6 gái còn nhỏ dại (không kể một cháu gái qua đời lúc mấy tháng tuổi).

Ngoài việc 7 người con vượt biên 3 lần từ trước, NT, Phu Nhân và 1 người con được qua Mỹ theo diện H.O. năm 1990. Riêng 3 người con đã lập gia đình phải ở lại chờ bảo lãnh và đến Mỹ đầu năm 2001.

Ngoài 11 con, hiện nay NT và Phu Nhân có 11 dâu/rễ, 30 cháu nội/ngoại, 7 cháu dâu/rễ và 7 chắt. Hiện NT có 3 gia đình ở 2 tiểu bang xa, còn lại 8 gia đình các con, 7 gia đình các cháu ở Philadelphia và New Jersey, cách xa nhau khoảng 30 phút lái xe. Con cháu chịu khó học hành và thành đạt.

Sau vài năm định cư tại đây, gia đình NT có ra một Tập san nội bộ “Gia Đình LÒNG MẸ”, tự thực hiện: từ chụp hình, viết bài, ghi lại những tin sinh hoạt gia đình trong tháng, sưu tầm các đề tài giáo dục, lay-out, in ấn và đóng thành tập khá đẹp, mỗi 2 tháng phổ biến 1 số, do NT và các con phụ trách, làm phương tiện liên lạc và giáo dục, đã ra từ số 1 đến số 100. Hiện nay vì NT tuổi già sức yếu nên bài vở liên lạc được thay đổi bằng những tâm tình và lời khuyên qua hệ thống e-mail trên cell phone, giản dị, tiện lợi và nhanh chóng hơn.

Hằng năm, vào những dịp Tết, Giáng Sinh hay sinh nhật của hai Vị, các con bàn bạc việc tổ chức những buổi họp mặt để chung vui cùng hai Vị. Ngoài ra mỗi năm vào dịp nghỉ hè, tất cả đều quy tụ về Philadelphia họp mặt thường niên và cùng nhau chia sẽ những biến cố vui buồn. Khi có việc cần bàn thảo, các con trai bàn việc với trưởng nam, còn các con gái bàn việc với trưởng nữ. Tất cả con cháu dâu rễ đoàn kết và rất thương yêu nhau. Đó là điều rất quí hiếm, một ân ban của Chúa!

Theo lời Đức Cha Giacôbê Giáo Phận Vĩnh Long lúc Ngài còn sống thì NT thực là cha xứ của một Gíáo Xứ thu hẹp, nhưng rất sống động. Đúng là một Giáo Hội bé nhỏ tại gia!

Đến nay được 15 năm, NT và Phu Nhân sống trong một căn phòng đôi thuộc cao ốc Seniors Housing của Chính Phủ Hoa Kỳ, ở tầng lầu 16, nhìn ra con sông Delaware thơ mộng mà bên kia là Tiểu Bang New Jersey.

Căn nhà của NT và Phu Nhân chẳng khác nào một phòng tu ở trong Đan Viện. Hằng ngày, ngoài việc lần hạt, hai Vị đều đọc Kinh Thần Vụ sáng, trưa, chiều và tối.

Riêng Phu Nhân là một thành viên Dòng Ba Cát Minh nên trước đây mỗi ngày Phu Nhân theo gương Cha Thánh Piô lần 40 chuỗi, nhưng nay vì tuổi già nên Phu Nhân chỉ còn lần 12 chuỗi thôi. Vào lúc 3 giờ trưa mỗi ngày, Phu Nhân quỳ gối dang hai tay lần chuỗi Lòng Thương Xót Chúa!

Hằng ngày NT và Phu Nhân tham dự Thánh Lễ ở Đền Nữ Thánh Rita. NT giúp lễ và làm thừa tác viên Mình Thánh Chúa: điều đó phụ giúp các cha ở đây rất nhiều.

Vào mùa hè, chiều chiều NT và Phu Nhân tản bộ nơi công viên gần cư xá, để tăng chất luợng cho sức khoẻ.



Đền Nữ Thánh Rita Cascia ở Philadelphia

(Đền Nữ Thánh Rita Cascia ở Philadelphia)

Tại Thành Phố Philadelphia, Tiểu Bang Pennsylvania, nước Hoa Kỳ, có đền kính Nữ Thánh Rita – một trong 3 địa điểm hành hương của Giáo Phận Philadelphia, xây từ năm 1907,  và do các cha dòng Thánh Augustinô trông coi.

Người khởi xướng là linh mục Villanova dòng Thánh Augustinô. Cha có ý định xây dựng ngôi nhà thờ cho giáo xứ 10 ngàn người Ý di cư tới Mỹ ở ngoại ô Thành Phố Philadelphia. Để đặt tên ngôi thánh đường, họ chọn Thánh Nữ Rita là người Ý, mới được phong thánh năm 1900. Các linh mục dòng tổ chức các tuần cửu nhật để giáo dân trong xứ cầu xin và tạ ơn.

Năm 1915, tầng trên Đền Thánh hoàn tất và đã trở thành Trung Tâm Tôn Kính Nữ Thánh Rita trên nước Mỹ.

Ngày nay, sau những thế hệ ban đầu, lòng sùng kính Nữ Thánh Rita vẫn còn tiếp tục và phát triển. Tại đền này, tầng lầu trên là nhà thờ, tầng dưới là đền kính Nữ Thánh Rita.

Hằng ngày có rất nhiều người tại địa phương cũng như từ phương xa đến xin bà Thánh Rita khẩn cầu cùng Chúa cho họ. Vì nhiều người đã nhận được ơn lạ nên Nữ Thánh Rita được mang danh hiệu là “Vị Thánh cầu bầu cho các hoàn cảnh vô phương cứu vãn.”

Nhiều gia đình Việt Nam ở Philadelphia cũng ở trong số những người được Nữ Thánh Rita cầu bàu cùng Chúa nhận lời họ kêu xin.



Địa chỉ của Đền Nữ Thánh Rita:Shrine of Saint Rita of Cascia 1166 South Broad Street, Philadelphia, PA 19146 .

Nữ Thánh Rita Cascia



(Nữ Thánh Rita Cascia)

Thánh Rita Cascia (1381-1457) 76 tuổi, người nước Italia (Ý), nữ tu Dòng Thánh Augustinô. Thánh Rita sinh năm 1381, tại thành Cascia thuộc tỉnh Umbria, nước Ý. Cha mẹ có tinh thần đạo hạnh, cảm ơn Chúa đã cho sinh con như món quà quí.

Cô muốn dâng mình đi tu, nhưng cha mẹ lại bắt cô lập gia đình. Ban đầu cô hơi bực mình, nhưng Rita hiểu đây là Ý Chúa, nên cô bằng lòng. Rita kết hôn năm 12 tuổi, với một thanh niên quý tộc. Anh ta là người khô đạo, thường xuyên hành hạ vợ mình. Tuy nhiên, với tâm hồn đạo hạnh, Rita vẫn yêu thương, làm tròn bổn phận của người vợ.

Cuối cùng, vì đức hạnh của Rita, người chồng đã thay đổi nếp sống và tận tâm yêu mến bà. Đời sống gia đình kéo dài được 18 năm. Chúa đã chúc lành cho Rita và cho bà sinh 2 con trai. Bà trở thành người vợ và người mẹ tốt lành tận tụy.

Vì có sự bất hòa trong đại gia đình dòng họ, một hôm, chồng bà đã bị kẻ thù giết chết, bà rất đau khổ, nhưng trong tinh thần Công Giáo, bà tha thứ cho kẻ thù đã giết chồng.

Hai con trai của bà khi đến tuổi được phép mang khí giới, không giống như mẹ, chúng quyết tâm nuôi mộng giết kẻ thù để trả hận cho cha mình. Bà lại đau khổ, khuyên can các con và vì biết không thể làm lay chuyển được kế hoạch giết người của chúng, bà đã ngày đêm cầu xin Chúa cất chúng về khi chúng đang còn trong ân sủng của Chúa và chưa phạm tội ác. Chúa đã nhận lời bà. Trong một năm, cả 2 đứa lìa đời.

Sau khi con chết, bà xin vào tu trong nhà dòng nữ Augustinô ở Cascia, nhưng nhà dòng đã 3 lần từ chối không nhận bà. Bà tha thiết cầu nguyện đêm ngày xin Chúa cho bà được thuộc về Chúa như người Bạn Trăm Năm. Sau cùng, 3 vị thánh (Gioan Tẩy giả, Augustinô, Nicholas Tolentino) hiện ra dẫn bà tới nhà Dòng Madalena, đưa bà vào trong, bà mới được nhận vào tu.

Trong 40 năm ở nhà dòng, bà sống trong cầu nguyện và chiêm ngắm, hầu hạ người bệnh và người nghèo, làm việc tay chân được bề trên chỉ định. Bà ước ao chia sẻ những khổ đau cùng Chúa Kitô nên sau 25 tu, Chúa đã ban cho bà được chia sẻ một chút là cho một cái gai trong mũ gai của Chúa cắm vào trán bà. Từ đó, trên trán của bà có vết thương rướm máu.

Các bề trên của bà nghĩ rằng đó là hiện tượng bệnh phong cùi, nên tách riêng bà ra khỏi cộng đoàn nhà dòng và cho bà sống trong một căn phòng nhỏ trong góc tu viện. Bà mang vết thương nầy trong 15 năm, âm thầm chịu đựng ngày đêm và cảm tạ những ơn Chúa Giêsu Kitô đã đặc biệt ban cho bà. Bà bị đau đớn khổ sở cho đến lúc nhắm mắt lìa đời ngày 22 tháng 5 năm 1457.

Người ta gọi bà Thánh Rita là “Người đem hòa bình, Thánh của những trường hợp vô vọng, Bà Thánh xin nhiều quá” (“Peacemaker”, “Saint of the Impossible”, the “Saint Who Asks Too Much”).

Năm 1900, bà được phong thánh, và được coi như “Viên ngọc quí của thành Umbria”. Lòng sùng kính Nữ Thánh Rita không những lan ra khắp nước Ý mà còn ra nhiều nước khác, nêu gương cho phụ nữ mọi thời, mọi nơi, qua nhiều giai đoạn...



III .- ĐƯỜNG LỐI CỦA CHÚA

Ngoài những trường hợp đặc biệt như Thánh Sư Huynh André Bessette và Nữ Thánh Rita Cascia, những giáo dân bình thường như các NT DB, LVC và NĐN trình bày trên đây, đã được Chúa Quan Phòng an bài sống đạo trong cuộc đời thường theo đường lối của Ngài mà không ai hiểu được.



Tu xuất

Ba NT đó thuộc Hội CCSHHN. Ba Vị đã có một thời gian tu học ở Chủng Viện An Ninh thuộc Tổng Giáo Phận Huế.

Sau nhiều năm tháng tìm hiểu ƠN GỌI của mình, qua sự cầu nguyện và tự vấn lương tâm, cũng như nhiều buổi tham vấn với các linh mục linh hướng, quý Vị nhận rõ Thánh Ý Chúa muốn quý Vị thay đổi hướng đi của đời mình nên đã hồi tục và sống đạo giữa giòng đời, làm chứng nhân cho Chúa Kitô.

Vậy những giáo dân xuất thân từ những chủng viện hay những dòng tu thường được gọi là “tu xuất”. Từ ngữ nầy mang ý nghĩa “tiêu cực” hay “tích cực” tùy theo tầm nhìn khác nhau.

Theo LM Ngô Tôn Huấn:

“Nhờ công nghiệp cứu chuộc của Chúa Kitô và qua bí tích rửa tội, người tín hữu Chúa Kitô trở nên “giống nòi được tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả, là dân thánh, dân riêng của Thiên Chúa  để loan truyền những kỳ công của Người, Đấng đã gọi anh  em ra khỏi miền  tối tăm  vào nơi  ánh sáng diệu huyền. Xưa anh  em chưa phải là một dân. Nay anh  em đã là dân của Thiên Chúa; xưa anh  em chưa được hưởng lòng thương xót (của Chúa), nay anh  em đã được thương xót” (1 Pr 2: 9-10).

Và cũng theo LM Ngô Tôn Huấn:

“Tuy nhiên, sống trong Giáo Hội, người tín hữu không có chung một chức năng và nhiệm vụ  như nhau. Ngược  lại, theo Thánh Phaolô,  thì  “anh  em là thân thể Chúa Kitô, và mỗi người là một bộ phận. Trong Hội Thánh, Thiên Chúa đã đặt một số người, thứ nhất là các Tông Đồ, thứ hai là các ngôn sứ, thứ ba là các thầy dạy, rồi đến những người được ơn làm phép lạ, được những đặc sủng để chữa bệnh, để giúp đỡ người khác…” (1 Cor 12: 27-28).

LM Ngô Tôn Huấn còn nhận xét:

Giáo dân là thành  phần Kitô hữu  đông đảo nhất trong Giáo Hội không thuộc về hàng giáo sĩ  hay tu sĩ, nhưng nhờ phép rửa “đã trở nên Dân Thiên Chúa  và tham dự vào  chức vụ tư tế, ngôn sứ và vương giả của Chúa Kitô theo cách thức của họ. Họ là những người đang thực hiện sứ mạng của toàn dân Kitô giáo trong Giáo Hội và trên trần gian theo phần vụ riêng của mình” (Ánh Sáng Muôn Dân, 31)

Vì vậy, các giáo dân “tu xuất” mà trong phạm vi bài viết nầy là những Cựu Chủng Sinh, cách riêng các CCS Tổng Giáo Phận Huế, đang sống Ơn Gọi của mình theo nhiều cách thế khác nhau, theo “những đồng bạc” mà Chúa trao ban cho họ để làm sinh lợi.

Có người là Giáo Sư Đại Học, Khoa Học Gia. Có người là Bác Sĩ, Nhạc Sĩ, Văn Thi Sĩ, Kỹ Sư, Luật Sư, Bình Luận Gia…Có người chỉ là giáo dân tầm thường trong các Giáo Xứ, đảm trách những phần vụ như Giáo Lý Viên, dạy Việt ngữ hoặc thực thi công tác truyền thông trong Giáo Xứ, có khi trên bình diện quốc gia hay quốc tế… Nói chung đại đa số sống đời sống giáo dân tốt đẹp để làm “Chứng Nhân cho Chúa giữa giòng đời” theo những ân huệ họ được nhận lãnh trong những năm tháng ở trong nhà Chúa! Họ là những cánh tay “nối dài” của các giáo sĩ.

Họ thực hành điều mà theo LN Ngô Tôn Huấn: “Tuy khác nhau về địa vị và trách nhiệm, nhưng cả bốn thành phần giáo sĩ, tu sĩ  và giáo dân (bậc độc thân và bậc có gia đình)  đều chung sứ mạng loan báo Tin Mừng Cứu Độ của Chúa Kitô cho những người chưa nghe biết, để tất cả đều được hy vọng cứu độ vì “Thiên  Chúa, Đấng cứu độ chúng ta, Đấng muốn cho mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý” (1 Tim 2:4).
Gương Chứng Nhân của Song Thân Nữ Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu

Trong bài “Tựa” quyển sách “MỘT TÂM HỒN”, Kim Thiều viết tại Quần Phương, ngày 24/4/1948 như sau:

Tháng 9 năm 1843, trên con đường dốc và gồ ghề lên nhà Dòng Thánh Bernard xây trên ngọn núi, người ta trông thấy bước đi không nhọc, một thanh niên trạc độ 20 tuổi, dáng bộ rát tư lự và như đang mơ mộng đắm theo một lí tưởng cao khiết của đời sống, đôi mắt nhìn sâu và đượm vẻ rầu rầu, tỏ lộ một tính tình ôn tồn hoà nhã.

Phong cảnh đẹp oai hùng và tráng quan chiêm của dãy núi Alpes, làm nẩy nở trong tâm hồn người trai tráng hàng trăm nghìn tư tưởng quảng bác. Nguồn cảm dũng ứa lên như nước triều dâng, xúc động tấm lòng tri ân Đấng Thiên Chúa uy quyền phép tắc, người thanh niên tấm tắc khen ngợi….. phải dừng bước giờ lâu và để rơi những giọt ngọc… Rồi lại bước đi, đi tới ngọn non xây nhà Dòng. Nhà Dòng như ngọn hải đăng tung ra xa xa tứ phía ánh sáng hi vọng và bác ái.



Cha Bề Trên Dòng phải ngẩn lạ khi nhìn người khách trẻ trung đến thăm: hình dung đẹp oai, nét mặt thẳng thắn, tỏ rõ một linh hồn trung chính và to lớn. Cha tiếp đãi rất lịch thiệp. Cha vấn an quí thân phụ, quí quán và quí danh. Qúi danh cậu là Louis-Martin, sinh ngày 22 tháng 8 năm 1823 ở thành Bordeaux nơi từ mẫu ở hồi hiền phụ sung chức Đại Uý trong đoàn quân pháo thủ binh giặc ở Tây Ban Nha. Hiện nay gia quyến ở tỉnh Alencon, mà cậu là trưởng tử.

(Chân Phước Louis Martin – Thân Phụ Nữ Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu)

Có phải vì muốn du lịch, muốn lên thăm nhà Dòng mà người trai anh tuấn kia bước đi đường miền cảnh đẹp như ru, nhưng xa xăm và hiểm trở? Từ Normandie đến Suisse nhiều lần phải chống gậy dò từng bước. Không, không phải người thanh niên ấy muốn du lịch, muốn đến xin tạm trú một đêm ở ngọn núi hiu quạnh này đâu. Người thanh niên muốn xin ở tu trọn đời.

Cha Bề Trên hỏi :

- Cậu đã học mãn khoá La tinh chưa?

- Lạy cha, chưa.

- Đáng tiếc thật, đó là một điều kiện cốt yếu để nhận vào Dòng, nhưng cũng không lo, cậu về học thêm và sau đó chúng tôi sẽ hân hạnh được nhận cậu.

Người khách bất mãn của chúng ta lộn đường trở xuống. Ngày ấy cuộc đời cậu đáng gọi là cuộc lưu ly; nhưng trong tâm trí cậu đã cảm thấy rằng: Dòng Thánh Bernard chỉ là kỉ niệm êm ái trong cuộc đời cậu. Cuộc đời cậu, Đức Chúa Trời đã có một chương trình khác.




tải về 276.83 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
  1   2




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương