ĐẠi cáo bình ngô Nguyễn Trãi I/ Kiến thức cơ bản 1/ Hoàn cảnh sáng tác



tải về 33.33 Kb.
trang1/4
Chuyển đổi dữ liệu09.03.2024
Kích33.33 Kb.
#56767
  1   2   3   4
ĐẠI CÁO BÌNH NGÔ


ĐẠI CÁO BÌNH NGÔ
Nguyễn Trãi
I/ Kiến thức cơ bản
1/ Hoàn cảnh sáng tác:
-Sau khi chiến thắng giặc Minh vào năm 1427, thừa lệnh Lê Lợi, Nguyễn Trãi đã viết Đại Cáo Bình Ngô vào đầu năm 1428, để tuyên bố với nhân dân cả nước về việc dẹp yên giặc Ngô.
2. Cáo: Là thể văn NL có từ thời cổ ở Trung Quốc, thường được vua, chúa hoặc thủ lĩnh dùng để trình bày một chủ trương, một sự nghiệp hoặc trình bày tuyên ngôn một sự kiện nào đó để mọi người cùng biết. Cáo có thể viết bằng văn vần hoặc văn xuôi, nhưng phần nhiều viết bằng văn biền ngẫu, không có vần hoặc có vần, thường có đối, câu dài ngắn không gò bó, mỗi cặp 2 vế đối nhau.
3/ Bố cục:
-Phần 1: Nêu luận đề chính nghĩa (từ đầu đến chứng cứ còn ghi…)
-Phần 2. Tố cáo tội ác của giặc Minh ( Vừa rồi… ai bảo thần dân chịu được…)
-Phần 3. Mô tả quá trình khởi nghĩa Lam Sơn, mục đích của cuộc chiến đấu. Những khó khăn ban đầu (quá trình chiến đấu), những chiến công hiểu hách của nghĩa quân chấm dứt ách nô lệ (tiếp theo đến củng là chưa thấy xưa nay). 
-Phần 4. Lời tuyên bố (tiếp theo đến hết).
II/ Phân tích
1/ Phần 1: Luận đề chính nghĩa
-Ở phần 1, Bình Ngô đại cáo khẳng định lí tưởng của cuộc kháng chiến là tư tưởng nhân nghĩa
« Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo»
Nổi bật ở đây chính là việc nhấn mạnh đến tư tưởng nhân nghĩa của cuộc kháng chiến và tư thế độc lập của dân tộc. Nhân nghĩa gắn liền với yên dân, đó là làm cho nhân được yên ổn và có cuộc sống hạnh phúc, ấm no, an lạc… Nguyễn Trãi quan tâm trước hết đến đời sống nhân dân, đến hạnh phúc của mọi người. Đây chính là tư tưởng lớn và tiến bộ của Nguyễn Trãi, làm nền tảng cho cả bài cáo. Muốn làm được điều đó thì phải trừ bạo, chỉ khi diệt trừ được các thế lực bạo tàn, đang xâm lược nước ta thì dân ta mới được yên ổn, ko rơi vào cảnh loạn lạc.Tư tưởng ấy xuất phát tấm lòng nhân nghĩa và sự yêu thương, lo lắng của ông với nhân dân, đất nước.Đây là quan niệm tiến bộ , mới mẻ của NT, vạch trần luận điệu xảo trá của giặc Minh, đồng thời phân biệt rõ ràng ta là phe chính nghĩa , địch là phe phi nghĩa. Quan điểm này tạo cơ sở vững chắc cho cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, vì đây là cuộc khởi nghĩa vì nhân nghĩa, vì cuộc sống của nhân dân mà diệt trừ bạo tàn.
Từ những băn khoăn , trăn trở về việc dân, việc nước, Nguyễn Trãi hướng tới vấn đề chủ quyền dân tộc, chân lí về độc lập dân tộc.
Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác.
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập
Cùng Hán , Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau
Song hào kiệt đời nào cũng có
NT đã khảng định nền độc lập chủ quyền của Đại Việt bằng các dẫn chứng, các lí lẽ rất thuyết phục như : Chúng ta có nền văn hiến lâu đời đậm đà bản sắc dân tộc, có cương vực lãnh thổ riêng biệt, có phong tục tập quán riêng « phong tục….khác», có lịch sử lâu đời trải qua các triều đại như « Triệu, Đinh, Lý , Trần», tồn tại cùng « Hán, Đường, Tống, Nguyên»…Tuy có lúc mạnh, lúc yếu, nhưng anh hùng hào kiệt thì đời nào cũng có. Bằng NT liệt kê, NT đã đưa ra những chứng cứ hùng hồn , thuyết phục để khảng định, Đại Việt là một quốc gia độc lập, đây là một chân lý không thể chối cãi. Cách tác giả so sánh các triều đại của Đại Việt ngang hàng với các triều đại của Trung Hoa, gọi vua của Đại Việt là « đế» đã thể hiện ý thức cao độ về chủ quyền độc lập dân tộc.
Chính bởi vậy « Lưu Cung tham công nên thất bại
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong
Cử Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã»
Bằng thủ pháp NT liệt kê tác giả đã nêu ra kết cục của những kẻ chống lại chân lý như Lưu Cung thì thất bại, Triệu Tiết thì tiêu vong, Toa Đô bị bắt sống ở Hàm Tử, Ô Mã Nhi bị giết ở chiến trận Bạch Đằng…Đây cũng là lời cảnh cáo đanh thép với những kẻ dám đi ngược lại với chân lý, cũng là cách ông thể hiện niềm tự hào bởi những chiến công của nhân dân Đại Việt.
2. Phần 2: Tố cáo tội ác của giặc Minh
-Ơ đoạn hai, Nguyễn Trãi đã tố cáo tội ác của giặc Minh. Trước hết tội của chúng là nhân cơ hội nội bộ trong nước ta rối ren, với chiêu bài phù Trần diệt Hồ, đã gây chiến tranh xâm lược , cách dùng từ « nhân», « thừa cơ» đã thể hiện rõ điều đó
«Vừa rồi:
Nhân họ Hồ chính sự phiền hà
Để trong nước lòng dân oán hận
Quân cuồng Minh thừa cơ gây họa».
Nguyễn Trãi vạch trần âm mưu cướp nước Đại Việt của giặc Minh đã có từ lâu, đồng thời vạch trần luận điệu bịp bợm "phù Trần diệt Hồ", để "mượn gió bẻ măng" của chúng. Việc nhà Hồ cướp ngôi nhà Trần chỉ là một nguyên nhân, đúng hơn chỉ là một cái cớ để giặc Minh thừa cơ gây họa. Những từ như nhân (nhân dịp), thừa cơ đã góp phần phơi bày luận điệu giả nhân giả nghĩa của chúng. Điều đáng lưu ý là khi vạch rõ âm mưu xâm lược của nhà Minh, Nguyễn Trãi đã đứng trên lập trường dân tộc, nhưng khi tố cáo chủ trương cai trị thâm độc và tội ác của giặc thì Nguyễn Trãi đứng trên lập trường nhân nghĩa:
- Ông đã tố cáo tội ác của chúng bằng hai hình ảnh rất ấn tượng: nướng dân đen, vùi con đỏ, vừa diễn tả một cách rất cụ thể tội ác man rợ kiểu trung cổ của lũ giặc, vừa mang tính khái quát như khắc vào bia căm thù để muôn đời người dân nước Việt ghi nhớ. Thêm nữa nữa, ở Đại cáo bình Ngô, Nguyễn Trãi không đi sâu vào việc tố cáo chủ trương đồng hoá thâm độc mà tố cáo những -chủ trương cai trị phản nhân đạo của giặc Minh. Chúng không chỉ vơ vét các sản vật quý báu mà còn bóc lột sức người, sức của bằng thuế má, phu phen, dâng nạp cống vật và huỷ hoại cả môi trường sống, tàn sát dân chúng vô tội không biết ghê tay. Người dân nước Nam sống trong tinh cảnh bi đát đến cùng cực. Cái chết đợi họ trên rừng, dưới biển, đúng như lời bài cáo đã nêu:
Dối trời lừa dân đủ muôn nghìn kế,
Gãy binh kết oán trải hai mươi năm.
Bại nhân nghĩa nát cả đất trời,
Nặng thuế khoá sạch không dầm núi.
Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập, thuổng luồng.
Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu nước độc.
Vét sản vật, bắt chim trả, chốn chốn lưới chăng,
Nhiễu nhân dân, bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt.
Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ,
Nheo nhóc thay kẻ goá bụa khốn cùng.
Ở Đại cáo bình Ngô, Nguyễn Trải không đi sâu vào việc tố cáo chủ trương đồng hoá thâm độc mà tố cáo những -chủ trương cai trị phản nhân đạo của giặc Minh. Chúng không chỉ vơ vét hết các sản vật quý báu mà còn bóc lột sức người, sức của bằng thuế má, phu phen, dâng nạp cống vật và huỷ hoại cả môi trường sống, tàn sát dân chúng vô tội không biết ghê tay. Người dân nước Nam sống trong tình cảnh bi đát đến cùng cực. Cái chết như đang đợi họ trên rừng, dưới biển.
Đối lập với thảm cảnh của người dân vô tội là hình ảnh kẻ thủ xâm lược hung hãn, man rợ: Thằng há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán.
Câu văn dài đã khắc hoạ bộ mặt quỷ sứ khát máu của quân xâm lược. Để diễn tả tội ác chất chổng của giặc và khối căm hờn sôi sục của nhân dân ta, Nguyễn Trãi đã kết thúc bản cáo trạng bằng hai câu văn mang ý nghĩa khái quát rất cao:
Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi.
Tác giả đã lấy cái vô hạn của trúc Nam Sơn, để so sánh với tội ác của giặc, dùng cái vô cùng là nước Đông Hải, để nói tới sự dơ bẩn của kẻ thù. Câu văn đầy hình tượng ấy đã giúp chúng ta cảm nhận sâu sắc tội ác của giặc Minh xâm lược. Dân tộc ta chỉ còn con đường duy nhất là đứng lên hành động:
Lẽ nào trời đất dung tha,
Ai bảo thần nhân chịu được?
Lời văn trong bản cáo trạng vừa hùng hồn, vừa thống thiết. Khi thì uất hận trào sôi, khi thì cảm thương da diết; lúc lại nghẹn ngào, căm tức. Tất cả cùng một lúc diễn tả những cung bậc khác nhau trong tâm tư tình cảm của Nguyễn Trãi. Đại cáo bình Ngô chứa đựng những nội dung thiết yếu của một bản "tuyên ngôn độc lập" bởi chính những nội dung đã phân tích ở trên.

tải về 33.33 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
  1   2   3   4




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương