GIẢi nhân quyền việt nam 2008 giải truyền thông liên mạng 2011 trong số NÀY



tải về 0.5 Mb.
trang1/6
Chuyển đổi dữ liệu05.08.2016
Kích0.5 Mb.
#13679
  1   2   3   4   5   6





GIẢI NHÂN QUYỀN

VIỆT NAM 2008

GIẢI TRUYỀN THÔNG LIÊN MẠNG 2011

TRONG SỐ NÀY

KỲ HỌP THỨ 28



CHƯƠNG TRÌNH NGHỊ SỰ 3

THÚC ĐẨY VÀ BẢO VỆ TẤT CẢ CÁC QUYỀN CON NGƯỜI, QUYỀN DÂN SỰ, QUYỀN CHÍNH TRỊ, QUYỀN KINH TẾ, QUYỀN XÃ HỘI VÀ VĂN HOÁ, BAO GỒM CẢ QUYỀN PHÁT TRIỂN

BÁO CÁO CỦA ĐẶC PHÁI VIÊN VỀ TỰ DO TÔN GIÁO HOẶC TÍN NGƯỠNG HEINER BIELEFELDT

I. Giới thiệu

1- Đặc phái viên về tự do tôn giáo hoặc tín ngưỡng đã làm việc tại Việt Nam từ ngày 21 đến ngày 31 tháng 7 năm 2014. Đây là chuyến viếng thăm thứ 2 trong nhiệm kỳ kể từ sau chuyến làm việc năm 1998 của người tiền nhiệm, cố đặc phái viên Abdelfattah Amor. (X. E/CN.4/1999 /58/Add.2). Ông muốn cảm ơn Chính phủ Việt Nam về lời mời và hợp tác trong thời gian đó. Bộ Ngoại giao đã giúp ích trong quá trình chuẩn bị, trong quá trình làm việc, bao gồm cả bố trí gặp gỡ với một tù nhân. Uỷ ban Tôn giáo của Chính phủ cũng đã hợp tác tương tự

2- Báo cáo viên đặc biệt cảm ơn tất cả người đối thoại từ lập pháp, hành pháp, và các cơ quan tư pháp của Chính phủ ở trung ương và địa phương, cũng như các cộng đồng và các tổ chức tôn giáo (được công nhận về mặt pháp lý và không được công nhận), các thành viên của các tổ chức dân sự, cộng đồng ngoại giao và các cơ quan của Liên Hợp quốc. Các cuộc thảo luận được tổ chức tại Hà Nội, Tuyên Quang, thành phố Hồ Chí Minh và Vĩnh Long chủ yếu là mở, thẳng thắn và mang tính xây dựng. Ông cũng xin cảm ơn Chương trình Phát triển Liên Hợp quốc tại Hà Nội về hỗ trợ hậu cần.

3- Tuy nhiên, Báo cáo viên đặc biệt thất vọng rằng các chuyến thăm dự kiến ở các tỉnh An Giang, Kon Tum và Gia Lai vào các ngày từ 28 đến 30 tháng 7 do các cản trở khác nhau làm suy yếu các điều khoản tham chiếu của quá trình làm việc ở Việt Nam trong khi sự riêng tư và bí mật của một số cuộc gặp và các nguồn thông tin đã bị tổn thương nghiêm trọng. Ông trải qua những kinh nghiệm thực tế và nhận được thông tin đáng tin cậy rằng một số cá nhân khác mà ông muốn gặp đã bị canh giữ, cảnh báo, đe dọa, quấy rối hoặc bị cảnh sát ngăn không cho đi đến cuộc gặp. Ngay cả những người đã gặp được ông cũng bị theo dõi và tra xét bởi cảnh sát.

4- Hơn nữa, nhân viên an ninh và cảnh sát chìm theo dõi chặt chẽ các nơi ở của Báo cáo viên đặc biệt và người đối thoại với mình. Những việc này đã vi phạm một cách rõ ràng các điều khoản tham chiếu của chuyến viếng thăm mà Chính phủ Việt Nam đã đồng ý trước chuyến thăm. Báo cáo viên đặc biệt quan ngại sâu sắc và phẫn nộ về những vụ trả thù, kể cả đe dọa, quấy rối bằng cách thẩm vấn của cảnh sát và thậm chí gây thương tích cho một số người đối thoại của mình trong và sau chuyến thăm của ông. Báo cáo viên đặc biệt đưa các trường hợp được sự chú ý của Chính phủ, nếu quan ngại của mình và tìm cách phân loại và và can thiệp để ngăn chặn chúng. Trong một trong những cuộc họp chính thức với Chính phủ, một thứ trưởng Bộ Ngoại giao khẳng định lại tầm quan trọng của chuyến thăm này và chỉ ra rằng sự cố ngăn cản sẽ xem xét và xác minh với các nhà chức trách địa phương.

5- Mặc dù một số cuộc gặp không thể diễn ra do sự can thiệp của chính quyền trong phần cuối của chuyến thăm, Báo cáo viên đặc biệt tiếp tục nhận được thông tin có liên quan trong phạm vi của chuyến thăm. Ông cũng tìm cách làm rõ thực tế từ Chính phủ và các bên liên quan.



II. Tổng quan về bức tranh tôn giáo tại Việt Nam

6- Một thành viên của Ban Tôn giáo Chính phủ miêu tả bức tranh tôn giáo ở Việt Nam như là một "bảo tàng về tôn giáo và tín ngưỡng”. Theo thống kê chính thức của nhiều cơ quan chính phủ, có 38 tổ chức tôn giáo đã đăng ký. Tổng số những người theo tôn giáo đã đăng ký là 24 triệu trong tổng số hơn 90 triệu dân số toàn quốc. Những cộng đồng tôn giáo được công nhận bao gồm 11 triệu Phật tử, 6,5 triệu người Công giáo, 2,5 triệu người Cao Đài, 1,5 triệu người Tin lành, 1,3 triệu người theo đạo Hoà Hảo, 78.000 người Hồi giáo, 7.000 người theo đạo Bahais và 1.500 người theo đạo Hindu và những người theo các tín ngưỡng khác như thuyết duy linh và người vô thần. Có khoảng 25,000 cơ sở tôn giáo trong toàn quốc. Việt Nam có khoảng 9,000 lễ hội tín ngưỡng truyền thống trong năm và đăng cai các hội nghị quốc tế về lãnh đạo tôn giáo, cụ thể là Đại hội Phật giáo Vesak trong tháng 5 năm 2014. Việt Nam có 54 dân tộc, một số được coi là sắc tộc thiểu số.

7- Trong khi đa phần người Việt Nam không thuộc một trong các tôn giáo chính thức, họ có thực hành một số nghi lễ được coi như tín ngưỡng. Nhiều trong số những lễ hội truyền thống thể hiện sự tôn kính tổ tiên. Trong những năm gần đây, có vẻ như những nỗ lực để bảo tồn, khôi phục lễ hội truyền thống như vậy trong số các dân tộc , tôn giáo thiểu số.

8- Hơn nữa, trong thực tế có nhiều nhóm tôn giáo và thực hành ngoài những cộng đồng tôn giáo được nhà nước công nhận, Tuy nhiên, rất khó để có được một hình ảnh rõ ràng và toàn diện về đời sống tôn giáo vượt ra ngoài những cộng đồng tôn giáo đã đăng ký. Trong khi một số chuyên gia của Chính phủ đã đưa ra một ước lượng thấp về số lượng tín đồ của các cộng đồng tôn giáo không đăng ký, Báo cáo viên đặc biệt cũng nghe phỏng đoán rằng số lượng người thực hành tôn giáo bên ngoài cộng đồng tôn giáo đã đăng ký, hoặc không thích đăng ký, có thể lên đến vài triệu đồng.

9- Ngoài các ước tính rất khác nhau về các con số, Báo cáo viên đặc biệt cũng nhận được thông tin mâu thuẫn liên quan đến các điều kiện theo đó người dân có thể được hưởng quyền con người về tự do tư tưởng, lương tâm, tôn giáo hay tín ngưỡng. Một trong những đặc điểm nổi bật nhất của sự phát triển tôn giáo gần đây tại Việt Nam là sự phát triển nhanh của đạo Tin Lành, đặc biệt ở một số dân tộc và tôn giáo thiểu số. Đồng thời, điều này đã dẫn đến một số quan ngại về đàn áp tôn giáo. Việc cùng tồn tại của những người với tôn giáo khác nhau hoặc thuyết phục tôn giáo không dẫn đến những vấn đề lớn.

10- Nhiều đại diện của các cộng đồng tôn giáo khác nhau thừa nhận rằng hiện có không gian rộng hơn cho việc thực thi quyền tự do tôn giáo ở Việt Nam, đặc biệt là so với tình hình sau năm 1975. Đời sống tôn giáo là một thực tại hữu hình, bằng chứng là nhiều nơi thờ tự thuộc các tôn giáo khác nhau và sự tham gia của người dân vào các hoạt động tôn giáo và tín ngưỡng khác nhau. Đồng thời, các điều kiện theo đó các cá nhân hoặc nhóm có thể thực hiện quyền tự do tôn giáo hay tín ngưỡng vẫn không thể đoán trước, thường phụ thuộc vào thiện chí của chính quyền địa phương, đặc biệt là các cơ quan chính phủ.

11- Mặc dù việc mở rộng không gian cho các hoạt động tôn giáo, tín ngưỡng, tôn giáo cộng đồng vẫn chịu sự kiểm soát chặt chẽ của nhà nước. Thành viên của các cộng đồng tôn giáo không được công nhận đối mặt với những khó khăn rất lớn trong việc thực hành tôn giáo hay tín ngưỡng của họ, đặc biệt tập quán hay các nghi lễ của các cộng đồng này bị coi là không phù hợp với các "lợi ích hợp pháp của đa số" - một cụm từ thường được viện dẫn trong các cuộc thảo luận với các đại diện của các cơ quan chức năng. Hơn nữa, nhiều thành viên của các cộng đồng không được công nhận liên tục đối mặt với đàn áp tôn giáo, kết quả là, họ phải rời bỏ đất nước và không thể trở về nhà với gia đình và người thân của họ. Đáng chú ý rằng những lý do lịch sử không thể coi như là một biện minh cho vi phạm tự do tôn giáo hay tín ngưỡng.

III. Khuôn khổ pháp lý và chuẩn mực của tự do tôn giáo, tín ngưỡng trong nước

A. Quy phạm pháp luật có liên quan đến tự do tôn giáo, tín ngưỡng

12- Việt Nam đã phê chuẩn hầu hết các văn kiện nhân quyền quốc tế, bao gồm Công ước Quốc tế về Các Quyền Dân sự và Chính trị. Hiến pháp Việt Nam mới được sửa đổi, được thông qua vào ngày 28 tháng 11 năm 2013, bao gồm một chương về "quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân" mà Hiến pháp 1992 không có. Đây là một bước đi tích cực nhằm thúc đẩy và tôn trọng nhân quyền, mặc dù có một số quy định khá mơ hồ và không rõ ràng.

13- Các đại diện của Chính phủ nhiều lần nhấn mạnh rằng những người có quyền theo Điều 24 của Hiến pháp mới liên quan đến tự do tôn giáo hay tín ngưỡng liên quan đến tất cả mọi người, không giống như các quy định của Hiến pháp năm 1992 đã được giới hạn cho các công dân Việt Nam. Điều này đã được trình bày như là một dấu hiệu về một thái độ tích cực hơn đối với tự do tôn giáo hay tín ngưỡng. Điều 24 nói rằng: (1) mọi người đều có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, có thể thực hành bất kỳ tôn giáo hay không thực hành, và tất cả các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật; (2) Nhà nước tôn trọng và bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; và (3) không ai có quyền xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật.

14- Việt Nam chưa có một đạo luật điều chỉnh các vấn đề liên quan đến tôn giáo. Văn bản pháp luật có liên quan nhất là Pháp lệnh Tín ngưỡng, Tôn giáo (Pháp lệnh 21), được thông qua sau các cuộc thảo luận dài vào ngày 18 tháng 6 năm 2004. Pháp lệnh 21 là văn bản pháp lý toàn diện đầu tiên về tự do tôn giáo, tín ngưỡng tại Việt Nam. Mặc dù ngôn ngữ hạn chế của nó, sự thông qua pháp lện đó được coi là một bước tiến về pháp lý cho các cộng đồng tôn giáo và tín ngưỡng. Điều 38 của Pháp lệnh quy định rằng các quy định của điều ước quốc tế đã ký kết hoặc gia nhập sẽ được áp dụng khi nó mâu thuẫn với pháp lệnh. Một nghị định quy định chi tiết và biện pháp thi hành Pháp lệnh Tín ngưỡng, Tôn giáo (Nghị định 92) được thông qua ngày 8 tháng 11 năm 2012.

15- Báo cáo viên đặc biệt được biết rằng một đề nghị sẽ được đệ trình vào năm 2015 để thông qua một đạo luật về tôn giáo hay tín ngưỡng dựa trên Pháp lệnh hiện hành; luật mới được dự kiến sẽ được thông qua vào năm 2016. Ngoài các tình trạng pháp lý cao hơn của một luật so với Pháp lệnh hiện hành, quá trình xây dựng một luật mới toàn diện là một cơ hội để sửa đổi nội dung của Pháp lệnh 21 cho phù hợp với luật nhân quyền quốc tế nhằm tăng cường việc bảo vệ quyền tự do tôn giáo hay tín ngưỡng. Khi thảo luận về vấn đề này với các chuyên gia của Chính phủ về công tác tôn giáo, đã có dấu hiệu cho thấy vấn đề đất đai sẽ được giải quyết tốt hơn. Đồng thời, sự tự do cho người nước ngoài để thực hành tôn giáo hay tín ngưỡng của họ cũng sẽ trở nên dễ dàng hơn. Các quan chức khác cũng bày tỏ sự sẵn sàng của họ để xem xét những thay đổi đáng kể để vượt qua những ngôn ngữ vẫn rất hạn chế của Pháp lệnh 21.

B. Hạn chế quyền tự do tôn giáo hay tín ngưỡng

16- Theo tiêu chuẩn quốc tế, việc thực thi các quyền tự do tư tưởng, lương tâm, tôn giáo hay tín ngưỡng của con người được bảo vệ một cách rộng rãi bởi Điều 18 của Công ước Quốc tế nhưng nó không phải là không có giới hạn có thể. Điều 18, khoản 3, của Công ước quy định một số tiêu chí mà phải được thoả mãn cho những hạn chế như vậy phải được hợp pháp hoá.

17- Những khoản giới hạn được quy định trong Hiến pháp năm 2013, Pháp lệnh 21 và Nghị định 92 có phạm vi rộng hơn nhiều so với giới hạn quy định trong Công ước quốc tế. Vấn đề là điều khoản giới hạn quá rộng có thể làm làm mất tự do tôn giáo hoặc tín ngưỡng, từ đó gây nguy hiểm trong việc thực thi trong thực tế. Một yếu tố còn thiếu trong các quy định pháp lý liên quan đến tôn giáo hay tín ngưỡng là làm rõ về việc tôn trọng các quyền tự do tôn giáo và tín ngưỡng một cách không điều kiện, không giới hạn kể cả trong những tình huống khủng hoảng nghiêm trọng hoặc khẩn cấp.

18- Việc bảo vệ vô điều kiện tự do tôn giáo và đức tin phản ánh nguyên tắc rằng buộc con người phải tin vào một đức tin không phải là đích thực hay họ không muốn sẽ làm tổn hại nghiêm trọng lòng tự trọng và quyền con người của họ. Việc cấm bất kỳ sự can thiệp cưỡng chế về tôn giáo hay đức tin có vai trò tương tự như cấm chế độ nô lệ hay cấm tra tấn theo luật pháp quốc tế. Đây là những điều cấm tuyệt đối không có trường hợp ngoại lệ. Tuy nhiên, Điều 24 của Hiến pháp năm 2013, không có quy định bảo vệ quyền tự do tôn giáo hay tín ngưỡng. Điều này có thể dẫn đến lỗ hổng bảo vệ nghiêm trọng.

19- Biểu lộ tự do tôn giáo hay tín ngưỡng trong xã hội không được bảo vệ vô điều kiện bởi luật pháp quốc tế. Do đó, các điều kiện hạn chế phải được quy định trong pháp luật, một cách rõ ràng và dự đoán được. Điều này nên được thực hiện trong sự hiểu biết rằng tự do tôn giáo hoặc tín ngưỡng, đối với cá nhân và cộng đồng, có tư cách chuẩn mực của quyền con người phổ quát. Mối quan hệ giữa quyền tự do này và giới hạn của nó do đó nên được xem như là một mối quan hệ giữa quy tắc và ngoại lệ. Điều quan trọng là phải nhấn mạnh rằng, trong trường hợp nghi ngờ, quy tắc chiếm ưu thế, có nghĩa là, chính phủ chịu trách nhiệm cung cấp bằng chứng để biện minh cho những giới hạn được coi là cần thiết.

20- Trong các cuộc thảo luận với đại diện chính phủ, Báo cáo viên đặc biệt thường xuyên nghe các tham chiếu rộng của "pháp luật Việt Nam". Những điều này làm suy yếu quyền tự do tôn giáo hay tín ngưỡng mà lẽ ra phải là một quyền chính đáng mang tính phổ quát. Theo quan điểm các quyền con người không thể bán được, phạm vi của những quyền ấy, bao gồm cả quyền tự do tôn giáo hoặc tín ngưỡng, không nên để cho sự thận trọng của các các nhà lập pháp quyết định.

21- Bất kỳ hạn chế nào phải phục vụ mục tiêu hợp pháp - bảo vệ "an toàn công cộng, trật tự, y tế, đạo lý hay những quyền tự do căn bản của người khác" quy định tại Điều 18, đoạn 3 của Công ước Quốc tế. Hạn chế phải mang tính cần thiết và tương xứng, và nên được giới hạn với sự can thiệt ở mức độ tối thiểu. Những tiêu chí đó và tiêu chí khác được quy định với mục đích bảo vệ bản chất của tự do tôn giáo hay tín ngưỡng trong tình huống có mâu thuẫn với các quyền khác hoặc lợi ích công cộng quan trọng.

22- Nhiều điều khoản trong Hiến pháp năm 2013, Pháp lệnh 21 và Nghị định 92 cho phép nhà nước quyền rộng rãi trong việc điều chỉnh, giới hạn, hạn chế hoặc cấm việc thực thi quyền tự do tôn giáo hay tín ngưỡng. Điều 14, khoản 2 của Hiến pháp năm 2013 có một số lý do để hạn chế quyền con người và quyền công dân, có lẽ, cũng sẽ áp dụng đối với tự do tôn giáo hay tín ngưỡng. Trong khi khả năng để hạn chế quyền con người nhằm bảo vệ "an ninh quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, đạo đức xã hội và lợi ích cộng đồng" hơi khác so với tiêu chí đặt ra tại Điều 18, đoạn 3 của Công ước quốc tế, Điều 24, khoản 3 của Hiến pháp năm 2013 cho phép hạn chế bất cứ ai "lợi dụng tự do tôn giáo và tín ngưỡng để vi phạm pháp luật".

23- Hơn nữa, Pháp lệnh 21 và Nghị định 92 thường có các tham chiếu với các mục đích như "đoàn kết dân tộc và sự hài hòa", "đoàn kết nhân dân", "lợi ích quốc gia" và "truyền thống văn hóa, phong tục và thói quen", với khả năng rộng cho diễn giải chủ quan. Ví dụ, Điều 8, khoản 2 của Pháp lệnh 21 quy định rằng "không ai được lợi dụng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo để phá hoại hòa bình, độc lập và thống nhất đất nước, kích động bạo lực hoặc tuyên truyền thực hiện chiến tranh hoặc tuyên truyền trái với pháp luật, chính sách của Nhà nước; để chia rẽ trong nhân dân và các tôn giáo; để gây rối trật tự công cộng, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự, tài sản của người khác hoặc cản trở việc thực hành quyền hoặc nghĩa vụ công dân; để thực hiện các hoạt động mê tín dị đoan; hoặc thực hiện các hành vi vi phạm khác". Định nghĩa của các kiểu hành động hoặc hoạt động đó sẽ tạo thành "tuyên truyền chống pháp luật và chính sách của Nhà nước", hành động của "chia rẽ" hay "mê tín dị đoan" vẫn còn chưa rõ ràng. Hơn nữa, điều 87, 88 và 258 của Bộ luật Hình sự Việt Nam thường được áp dụng tùy tiện để trừng phạt những người bị cáo buộc là vi phạm các giới hạn quy định trong Pháp lệnh 21 và/hoặc Nghị định 92.

24- Nhiều đại diện cấp cao của Chính phủ, bao gồm từ các cơ quan tư pháp, thường nhắc lại những điều khoản rộng các hạn chế. Những điều khoản trừu tượng nêu trên, chẳng hạn như "lợi ích của Nhà nước", dễ dẫn đến truy tố hình sự. Đoạn đầu tiên của Điều 258 của Bộ luật hình sự ghi như sau: "Những người nào lợi dụng các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do tín ngưỡng, tôn giáo, tự do lập hội và các quyền tự do dân chủ khác xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích của các tổ chức và/hoặc công dân sẽ bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm ". Việc thiếu liệt kê những hành động cụ thể mà có thể bị quy kết thành "lạm dụng" tự do tôn giáo tự do dân chủ khác trong đoạn này là đặc biệt đáng lo ngại. Ngay cả các thành viên của một tòa án địa phương cấp tỉnh, Toà án nhân dân tối cao không thể làm rõ ý nghĩa của thuật ngữ "lạm dụng" và không thể xác định hành vi nào sẽ tạo nên hành vi vi phạm pháp luật. Việc quy định không rõ ràng trong Điều 258 cho phép các cơ quan có liên quan xử phạt người dân cho tất cả các loại hoạt động - và thái độ của họ - được coi là bằng cách nào đó đi ngược lại với lợi ích của Nhà nước. Điều này có thể áp dụng đặc biệt đối với các cộng đồng tôn giáo hay tín ngưỡng, do khả năng của họ trong việc tổ chức mọi người.

25- Báo cáo viên đặc biệt đã suy ra từ rất nhiều các cuộc thảo luận trong chuyến thăm của ông rằng sự không rõ ràng như vậy không chỉ là một vấn đề lý thuyết. Điều 258 thường được viện dẫn trong thực tế và đã được áp dụng để bắt giữ những người chống lại các hạn chế đối với quyền tự do tôn giáo hay tín ngưỡng và quyền con người khác, chẳng hạn như tự do ngôn luận và tự do lập hội và hội họp. Khi đặt câu hỏi về các tù nhân lương tâm, Báo cáo viên đặc biệt đã được đảm bảo rằng không có trường hợp như vậy tồn tại ở Việt Nam. Với công thức mơ hồ và số lượng lớn những người bị xét xử theo Điều 258, đảm bảo này không đáng tin cậy

C. Quy định hành chính về hoạt động và thực hành tôn giáo hay tín ngưỡng

26- Một vấn đề trung tâm của hầu như tất cả các cuộc thảo luận trong chuyến thăm này liên quan việc đăng ký của các cộng đồng tôn giáo hay tín ngưỡng. Mặc dù Điều 5 của Pháp lệnh 21 quy định rằng Nhà nước đảm bảo quyền tiến hành các hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo, Pháp lệnh 21 có chứa một số lượng lớn các quy định, được củng cố bởi Nghị định 92, liên quan đến các hoạt động của cộng đồng tôn giáo hay tín ngưỡng.

27- Nghị định 92 quy định các điều kiện và yêu cầu đăng ký cho hoạt động tín ngưỡng hoặc hoạt động tôn giáo. Các cộng đồng tôn giáo hay tín ngưỡng phải xin giấy phép cụ thể cho việc xây dựng mới hoặc cải tạo nhà thờ; họ phải xuất trình cho cơ quan chức năng địa phương một tổng quan về hoạt động hàng năm theo kế hoạch; họ phải thông báo cho cơ quan chức năng về việc phong chức sắc giáo sĩ tôn giáo và trong một số trường hợp phải nhận được sự chấp thuận của chính quyền; và họ phải có được sự cho phép của chính quyền địa phương liên quan để thực hiện các nghi lễ công cộng. Như vậy, các quy định nêu trong Pháp lệnh 21 và Nghị định 92 bao gồm các nghĩa vụ liên quan đến thông tin và thông báo cũng như sự cho phép chính thức trước khi được phép tiến hành một số hoạt động tôn giáo, tín ngưỡng.

28- Các yêu cầu quá mức trong các quy định này chắc chắn sẽ là những gánh nặng cho các hoạt động của cộng đồng tôn giáo. Nghị định 92, với những yêu cầu hành chính khác, không làm cho cuộc sống của các cộng đồng tôn giáo hay tín ngưỡng dễ dàng hơn, mặc dù khung thời gian mà các cơ quan chức năng cần phải trả lời là ngắn hơn so với trước đây. Trong trường hợp không đồng ý, họ bị bắt buộc phải nêu rõ lý do.

29- Theo Điều 16 của Pháp lệnh, các tổ chức phải đáp ứng một số tiêu chí để được công nhận về mặt pháp lý. Những điều kiện này là, được cho là nhằm mục đích, ngoài những điều khác, đảm bảo sự tôn trọng "thuần phong mỹ tục và thói quen và lợi ích quốc gia". Điều 6 của Nghị định 92 cũng đòi hỏi các yêu cầu khác phải được đáp ứng trước khi đăng ký, bao gồm cả các tổ chức tôn giáo đã tiến hành các hoạt động tôn giáo thường xuyên trong thời gian ít nhất là 20 năm kể từ ngày được chấp thuận bởi Ủy ban nhân dân cấp xã cho các hoạt động tôn giáo. Không đi vào chi tiết của các quy định này, Báo cáo viên đặc biệt muốn nêu hai điểm cần lưu tâm, đặc biệt quan trọng liên quan đến tự do tôn giáo hay tín ngưỡng.

30- Điểm đầu tiên liên quan đến bản chất của đăng ký và cần xem đây là một lời đề nghị hay một yêu cầu chính thức. Báo cáo viên đặc biệt nhận được quan điểm khác nhau về điều này, và có vẻ là một sự thiếu rõ ràng. Trong khi một số đại diện của Chính phủ rõ ràng đã nói rằng nếu không đăng ký hợp pháp với chính quyền, các cộng đồng tôn giáo, tín ngưỡng sẽ không được phép hoạt động, những người khác chỉ ra rằng các cá nhân từ các giáo phái không đăng ký có thể được "cho phép" để thực hiện một số nghi thức tôn giáo cơ bản, chẳng hạn như tổ chức các cuộc tụ họp tôn giáo tại nhà riêng, miễn là các nhà chức trách đã được thông báo về các hoạt động của họ. Ngay cả trong việc giải thích sau, phạm vi của quyền tự do tôn giáo hoặc tín ngưỡng, tuy nhiên, vẫn còn rất hạn chế và không an toàn. Hơn nữa, khái niệm "cho phép" cũng không rõ ràng. Rõ ràng, vẫn còn một khoảng cách xa với một quyền hợp pháp mà cộng đồng có thể dựa vào sự tôn trọng quyền của các thành viên tự do tôn giáo hay tín ngưỡng.

31- Trong bối cảnh này, các thuật ngữ "công nhận", thường được đề cập trong các cuộc trò chuyện, có thể đảm bảo một định nghĩa ngắn gọn. Việc thực hiện quyền con người đối với tự do tôn giáo, tín ngưỡng, các cá nhân và/hoặc trong cộng đồng với những người khác, không thể thực hiện phụ thuộc vào bất kỳ hành vi cụ thể của công nhận hành chính, cho phép hoặc phê duyệt. Là một quyền phổ quát, tự do tôn giáo hay tín ngưỡng có trong tất cả con người và tồn tại trước khi có bất kỳ hành vi hành chính và thủ tục nào. Lời mở đầu của Tuyên bố năm 1948 của Human Rights bắt đầu với "công nhận phẩm giá vốn có và những quyền bình đẳng và bất khả xâm phạm của tất cả các thành viên của gia đình nhân loại". Rõ ràng, "công nhận" ở đây chỉ để các nguyên tắc cơ bản mà bất kỳ sự tương tác có ý nghĩa giữa con người bao hàm sự tôn trọng nhân phẩm và nhân quyền. "Công nhận" trong ý nghĩa cơ bản của sự tôn trọng phẩm giá con người và các quyền con người như vậy, trước bất kỳ "công nhận" về hành vi hành chính cụ thể.

32- Cần phải thấy rõ rằng quyền tự do tôn giáo hay niềm tin của một cá nhân hay một nhóm người không bao giờ có thể được "tạo ra" bằng bất kỳ thủ tục hành chính nào. Thay vào đó, việc đăng ký cần phải phục vụ quyền con người này, mà bản thân nó phải được tôn trọng như trước bất kỳ thủ tục đăng ký. Trên cơ sở hiểu biết chung này, đăng ký nên là một đề nghị của Nhà nước nhưng không phải là một yêu cầu pháp lý bắt buộc. Tình trạng của các cộng đồng tôn giáo hay tín ngưỡng chưa đăng ký do đó là câu trả lời cho câu hỏi về sự hiểu biết về tự do tôn giáo hay tín ngưỡng nói chung.

33- Điểm thứ hai mà Báo cáo viên đặc biệt muốn nêu quan ngại là tình trạng tư cách pháp thay thế cho các cộng đồng mà không đăng ký như là tổ chức tôn giáo. Với ngưỡng khá cao đặt ra bởi Điều 16 của Pháp lệnh, dường như điều quan trọng là cộng đồng tôn giáo hay tín ngưỡng có một lựa chọn đáng tin cậy để có được một số hình thức khác của tình trạng tư cách pháp nhân, nếu họ có muốn.

34- Dưới quyền tự do tôn giáo hoặc tín ngưỡng, các quốc gia có trách nhiệm cung cấp một cơ sở hạ tầng pháp lý và thể chế phù hợp tạo điều kiện cho các hoạt động tự do của các cộng đồng tôn giáo và tín ngưỡng mà không chịu gánh nặng quá mức và không phân biệt đối xử. Điều này bao gồm các tùy chọn cho các cộng đồng tôn giáo và tín ngưỡng để có được tình trạng tư cách pháp nhân, mà họ có thể cần phải thực hiện các chức năng cộng đồng quan trọng, chẳng hạn như mua bất động sản, sử dụng đội ngũ nhân viên chuyên nghiệp, điều hành tổ chức từ thiện, thành lập cơ sở đào tạo giáo sĩ hay giáo dục thế hệ trẻ. Nếu không có sự sẵn có và khả năng tiếp cận thực tế có tư cách pháp nhân phù hợp, hành vi như vậy chỉ có thể được thực hiện bởi các cá nhân mang nó theo mình để làm điều này vì lợi ích của cộng đồng. Kết quả là, triển vọng phát triển lâu dài của cộng đồng tôn giáo, tín ngưỡng, trong các nhóm nhỏ đặc biệt, có thể gặp nguy hiểm nghiêm trọng.

35- Sau nhiều thảo luận với đại diện Chính phủ về vấn đề đăng ký, Báo cáo viên đặc biệt tin rằng đây là một lĩnh vực cần quan tâm và đòi hỏi lập pháp và các biện pháp khác.



tải về 0.5 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
  1   2   3   4   5   6




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương