ĐẠI ĐẠo tam kỳ phổ ĐỘ HỘi thánh cao đÀi chơn-lý



tải về 1.08 Mb.
trang1/8
Chuyển đổi dữ liệu28.07.2016
Kích1.08 Mb.
#8408
  1   2   3   4   5   6   7   8


ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ

HỘI THÁNH CAO ĐÀI CHƠN-LÝ

TÒA THÁNH CHƠN-LÝ

(TIỀN GIANG)

*

ĐUỐC CHƠN- LÝ



SỐ 43

*

HỘI THÁNH TÁI ẤN HÀNH - GIỮ BẢN QUYỀN



/ LƯU HÀNH NỘI BỘ /

NĂM KỶ SỬU - 2009


ÑAÏI ÑAÏO TAM KYØ PHOÅ ÑOÄ

*

Ngọc-Hoàng Đại-Đế Hội-Thánh



TOØA-THAÙNH ÑÒNH-TÖÔØNG

*

ÑUOÁC CHÔN-LYÙ



Le Flambeau de la Vérité

*

TÂN TỴ NIÊN



Năm 1941

*

Tạp chí số 43 Mùa Xuân

In để bố thí (1 èr Trimèstre)

VĂN PHÒNG NGŨ HÀNH THIÊN SƯ

Tiền giang, ngày 15 tháng 8 năm Kỷ Sửu (2009)

Kính bạch : Đức Quyền Chưởng Quản Hiệp Thiên Đài

Kính : Tam Thanh Đầu sư và Chư Chức sắc, Tín hữu lưỡng phái.

Thực hiện chủ trương của Hội Thánh trong việc truy tìm bản gốc, sao chép lại (bằng vi tính) và tái ấn hành tất cả Kinh ĐUỐC CHƠN LÝ thuộc Đệ Tam Tiểu Thời, từ số 32 đến số 60. Phòng Ngũ Hành Thiên sư chúng tôi đã tiến hành thực hiện, đến nay đã xong quyển ĐCL số 43.

Trong quá trình thực hiện chúng tôi hoàn toàn đảm bảo tính nguyên tác của quyển kinh ,(Sao y nguyên tác bản gốc do Hội Thánh Cao Đài Chơn Lý ấn hành LẦN THỨ NHỨT, Mùa Xuân, năm 1941), chỉ chỉnh sửa một số sai sót do in ấn trước kia, trong đó có sửa một số lỗi chính tả (theo Luật Chính tả 2001).

Xin trân trọng đệ trình Bề Trên xem xét ban hành trong toàn Đạo.

Q.Đông Thiên Sư , Q.Nam Thiên Sư



Thái LONG Thanh Ngọc LIÊM Thanh

Q. Trung Thiên Sư

Ngọc THÀNH Thanh

Q.Bắc Thiên Sư, Q.Tây Thiên Sư



Thái ĐIỀN Thanh Ngọc BA Thanh

CHỨNG KIẾN,

QUYỀN CHƯỞNG QUẢN HIỆP THIÊN ĐÀI,

NGỌC HỔN NGUƠN

(Lý Văn Tiên)

————————————d&c————————————

TÒA THÁNH ĐỊNH-TƯỜNG
VÔ-VI HIỆP-THIÊN ĐẢI

Ngày 04 tháng 4 Annam 1941 (4 giờ khuya )


Nầy năm con nghe Thầy dặn đây ráng nhớ đặng lo làm công quả giúp Thầy , cho kịp thời kỳ nghe con !

Kể từ ngày nay sắp lên, mỗi kỳ in Đuốc Chơn Lý thì Thầy cho năm con được trọn quyền lo sắp đặt Thánh Ngôn, theo lời của Thầy dạy nơi Hiệp Thiên Đài Vô Vi. Trừ ra có Chi phái nào có gởi về, thì năm con phải trình lên Hiệp Thiên Đài Vô Vi cho Thầy xét trước đủ rồi. Năm con sẽ lo xếp đặt lại rồi trình cho Cửu Trùng Đài hay đặng xét rồi phê y; năm con mới được xuất bản.

Năm con, mỗi đứa phải có con dấu riêng để ấn chứng trong Đuốc Chơn Lý. Mỗi cuốn đều phải có đủ 5 Vị Thiên sư ký tên vào mới được phát ra cho Đạo hửu cùng là người Đời xem

CÁCH KÝ TÊN SAU NẦY :

Ngũ Hành Thiên Sư chứng nhận :
ĐÔNG THIÊN SƯ NAM THIÊN SƯ

Đông THÀNH Sư Nam BẰNG Sư

TRUNG THIÊN SƯ

Trung QUẢN Sư

BẮC THIÊN SƯ TÂY THIÊN SƯ

Bắc CHIẾU Sư Tây RỢ Sư

————————————d&c————————————
Tờ nầy xấp kế tờ mặt Đuốc Chơn Lý. Mỗi khi in rồi, năm con phải xét lại cho kỹ đặng ký tên, đóng dấu đem trình cho Chính Phủ. Ấy là con tuân Luật Nước đó.

Năm con đều làm con dấu y như kiểu nầy : Giáp vòng trong khắc chữ: Toà Thánh Định Tường - Giữa để chữ như : Đông Thiên sư hay là Tây Thiên sư, Nam Thiên sư hay là Bắc Thiên sư – Trung Thiên sư.

Thầy hạn cho từ đây tới ngày 15 tháng 4 phải đủ Thiên phục cùng là các điều dặn đó. Khi làm xong rồi, phải trình cho Cửu Trùng Đài xét; đặng Người chạy tờ cho Chưởng Quản Hiệp Thiên Đài biết.

Vậy Thầy khuyên mỗi đứa phải ráng lo giúp Thầy, đừng bê trễ nghe con./.

THĂNG..

————————————d&c————————————

Tòa Thánh ngày 14 tháng 5 Annam Năm Tân Tỵ 1941
Kính

Đại Đức Chưởng Quản Cửu Trùng Đài

Tòa Thánh Định Tường MỸ THO
Vưng lịnh Đức Chí Tôn dạy ngày 4 tháng 4 năm Mậu Dần (4 giờ khuya).

Chúng tôi đã soạn được những bài Thánh Huấn Vô Vi Hiệp Thiên Đài trong ba tháng sau này, và chúng tôi sắp đặt theo Mục Lục dưới đây.

THÁNH TỰA

Thấy Trời, Trời ở tại đâu?

Trong Đời khổ tại ÍT TU

CÓ TU sau đặng hưởng phần.

I.- Thánh Huấn dạy trong đàn đại lễ Kỷ Niệm

a-. Lễ Tân Xuân (mồng một Tết Tân Tỵ)

b-. Lễ Khai Niên (mồng ba Tết Tân Tỵ)

c-. Lễ Thượng Nguơn (mười lăm tháng giêng)

d-. Lễ Long Hoa (14-15 tháng 4)

e-. Lễ Kỷ Niệm tại Vô Vi Cảnh.

II.- Thánh Huấn dạy trong đàn Sóc Vọng.

III.- Thánh Huấn dạy về lập thành Cảnh Vô Vi.

IV.- Thánh Huấn dạy Đạo chung lưỡng phái.

V.- Thánh Huấn dạy Đạo Tràng và giải nghĩa.

VI.- Vi bằng giao Vô Vi Cảnh cho ông Nguyễn Văn Ngàn thay mặt cho Hội Thánh.
Vậy chúng tôi kính dưng lên cho Đại Đức xem xét lại và phê vào đặng chúng tôi xuất bản cuốn Đuốc Chơn Lý số 43 mùa Xuân (1er trimestre 1941).
ĐÔNG THÀNH SƯ NAM BẰNG SƯ
TRUNG QUẢN SƯ
BẮC CHIẾU SƯ TÂY RỢ SƯ

Chứng kiến:

Tòa Thánh Định Tường, le 7 Juin 1941

Chưởng Quản Cửu Trùng Đài

BỬU AN THIÊN

————————————d&c————————————

THÁNH TỰA
VÔ VI HIỆP THIÊN ĐÀI

Ngày 10 tháng 1 Annam 1941 (10 giờ trưa) [ĐCL.43/3]


THẤY TRỜI, TRỜI Ở TẠI ĐÂU?

Nầy mỗi con có lòng mộ Đạo, đã mấy năm rồi hằng cam chịu trọn lời cay đắng, chẳng nệ khó khăn, đó cũng là cái quyết chí làm cho nên việc cả. Việc cả đó là việc chi?

Có phải là việc làm cho thấy TRỜI? Cái tiếng nói đó cũng đã lâu rồi, mà hiện giờ trong thế gian cũng ít ai mà chịu học, chịu hành, chịu tin cho thấu, sao gọi là thấy TRỜI trong đó. Đó cũng chính là một cái điều dễ nói, dễ nghe, khó làm, khó thấy, là tại sao?

Có phải là tại phần đông bắt chước nhau mà ham nói. Cái bắt chước đó, cái ham nói đó, mỗi con xét coi có HẠI, có TỘI không? Có HẠI là hại cho mình làm không trúng Lý Chơn, có thế nào thấy TRỜI cho đặng?

Còn có TỘI, là tội đã biết nói thấy TRỜI mà sao lại không sợ Luật TRỜI, rồi trở lại khi TRỜI cũng trong lời nói đó. Thiệt Thầy cũng thảm cho mỗi con nào đứng vào hạng đó. Vậy mỗi con nghe Thầy nói đây, rồi mỗi con chịu khó xét lại coi thì mới biết cái chỗ sai, chỗ nhằm, rồi trong đó tự Tâm của mình mà lo liệu lấy. Chớ cái chỗ thấy TRỜI thiệt cũng không xa, nhưng mà cái đám cãi canh, cái lời nói bướng, nó cũng ở gần đây, day qua thì Đạo, ngó lại thì Đời; phàm tục, Thánh Tiên cũng trong người ta đó.

Thầy vì có lòng thương cho mỗi con hết lòng lo Đạo, nên Thầy chỉ cho cái chỗ thấy TRỜI, với cái điều nói thấy đặng cho mỗi con nghe, chớ Thầy giáng thế Kỳ Ba này, lập thành mối Đạo Thượng Cổ Huờn Nguyên, đổi dời xây chuyển, răn dạy đủ điều. Trong đó mỗi con phải biết rằng Thầy là một Đấng vô hình mà phải chịu làm ra cho có THỂ. Nếu mỗi con nào mà chịu nhìn, chịu Tín cái THỂ của Thầy lập ra đó là Chơn Thể, đặng cho mỗi đứa nương nhờ mà dắc nhau cho qua khỏi cái luồng tai ách, đặng hưởng thái bình.

Vậy trong Đàn đây, mỗi con có mặt tại đây, Thây hỏi vậy có đứa nào để lòng trọn nghe lời Thầy nói đó không ? để mặt dòm cho rõ CÁI THỂ của Thầy lập ra đây không ??. Này mỗi con ôi! Mỗi con về tới Hiệp Thiên Đài Vô Vi làm lễ ,Thầy cũng thương cho, song xét lại ít có ai mà chịu chỗ thấy đó, là gọi thấy TRỜI lập Đạo, cứ tuởng cho là vầy vậy đó thôi, rồi cũng trở lại cái đường cho là xưa nay là TU vậy. Tại vầy rồi cái TU vầy đành chịu vậy, cho tới chỗ TU rồi, là tu cho rồi, cho có, rồi trong đó cũng có một cái tiếng thấy TRỜI là tại sao mà phải nói, nói có phải là tại cái thấy mà không Tin, cái làm mà không xét, cái học mà không hành, cái đi không tới chỗ, đứng xây quanh rồi mang tội, cũng cho vậy thấy TRỜI.

Đây Thầy cho ra ít lời để đọc đặng suy cùng mới thấy nghe mỗi con.

THI RẰNG:

1- Thấy TRỜI, TRỜI ở tại đâu?

Thấy sao mà dám gọi cao hơn TRỜI?

Con ôi! nào muốn, thấy TRỜI

TRỜI ra cứu độ thế thời hiện đây.

2- Hễ Chơn Lý Một là Thầy,

Thầy đây, Trời đó có hoài dạy khuyên.

Dạy cho người giữ mối giềng,

Khuyên Đời đừng có cậy quyền hiếp nhau.

3- Tuy rằng lồng lộng TRỜI cao,

Cao là lời nói dạy trao tới hoài.

Vô hình nào có giống ai,

Khác hơn phàm tục, gọi tài vô biên.

4- Con nào có phước có duyên,

Có lòng lo Đạo Đức Hiền định Tâm.

Thì con đó gọi thấy nhằm,

Thấy TRỜI CHƠN LYÙdiệu thâm vô cùng.

5- Con trong mấy đứa bất tùng,

Dễ chi mà đặng thấy chưn nhiêm mầu.

Thiệt TRỜI cũng chẳng ở đâu,

Nơi người chơn thật trọn sau trước hiền.

6- Giả tâm đừng có khẫn nguyền,

Vì trong chỗ thấy dành riêng có ngằn.

Buông lời giành giựt nói năng,

Rằng ai cũng được thấy bằng như ai.

7- Đó là một đám nói sai,

Nếu trong sự thấy phải bày vậy đâu.

Nếu trong mà thấy nhiệm mầu,

Thì ai nấy độ nấy hầu sợ lo.

8- Cái này thành thử tự do,

Là do tự đắc thử so ngạnh nghề.

Thấy vầy rồi ngạo đời chê,

Thấy TRỜI sao lại chẳng ghê, tự quyền.

9- Đó là chỗ thấy đảo điên,

Cũng đành cho vậy phần riêng thấy TRỜI

Năm này Tân Tỵ nơi nơi,

Mỗi con nhìn lại thấy TRỜI hay chưa.?

10- Thấy cơ TRỜI chuyển không vừa,

TRỜI ban phước huệ, chẳng ưa giàu nghèo.

Cứ dò cơ Tạo Hóa theo,

Theo lòng trong sạch tránh điều bơn nhơ.

11- Thấy TRỜI chừng ấy ngẫn nhơ,

Ngẫn ngơ rồi tính dẹp mơ ước thầm.

Từ nầy sắp tới phải cam,

Là cam bề trọn kĩnh Tâm sợ TRỜI.

12- Tự nhiên chừng ấy thấy rồi,

Ấy là TRỜI Một với Người Ta chơn.

Nghĩ rồi đó vậy chi hơn,

Dầu cho thiệp thủy đăng sơn chẳng bằng.

13- Chỉ cho thấy vậy TRỜI rằng,

Rằng cơ Đạo Lý phát hoằng đạt minh.

Thấy TRỜI vậy đó phải tin,

Tin làm cho vẹn vẻ hình sạch trong.

14- Nên kêu TRỜI Đất dụng lòng,

Lòng cho được vậy ròng trong thấy TRỜI

Chỉ đây nhìn đó chớ rời,

Là đây đó Đạo, Đời vui với hờn.

15- Vui là Đạo chánh, Đời chơn,

Hờn nhau là tại mấy cơn thấy TRỜI.

Thấy không không thấy cũng rồi,

Hờn vui phải dẹp bớt lời vọng tha.

16- Chỉ rành Đời, Đạo nghĩ xa,

Độ gần coi rõ TRỜI Cha các loài.

Thấy cùng không thấy hỏi ai,

Hỏi ai là biết đặng nay có TRỜI.

17- Thấy nhìn xem trọn các nơi,

Cũng vì tại chỗ quên TRỜI thấy nhau.

Thấy TRỜI chừng đến khổ bao,

Đó là tại khốn rủ nhau vái TRỜI.

18- Muốn cho chừng thấy lỡ rồi,

Thấy TRỜI vậy đó qua rồi cũng quên.

Ngày nay trong lễ Hiệp Thiên,

Nghe lời Thầy dặn cần kiêng thấy TRỜI


ĐƯỢC, bài nầy con giao lại cho CA đặng nó coi rồi độ đó giải ra cho mỗi đứa có mặt làm lễ tại Hiệp Thiên Đài Vô Vi ngày 16 tới đây, giải rồi đồng đọc văn vần với nhau một lượt. Đọc rồi phát cho mỗi đứa có mặt tại giờ hành lễ đó, đọc rồi sẽ cúng./-

THĂNG


————————————d&c————————————
Ngày 6 tháng 12 Annam 1940 (3 giờ khuya) [ĐCL.43/7]

TRONG ĐỜI KHỔ TẠI ÍT TU


1- Trong Đời, khổ tại ít tu,

Ít tu nào dễ rõ ngu, biện hiền.

Cho nên vậy thấy khổ liền,

Khổ liền chịu thấy, mối giềng lại chê.

2- Mối là mối Đạo cảnh quê;

Giềng Tam Tài định luật phê phán rành.

Ít tu thì khổ vướng đành,

Đành cam bề khổ cạnh tranh chi vầy.

3- Phải chi trước chịu tin Thầy,

Thì đâu có đến đổi bày cạnh tranh.

Khổ lâu rồi khó kiếm lành;

Rồi theo sự dữ, dữ hành tới nơi.

4- Lành xa là tại bỏ TRỜI,

Lành trong Lý thiệt tại người ít ham.

Muốn lành thì bớt sự tham,

Muốn tham thì chịu dữ đam tới mình

5- Dầu cho lành đó khó nhìn,

Vì chưng lòng dạ cứ gìn giữ tham.

Đổ cho lành vậy khó làm,

Khó làm lành ít lại ham dữ nhiều.

6- Rồi cơn khổ nạn đánh liều,

Liều thân rồi cũng tiêu điều nghiệp tham.

Ngẫn ngơ phàm chẳng nên phàm,

Sống lây nhiều tội, thác nhằm chỗ mê.

7- Đó rồi ma quỉ thảm thê,

Hồn điên vía dại, là ghê gớm vầy.

Làm cho cảm náo động Thầy,

Là trong TRỜI Một, con bầy cãi cha.

8- Khổ người rồi tới quỉ ma,

Sống ưa làm dữ, thác sa tội tình.

Ví dầu nghe kệ u minh,

Cũng còn chưa tĩnh chưa bình tự kiêu.

9- Ít tu này mới có nhiều,

Nhiều sao thấy vậy nhiều đeo đớn nhiều.

Đương giờ ngọn Đuốc TRỜI khêu,

Đó là chỗ sáng chịu theo thì nhằm.

10- Nhằm rồi đâu có tối tâm,

Người ta trọn sáng có lầm lỗi đâu.

Thì đâu đến đổi gây sầu,

Thì đâu có thảm Đạo mầu nối nhau.

11- Đó là trước thấp sau cao,

Trước hòa sau thuận, nghèo giàu cũng vui.

Hòa theo CHƠN LÝ rõ mùi,

Thuận tùng cơn bỉ cực rồi thới lai.

12- Đó là chỉ cạn gần đây,

Gần đây nhìn đó gái trai cũng vầy.

Đặng nương vào một với Thầy,

Thầy ra mở dạy chỉ ngày, chỉ năm.

13- Ngày qua tháng lại thấy nhằm,

Năm rồi vận tới đừng ham cãi bàn.

Cứ noi cùng đó vững vàng,

Ngoài ra các việc mơ màng chớ mong.

14- Cuộc tuần huờn có, có thông,

Xây vần khắp cả cũng trong tay Thầy.

Tại lòng phàm tục chưa hay,

Tưởng cho là vậy rủi may sự thường.

15- Cho nên chẳng chịu kính nhường,

Chẳng kiêngTRỜI, PHẬTcứ lường gạt nhau.

Quẫn quanh rồi cũng đáo đầu,

Vay nhiều vốn trước thì sau quá lời

16- Quá đây rồi trả mãn đời,

Mãn đời chưa hết vào nơi Luân hồi.

Thầy xem xét đó nhiều rồi,

Con nào nói ít, nhớ lời đặng an.

17- An là đừng thở, đừng than,

Là an tới đó chịu mang chớ buồn.

Thiên Tào sổ bộ nào buông,

Người sanh thế hạ vui buồn rán cân.

18- Cân là cân xét cái thân,

Tại sao mà chịu lãnh phần chẳng vui.

Có cân thì thấy nặng rồi,

Nặng vì mình trước cãi TRỜI mới mang.

19- Nên đành đó vậy, vậy an,

Nhờ cân mới biết, biết càng nặng thêm.

Nặng lâu ngày thấm nỗi niềm,

Nỗi niềm tâm sự nổi chìm tại đây.

20- Muôn năm nhuần gội cơn nầy,

Cơn này Thầy nói vắn dài cả con,

Hết lời diệu ngọt nỉ non,

Dẹp tâm phàm bớt đặng mong bảo tồn.

21- Cả nhiều con dại tưởng khôn,

Tưởng làm như vậy rồi không ích gì.

Sụt sùi chỉ nỗi xiết chi,

TRỜI thương PHẬT thảm có gì gọi khôn.

22 Tính coi phàm tục xác hồn,

Xác hồn khôn dại có còn ra chi.

Xác hồn nào rõ hoan bi,

Đó là mới thiệt xác tri hồn tường.

23 Nghĩ suy hồn xác khó lường,

Khó lường chịu khó thấy đường thiệt hư.

Xác hồn hiệp với Chơn Như,

Đó là khỏi tục tốt tươi lạ thường.

24 Cuối năm Thầy chỉ một đường,

Cả con trần thế cần bương chãi cần.

Chãi bương cần lánh khổ trần,

Có tin cùng chẳng, nhìn thân của mình.

25 Tới đây đã hết năm Thìn,

Giờ khuya Tân Tỵ nhớ mình còn đây.

Tới lui vinh nhục buổi này,

Thấy rồi rõ cuộc lưng đầy thạnh suy.

Con đồng Thầy dặn rán ghi,

Ghi lòng cho trọn đừng khi thị thầm


ĐƯỢC, bài nầy con giao lại cho CA đặng nó in ra cho đồng nhi học thuộc lòng, đặng đọc tại giờ Dậu, ngày 29 cuối năm, còn Ngọ ngày đó thì đọc bài: “An an biến biến”, cũng đọc trước rồi sau hành lễ.

Năm Thiên Sư phải gởi cho các chủ Thánh Thất hay trước, còn tại đây cúng rồi phát ra cho Đạo coi mà học./


————————————d&c————————————

Ngày 12 Tháng 8 Annam 1939( 6 giờ sáng) [ĐCL.43/11]

CÓ TU SAU ĐẶNG HƯỞNG PHẦN

Này các con qui thuận Định Tường rán nghe Thầy dặn: nghe coi các con.

THI:

1- Các con rán để lòng nghe dặn,

Trước có tu sau đặng hưởng phần

Mấy lời Thầy chỉ, Thầy phân

Có răn có thưởng có phần phước riêng

2- Mỗi con chớ than phiền khó nhọc,

Gắng công lo lừa lọc phận mình.

Lọc lừa cho đúng thiệt tin,

Đó là mình tự cứu mình là hơn.

3- Thầy chẳng dạy đăng sơn thiệp thủy,

Thầy đã cho người chỉ rõ ràng;

Khó là cuộc biến sửa an,

Sửa cho an đặng vững vàng trọn vui.

4- Trong chỗ vững nhờ xuôi theo Lý,

Hiểu đặng mùi tự trị đừng nao;

Vui chung chẳng luận nghèo giàu,

Biết thân Đạo Đức khỏi hao tinh thần

5- Mỗi con được sớm mừng là vậy,

Vậy nhờ đây trước thấy rõ nhiều,

Khuyên cần rán nhắc nhau theo,

Theo lần tới chỗ tiêu diêu cõi trần.

6- Thầy sẵn có để phần là vậy,

Trước chỉ cho con thấy đặng lần;

Lần theo trong đó một chừng,

Đừng bôn chôn vội cũng đừng ngáo ngơ.

7- Mỗi con biết Thiên Cơ khó lậu,

Thầy ngày nay tỏ dấu lần lần;

Mỗi ngày Thầy mỗi đoán phân,

Là phân cho trẻ tự tân mỗi ngày.

8- Hễ biết Đạo, sợ Thầy thì dễ,

Nếu cả gan chẳng nễ thì lầm;

Tháng ngày lừa lọc diệu thâm,

Mỗi con biết sợ, biết tầm rõ thông.



9- Rõ thông hư thiệt chẳng đồng,

Thông điều báo ứng thiệt không tư vì,

Đã rằng Tạo Hóa Từ Bi,

Mỗi con có đọc nhiều khi chưa tường.

10- Tạo thành nhơn loại hóa phương,

Là phương hướng thiện tại LươngTâm người

Nết phàm quen nghiệp lã lơi,

Không kềm dục vọng cãi lời dạy trong.

11- Ngoài ra khẩu nghiệp quên phòng,

Từ Bi mở Đạo hết lòng dạy khuyên.

Viện câu từ thiện bi hiền,

Dễ ngươi trong đó vướng liền tội khi.

12- Nay Thầy chỉ chỗ Từ Bi,

Hoặc câu Tạo Hóa nhiều khi rẽ ròi,

Qui tùng thuận Lý rán soi,

Là soi theo chỗ buồn vui lúc này.

13- Soi rồi rõ cuộc chuyển xây,

Mỗi con biết đặng từ đây mới bền.

Thầy vì gạn lựa hư nên,

Đặng lo gầy dựng cho yên Đạo TRỜI.

14- Định Tường là có chỗ nơi,

Chỗ nơi Thầy lập, Đạo Trời dễ chi.

Muốn thành chánh quả thuận qui,

Thuận qui thì phải làm y theo lời.

15- Làm y mới rõ Đạo Trời,

Từ kim chí cổ gọi lời báu châu.

Kìa người lặn xuống biển sâu,

Người đi đến núi Đạo Mầu khó phăn

16- Trước khi Thầy có để rằng,

Rằng chơn báu lạ khó khăn mới thành.

NON CÔN SÔNG LỆ chỉ rành,

Ngày nay Thầy quyết lập thành tại đây.

17- Non cao biển rộng chỗ này,

Là Tâm cho trọn đủ đầy sự tin.

Kia đèn tỏ rõ Vạn Linh,

Bề trong mỗi đứa hỏi mình tỏ chưa.

18- Đó là chỗ hỏi nhặc thưa,

Là trong Tâm chí đảo lừa với siêng.

Cõi phàm đổi lại làm Tiên,

Là do sắp đặt bổn nguyên không lầm.

19- Khó là tại chẳng để Tâm,

Tới nơi Tòa Thánh lo thầm chuyện tư.

Tại vầy khó biện thiệt hư,

Tưởng cho dầu tới cũng như ở nhà.

20- Chẳng bền tại đó mà ra,

Chẳng siêu vì vậy Phật, ma không rành.

Đạo Trời có mối, có manh,

Người không có xét dễ rành được sao.

21- Trống trơn đường thẳng một màu,

Tại tâm còn vọng tự cao khó nhìn.

Tuy là kết rậm chữ Linh,

Chữ Linh thì có, thiệt Linh ít người.

22- Tháng ngày húng hính dễ ngươi,

Tưởng đem để đó có Trời độ cho.

Trước Thầy có chỉ phận trò,

Trò cho phải phận chịu lo giúp vùa.

23- Mỗi đều đừng có hơn thua,

Đó là chỗ phải người tua biết người.

Có danh, có Đạo, có Đời,

Có lo có lập, có Trời cứu cho.

24- Đó là chỗ phải phận trò,

Trò theo học Lý, Lý dò đục trong.

Mỗi con nào chẳng hết lòng,

Đến cơn Thầy gạn, đừng trông khẩn cầu.

25- Nói chừng hay trước chẳng lâu,

Vì cơ Tạo Hóa trước sau sẵn rồi.

Trước khuyên sau chỉ đủ lời,

Mỗi con nào rõ Đạo, Đời làm theo.

26- Một lòng cho thiệt thì siêu,

Giả tâm thì đọa, tự kiêu thì trầm.

Mỗi ngày thường rán hỏi Tâm,

Ngó nhìn Thiên Nhãn coi nhầm hay sai.

27- Ngưỡng triêm, triêm ngưỡng mỗi ngày,

Đó là chỗ xét thấy hoài không xa.

Đặt bày long trọng nguy nga,

Lòng không trọn thiệt, đó là giả tâm.

28- Tự kiêu là thói khi thầm,

Ngoài theo CHƠN LÝ, trong thầm mỵ ly.

Rõ ràng đứa vậy là khi,

Hễ khi nhiều bửa tội ghi án nhiều.

29- Viện lời cải lẽ hiêu hiêu,

Mà quên nhìn tại giảm tiêu Tinh Thần.

Chỉ sơ lớn nhỏ biết chừng,

Con nào qui thuận trọn mừng thì vui.

30- Đạo Đời đứa tới, đứa lui;

Thầy lo sắp đặt đầu đuôi có ngằn.

Chỉ chừng cho dễ biết phăn,

Ngày sau các trẻ khỏi than, khỏi phiền./-

————————————d&c————————————

I.

THÁNH HUẤN DẠY TRONG ĐÀN –



ĐẠI LỄ KỶ NIỆM
VÔ VI HIỆP THIÊN ĐÀI

Ngày 1 tháng 1 Annam 1941 (12 giờ trưa) [ĐCL.43/15]


NGÀY XUÂN NHỰT (Tân Tỵ)
1- Ngày Xuân nhựt Thầy khuyên cả thảy,

Rán mà suy nhớ lại cho cùng;

Đạo, Đời người thảy ở chung,

Mạng Trời không kể có dùng đặng chi!

2- Chi mà đặng ra nghì, người phải,

Phải mặt người đừng hại lẫn nhau;

Một Trời, Đời Đạo quãng bao,

Là bao trùm trọn dễ nào lọt ai.

3- Ngày Xuân nhựt vầy đây hiệp lễ,

Lễ Xuân đầu trần thế từ xưa;

Hiện nay Trời dạy ráng ngừa,

Ngừa ham vọng ước cho vừa sự riêng.

4- Đừng ước vậy thì duyên dễ nối,

Đặng trông nhờ cơ hội đồng Xuân.

Cho nên vầy thảy vậy mừng,

Vậy mừng phải vậy còn vưng chẳng tròn.



5- Để lời Thầy hỏi các con,

Ngày nay mừng vậy, phận còn đủ chưa?

Đó là Thầy hỏi đặng ngừa,

Ngừa tâm đứa vọng mà chưa biết mình.

6- Lẽ thì Thầy chẳng thuyết minh,

Để dành sau xử tội khinh dể thầm.

Các con giờ định hiểu nhằm,

Vì đâu Thầy nói tiếng thâm diệu vầy?

7- Định rành hiểu tột mới hay,

Là hay lời nói của Thầy vậy an.

Ích chi kình cự cản gàng,

Trời cao Đất rộng người ngang dễ gì.

8- Nói rồi con mỗi đứa ghi,

Ghi lòng rồi xét chớ nghi nghị bàn.

Tuy rằng Tân Tỵ mới sang,

Chớ kỳ cơ chuyển mật toàn đã lâu.

9- Đã lâu là khí tượng hầu,

Hầu năm nay mới bước đầu định qui.

Các bài lời dạy thiếu chi,

Thiếu chi là bọn có đi không về.

10- Tới năm này thấy bộn bề,

Đó là tại lỡ lầm nghe lũ tà,

Con đồng người phải thuận TA,

Thì đâu có đến đỗi ra vụng về.

11- Nói rồi, rồi mỗi con nghe,

Nghe rồi mỗi việc nhằm về tội ai?

Giờ nầy mỗi đứa có đây,

Có Thầy trong đó, rõ Thầy hay không?

12- Chớ trong phần cũng có lòng,

Một phần nghi nghị chưa đồng với nhau.

Ngày Xuân mà chẳng trọn màu,

Thì đâu có dễ về sau vụn vằng.

13- Gặp ghình rồi vướng thở than,

Là cho gặp vậy mới an nết phàm.

Ngó chừng con dại nữ nam,

Ước sao mà được phũi phàm nết na.

14- Một lời Trời, Phật nói ra,

Lẽ thì ai trọn Người Ta phải tùy.

Lẽ thì phải dứt tự khi,

Lẽ thì phải nhớ chuyện nguy năm rồi.

15- Năm rồi chuyện đó khúc nôi,

Thì con đồng mỗi xét coi cạn tình.

Đặng coi xét vậy xử mình,

Mình coi xử đặng thì vinh nhục rành.

16- Chí bền nương Đạo hóa sanh,

Ngày qua rồi việc Đạo thành công cao.

Đã hay nào có dễ nào,

Nhưng mà sự khó đừng nao ắt thành.

17- Khó làm cho đặng có danh,

Có danh người biết biện rành biến an.

Một đời người mới vậy toan,

Là toan làm vậy dẹp đàng lố lăng.

18- Con nào thì nấy liệu toan,

Người sanh nhằm buổi mở mang Đạo Trời

Chẳng kiêng người khó trọn người,

Thì đâu dễ đặng gìn nơi Đức Hiền.

19- Rồi theo quanh lộn tranh quyền,

Đó rồi than đó đành điên đảo rồi.

Lẽ ngày Xuân nhựt ít vui,

Vì trong Thầy xét ngậm ngùi nổi trôi.

20- Tới đây thì thấy vậy rồi,

Về ai nấy luận đua lời Phật ma.

Cho nên khó hiệp nhau là,

Là ra khỏi cửa Người Ta đổi rồi.

21- Cho vầy là sự nổi trôi,

Nói hoài hơn thiệt chịu trôi theo phàm.

Nổi trôi bề nói không nhàm,

Lòng thương Thầy dạy chịu làm chẳng hư.


ĐƯỢC, bài nầy con đọc tại giờ đây mỗi đứa nghe, rồi giao lại cho CA đặng nó in ra ít bổn cho mấy đứa có mặt làm lễ ngày Xuân tại đây. Còn Thiên Sư thì đem vào Đuốc Chơn Lý./-

————————————d&c————————————


Ngày 10 Tháng 12 Annam 1940 [ĐCL.43/18]

ĐẠO TRỜI VUI VẺ NÀO CHƠI !

Đạo Trời vui vẻ nào chơi !

Là không phải tập lã lơi như phàm.

1- Vui là biết tại nhằm đường phải.

Vẻ là thanh thế tại hiện thời,

Đó là vui vẻ tốt tươi,

Tại đời không muốn tìm vui mới buồn.

2- Con ôi! Cả nhìn khuôn Chơn Lý,

Ráng nhìn coi đặng nghỉ suy tường;

Chớ đừng có dạ cự đương,

Cự đương ngày lắm rồi vương chỗ lầm.

3- Chỗ lầm đó nhiều năm nhiều thấy,

Thấy vậy sao cứ vậy không rời,

Rồi toan đánh đổ Đạo Trời,

Thì con cả hỏi lại nơi phận mình.

4- Hỏi cho tột mới nhìn đặng kỹ,

Nhìn kỹ coi còn ỷ chỗ nào,

Chỗ nào mà gọi mình cao,

Chỗ nào là mạnh thì mau nhớ Trời.

5- Nhớ cho kịp Ta Người không rẻ,

Nếu bơ thờ chậm trễ thì nguy;

Kiếp tu thành tựu dễ gì

Khó làm rán tập thì nguy chẳng gần.

6- Tu chẳng dễ kềm thân đừng ỷ,

Chẳng ỷ là mình trị lấy mình;

Trị mình đừng vội ham vinh,

Cũng đừng mê nhục cứ tin Đạo Trời.

7- Ham vinh quá lầm nơi nghiệt ác,

Mê nhục nhiều mộc mạc trần ai;

Đó là Thầy chỉ trọn hai,

Rán ngừa cho lắm, vậy trai gái gìn.

8- Gìn cho chặc lời minh tiếng biện,

Khỏi sai lầm, khỏi luyến lụy thân,

Mỗi con cần mỗi vậy cần,

Bỏ qua lời biện minh trần ắt tiêu.

9- Tiêu hao khí đành theo một lũ,

Lũ quên Thầy, bội Chủ, phản Cha;

Đã đành vậy cũng khó qua,

Là Thiên Điều định gạn ra có phần.

10- Nên Thầy dặn ráng cần coi đó,

Đó các điều còn có chẳng xa;

Nếu tin Trời Một Lý hòa

Thì xa lũ đó mình ra khỏi vòng.

11- Khỏi vòng đặng thì xong vậy đó,

Vậy đó đừng quên chỗ tự tân;

Với nhau vầy đạo đức thần,

Thần tươi, khí vượng, tinh thuần, hạo khai.



12- Tân Xuân Thầy tỏ một bài,

Đặng mừng con dại biết Thầy dạy tu.

Đó là dại chẳng phải ngu,

Dại mà biết sợ, sợ lâu tới hiền.

13- Cả con nào thấm nghe liền,

Thấm nghe lời nói diệu truyền ứng tâm.

Rộng dài mầu nhiệm cao thâm,

Một câu Thầy chỉ nhập tâm đáng thờ.

14- Đáng thờ lời nói tích cơ,

Thiên tuần Lý hiệp đó nhờ cậy trông.

Chớ nên ngơ ngẫn tấm lòng,

Đặng cho mình dại mà mong cãi bàn.

15- Dại thì chịu dại chớ than,

Dại theo Trời Đất thế gian khó bì.

Dại này thấy nhục chẳng khi,

Thấy vinh chẳng bỏ tại vì biết Thân.

16- Thấy thân người nhục khổ trần,

Chẳng khi là tại xét Thân còn phàm.

Thấy vinh dầu bỏ không nhàm,

Vì thân mình biết khó làm chuyện vinh.

17- Để ai vinh nhục mặc tình,

Thân mình mình tự nhứt tin Đạo Trời.

Rồi suy gẫm sự nực cười,

Là vinh là nhục Ta Người hại nhau.

18- Tin Trời, dầu dại chẳng nao,

Đó là chịu dại ra vào thành thơi.

Chịu mang tiếng dại lánh đời

Phải nào quá dại nghe lời muội mê.

19- Tin Trời, thì Đạo dễ nghe,

Nghe rồi không vội cãi chê nghị bàn.

Để coi chừng mấy nẽo đàng,

Đàng khôn xảo quyệt, đàng ngang ngạnh nghề.

20- Mỗi đàng nẽo đó thảm thê,

Cũng vì cự chống rằng chê dại khờ.

Lướt xông nào kể bụi bờ,

Làm cho rõ mặt không ngờ nạn to.

21- Cũng vì khôn xảo quyệt do,

Do về ngang ngạnh nghề so sánh kình.

Phải chi Thầy dạy rán nhìn,

Nhìn coi làm dại giả hình cho qua.

22- Hiện giờ trong cõi Giái ba,

Ráng nương bề chịu dại mà có nên.

Chớ người ai cũng tuổi tên,

Cớ sao chịu dại, vì trên sợ Trời.

23- Có chi mà xấu hỗ đời,

Vì thân người thiệt dưới Trời phải tuân.

Tuân nghe làm vững an mừng,

Dại rồi nên đó có chừng bao lâu.

24- Tân Xuân thời khí chí hầu,

Vận lâm bình định tại câu chơn truyền.

An bề xuôi một về duyên,

Là duyên với Đạo, Đức riêng dặt dè.

Vậy là vui vẻ nhờ nghe,

Nhờ nghe Thầy nói chớ mê tục phàm.


ĐƯỢC, bài nầy con giao lại cho CA, đặng nó in cho đồng nhi học thuộc lòng, đặng đọc tại giờ Tý lễ Tân Xuân ngày 1 tháng 1 năm Tân Tỵ đọc rồi bãi đàn; rồi phát ra cho Đạo coi mà học, còn Thiên Sư thì gởi cho các chủ Thánh Thất mỗi người một bổn.

- Còn giờ Mẹo ngày 1 tháng 1 thì đọc bài : Tam Kỳ Phổ Độ hồng ân.

- Giờ Ngọ thì đọc bài: Đời hỗn tạp tranh đua dời đỗi trong lịch sử.

Hai bài này cũng đọc trước giờ cúng, ai chứng đàn thì nấy đọc trước./.


————————————d&c————————————
Ngày 11 tháng 12 Annam 1940 (3 giờ chiều) [ĐCL.43/21]

CÁC CON NGÀY MỘT LỚN HOÀI


1- Các con ngày một lớn hoài,

Ngày khai niên định năm này mấy năm?

Mậu Dần, Kỷ Mão tánh tâm,

Là tâm tánh phải bớt phàm tục đi.

2- Đặng nương theo trọn thời kỳ,

Đó là tu thiệt; thiệt vì chẳng ngoa.

Năm nào tới bữa mồng ba,

Thầy cho đờn nhịp, Đạo ca thi bài.

3- Mở vui trong đó một ngày,

Một ngày vui đó nhớ hoài vậy luôn.

Dầu cho rũi gặp tai luồng,

Qua rồi cũng rán nhớ nguồn cội CHƠN.

4- Hòa khai niên hội trình tường,

Từ nay trong mỗi đứa đừng cãi canh.

Đạo truyền Chơn Lý hữu danh,

Không hòa không hội khó rành tại đâu.

5- Tại đâu mà dốt Đạo Mầu?

Tại đâu mà lại rối đầu rối đuôi.

Hòa tâm hội ý rõ rồi,

Thì trong vận khí Đất Trời dễ xem.

6- Con nào thì phận nấy thêm,

Là thêm sự cảm thích đem tới cùng.

Tới này là tới thỉ chung,

Cùng nơi tột chỗ phận dùng chẳng sai.

7- Đạo tuy là nói rộng dài,

Gom vào trong nội chữ TÀI ĐỨC TÂM.

Xét ba chữ đó cho nhầm,

Nhằm ai thì nấy nghiệm tâm tu hành.

8- TÀI nầy chẳng phải lập danh,

TÀI hay giúp trọn Đạo sanh mỗi ngày.

Mỗi người dầu gái dầu trai,

Xét trong TÀI đó thì ai cũng đều.

9- Cũng đều có một tài theo,

Ngặt làm cho Đạo, thấy đều giấu riêng.

ĐỨC minh lời chánh chơn hiền,

Mỗi ai đều mỗi có liền chẳng không.

10- Tại chưng lòng chẳng hết lòng,

ĐỨC minh mặc ĐỨC người không chí hòa.

Tại vầy gây tội lỗi ra,

Là quên ĐỨC hạnh người ta khó bền.

11- TÂM thành Đời, Đạo cũng nên,

Đó là có nói, nói quên sự thành.

Cho nên Đời, Đạo chẳng rành,

Vì TÂM đã vọng ngày sanh lỗi nhiều.

12- Mấy câu, mấy chữ dạy điều,

Điều trong lẽ xét chơn nhiều ít đây.

Sự tu nầy mấy năm nầy,

Mỗi con nầy nhớ câu vầy mấy câu.

13- Nhớ rồi năm ấy bấy lâu,

Bấy lâu Thầy dạy tại sao chẳng làm.

Đến cơn nầy xét ra phàm

Còn chưa chịu bớt bề kham chỗ nào.

14- Ngó qua nhìn lại nghèo giàu,

Đổi liền thay đó cùng nhau buổi đời.

Khác nào như giựt giành chơi,

Làm cho nhọc sức mỏn hơi rồi đùa.

15- Nghĩ thầm nào có ăn thua,

Rồi đồng sanh đó lấn đua chi vầy.

Ngó quanh dòm lại thân này,

Sớm than chiều thở hết ngày lại đêm.

16- Con nào cần nghĩ nghị xem,

Thôi thời chớ vội kiếm tìm ngược ngang.

Xuôi theo Máy Tạo cho nhàn,

Rảnh rang vầy lại đấp đàng lập công.

17- Đặng chung nhau hưởng cuộc đồng,

Đồng tuân mạng Đức Hóa Công một bề.

Mỗi ngày rành sự phán phê,

Thầy ra lời dạy dễ nghe dễ tầm.

18- Lớn hình xác độ tháng năm,

Tuổi càng thêm lớn Đạo tâm rán hành.

Đó là người lớn thân lành,

Đừng ham lớn dữ giựt giành uổng công.

19- Làm lành vậy ít ai tôn,

Song đều phải trọng, tội dồn khổ vây.

Thoát thân nấy xét vậy vầy,

Dầu cho lớn nhỏ cũng hay một lần.

20- Một lần là một lần thân,

Thân mình hay biết luận cân các điều.

Chớ đừng có dạ trớ trêu,

Rồi liên lụy xảo hình kiêu trổ ngoài.

21- Lụy là chịu lụy trả vay,

Xảo ngoa ngày lắm, lắm bày đặt Mê.

Hình kiêu dạng thấy ê hề,

Trỗ ra ngoài trọn, dầu chê cũng cường.

22- Cho nên khó thiệt tin thường,

Khó xong đời một, lũ cường hoại kiêu.

Rốt rồi tội xử danh tiêu,

Còn chi mà lại chắc chiu thứ này.

23- Khai niên ngày lễ năm nầy,

Mỗi con nào nhớ Đạo Thầy rán TU.

Tiếng lành danh tặng ngàn thu,

Kiếp tu ngày tháng ngán lâu đặng nào.

Đạo Thầy Chơn Lý gọi cao,

Con nào biết gọi thì trau chí bền.

ĐƯỢC, bài nầy con giao lại cho CA, đặng nó in ra phát cho đồng nhi học đặng đọc tại Thời Tý tối mồng 3 rạng mồng 4 gọi là ngày lễ Khai Niên năm Tân Tỵ tới đây. Đọc rồi cũng phát ra cho Đạo coi mà học, còn Thiên Sư thì gởi trước cho các chủ Thánh Thất mỗi người một bổn.

Trong ngày 3 lễ khai niên Thầy cũng cho phép đem hết mấy bài Thầy kêu tên từ đứa mà dạy chung từ năm Mậu Dần đến nay, phải đem ra đọc đặng đờn theo cho rập gọi là ngày khai niên Thầy kêu chừng nhắc lại./.


————————————d&c————————————
Ngày 26 tháng 01 năm 1939 (8 giờ tối) [ĐCL.43/25]

(KIỂM DUYỆT)

Vậy Thầy cũng rộng lòng quá thương mà chìu lòng của các con cho đến đỗi, đứa nói đường xa không thể đến Thánh Tòa học đạo được, nên Thầy chuyển lập Đạo Tràng các nơi cho tiện bề các con học hỏi, đặng ngày sau khỏi trách Thầy.

Vậy mà từ ngày Thầy lập Đạo Tràng ra đến nay đã trót một năm mà coi lại học thì ít, bỏ thì nhiều, lại còn một nỗi than phiền là khác; đứa nghèo thì lo thiếu hụt, đứa giàu sang thì mắc ràng buộc gia đình, thì cả hai đều trớt hết, rồi rốt cuộc Tuần hoàn thưởng phạt cũng trở lại kêu Trời, mà quên rằng mình chê Trời là không màng học đạo đó. Thầy đã nhiều phen than thở khuyên nhũ hết lời, trông cho mỗi đứa biết sợ Trời đặng tu hành cho thoát tục. Ấy là một điều ao ước của Thầy từ thuở nào đến giờ, mà hiện nay ngó lại thì chưa thấy được bao nhiêu là quyết chí. Tại vậy nên phải chịu thấp hèn thua sút những bọn Bàn Môn, rồi lại mắc mưu mà hại mình là khác, rồi còn trông chi cho tỏ rạng danh Thầy bày ra truyền Đạo cứu đời. Các con nghe rồi xét lại hỏi rành, coi cái hư cái tệ đó tại Thầy hay là tại các con. Hiện giờ Thầy đã nói Thầy ngự tại đây, mượn tay người mà dạy đạo, nếu đứa nào chịu Tin như vậy thì đứa đó có ngày sẽ đặng gần Thầy, còn đứa nào không tin, kiếm điều kích bác, khoe giỏi nói hay mà quên mình chưa rồi phận sự, đây Thầy nói cho tột Lý cho các con nghe chung mà lo liệu, cái kiếp sống của mỗi con đây gặp Thầy, gặp đạo, thiệt hư thấy rõ, bài vở chỉ rành mà chê xa chê thấp, rồi chẳng may một ngày kia nhắm mắt rồi, có chắc là gặp đặng Thầy hay không, theo lẽ Thầy tưởng cho mấy đứa đó phải chịu đọa nhãn tiền, hoặc là luân hồi là khác. Theo Luật Thiên điều đó là tội khi Thiên, khó bề tránh khỏi. Nếu như đứa nào có lòng khi Thiên mà khỏi tội, thì cái quyền thưởng phạt nó sẽ ra sao? Nếu mất cái quyền thưởng phạt đó thì nhơn loại đây ra sao? Còn chi tín ngưỡng? Đạo Lý đảo điên. Người với Ta giết nhau rồi còn ai sống? Đó là Thầy hỏi trước, hỏi sau đặng cho hết lòng các trẻ, chớ Luật Thiên đình có dễ chi mà cải đặng, nhưng có một điều là tự hối thính tùng mới may gỡ lần chút ít.

Vậy Thầy khuyên cả thảy ráng nghe rồi nói lại với nhau đặng thử coi ai là mạnh hơn TRỜI cho biết.
ĐƯỢC, bài nầy con biểu CA nó in ra gởi cho các chủ Thánh Thất chẳng luận Tôn Giáo nào, hễ biết ai thì gởi cho nấy, còn tại Thánh Tòa thì đọc tại Đạo tràng ngày 30 tới đây, rồi cũng phát ra cho Đạo học./ -Thăng-

————————————d&c————————————


Ngày 11 tháng 12 Annam 1940 (1 giờ khuya) [ĐCL.43/27]
TRỜI NAM ĐẤT THIỆM VUI THẦM
Nầy các con. Năm Canh Thìn gần mãn, Tân Tỵ sẽ bước sang, có lẽ các con cũng rõ đặng ít nhiều trong cơ mầu nhiệm chớ, đó là Thầy hỏi đặng gióng lòng các con thử coi có biết sợ TRỜI hay là không sợ đó, chớ cơ mầu nhiệm của Thầy, ít tu dễ gì hiểu thấu, huống hồ gì hạng không tu nói thì cho có nói.

Vậy Thầy cho ra một bài kêu tên từ đứa, tỏa cách Đạo mầu các con nghe rồi biết lấy.


THI RẰNG:
1- TRỜI Nam, Đất Thiệm vui thầm,

Là vui mối Đạo, CA cầm ĐƯỢC yên.

KIM thừa cổ vụ hóa nguyên,

LAI tùng cơ hội, cố kiên Đạo TRỜI.

2- NGÀN thu vững bước không rời,

LỘNG tâm đừng đổi vậy người mới thanh.

TAM nguơn lời Đạo Lý rành,

HIỆP cùng không hiệp, dữ lành có nơi.

3- NGÔ ôi! Người ở giữa Trời,

THÀNH đây giữ vẹn thấy rồi chuyện qua.

BẰNG an sợ đó khó hòa,

RỢ kềm tâm lại nhìn xa thấy gần.

4- NĂM dài, ngày trọn tháng cân,

TRƯỢNG noi đường thẳng có thần hộ cho.

VÂN hà thới cuộc liệu lo,

CHẮC tin bền cậy ráng do mạng Trời.

5- THIẾT đừng quá sự lã lơi,

DẬU (1) đây là đủ kiếp người hạng Ta.

DẬU (2) Thầy thường chế lỗi qua,

THIỆT lòng không sái nhớ Cha Đại Từ.

6- HOA lành cảnh đẹp nhớ như,

BIỆN (3) phân tà chánh phước dư tội mòn.

BIỆN (4) đừng có dạ thon von,

NIỆM câu thần huệ sắc son cho bền.

7- THÌNH lòng trong sạch mới nên,

HÀNG ôn thế sự ráng quên đặng nhờ.

CỬU tuân theo vận ứng cơ,

LỘC đây Trời sẵn đợi chờ thưởng cho.

8- Nhắc lời THU với VÂN lo,

CẦN đâu dạy đó tự do kỉnh thành.

LÀNH lo cho vững phận lành,

TỴ nguy thì ráng nghiệm rành chớ quên.

9- THÂN bền lòng nhớ tuổi tên,

TỐT tươi là Đạo đức nên bởi hành.

LƯƠNG tâm cần ráng hỏi rành,

KIỆT ôi! đừng vậy mà sanh thảm sầu.

10- KHIẾM lời ngon ngọt dặn lâu,

ĐÃNH chung đừng mến họa sâu khỏi vào.

HIỂU tường này trước nọ sau,

ĐỂ tâm về trọn Đạo mau thấy kề.

11- NINH này Thầy nói con nghe,

MINH rồi hư thiệt tại phe đảng nhiều.

KIÊN tâm dè dặt các điều,

TRI tình huynh đệ người theo ý người.

12- NỮ nam đồng một con Trời,

THIỆN duyên thì hưởng, ác đời đọa luôn.

THỐNG con đừng có dạ buồn,

KIỀU kia còn nhọc rán tường sự duyên.

13- LỢI là thế lợi tự nhiên,

CỦA đời tuy có, Đạo nguyên khó tìm.

ĐỘ điều trong sạch cổ kim,

CẢI bàn chi lắm rồi thêm sự hờn.

14- LƯỢNG lòng cho trọn nghĩa nhơn,

THẤM lâu rồi biết tiếng đờn nhặc khoan.

Chung lời Thầy chỉ lưỡng ban,

Con đồng trong cuộc sắp sang nhớ vầy.

15- Tên nầy phận nọ nói đây,

Đời sau, Đạo trước cũng xây chạy vòng.

Con người ta chịu ở trong,

Là trong vòng luật hết lòng sợ lo.

16- Đặng kềm tâm định vững cho,

Cho cùng tới trọn đừng lo vọng cầu.

Máy Trời, nào có bao lâu,

Người sanh bảy chục gạn đâu mấy người.

17- Nghĩ coi rồi thảm Ta Người,

Có chi mà gọi cái đời cạnh tranh.

Phải toan tìm chỗ nơi lành,

Cậy nhờ răn dạy bình sanh mới tròn.

18- Năm này Tân Tỵ ớ con!

Ớ con nào nhớ mất còn tại đâu.

Nghĩ suy lời Lý nhiệm mầu,

Nghĩ cùng suy cạn cúi đầu CHỊU TIN.

19- Đặng an bề một lo gìn,

Một bề không đổi không kình cự đương.

Đạo Trời là Lý phô trương,

Chỉ bày cho trọn chẳng lường gạt ai.

20- Nếu tin nếu vậy cậy hoài,

Thì đâu có đến đổi tài hạnh tiêu.

Chẳng tin nào khác đánh liều,

Thôi thì hết đợi chờ kêu vái TRỜI.

21- Vì chưng trước có dặn rồi,

Dặn rồi không kể đành trôi nổi đành.

Năm nào Thầy cũng nêu danh,

Con nào biết Đạo, thấy rành dặn chung.


ĐƯỢC, bài nầy con giao lại cho CA đặng nó in ra cho đồng nhi học đặng đọc tại ngày khai niên, đọc tại giờ hai con ra lạy Thầy, đọc rồi cúng, rồi sau sẽ đọc bài khai niên, trong đó Thầy lựa tên cho hạp đặng kêu gọi làm đề, dầu còn sống hay là qua đời, cũng là kêu cả, là một dấu để mầu nhiệm đạo quí ít tu khó hiểu nghe đó ráng dò, đừng có thấy nói vậy mà tưởng cho mình vậy, coi vậy xét mình độ đời, thấy Đạo mầu nhiệm để tâm mới là được gọi biết.

Thiên Sư phải gởi cho các Chủ Thánh Thất mỗi người một bổn rồi cũng để vào Đuốc Chơn Lý./.


————————————d&c————————————

CHÂU ĐỐC,

Mồng 1 tháng giêng Tân Vì (1931) [ĐCL.43/31]
VÂN thừa hạt giá đáo trần ai,

TRUNG Ngủ Thường gia ngã thệ hoài;

TỬ đệ chí lâm Bồng đảo cảnh,

Lai đàn tương mách Đạo Tam Tài.


TRƯỜNG THIÊN:
1- Trăng thanh gió mát thừa nhàn,

Dạo chơi đất tục há màng lợi danh.

Trần ai thương hỡi chúng sanh,

Đắm nơi bể khổ lụy mình không hay.

2- Mãn ham chữ sắc chữ tài,

Đua tranh vật chất họa tai liền liền.

Làm cho cảm động Thần Tiên,

Lìa non xuống thế mà khuyên ít lời.

3- Ai ai sanh ở trong đời,

Làm lành, lánh dữ, Phật Trời chứng minh.

Trên cao lưới rộng thinh thinh,

Hằng ngày bũa khắp sanh linh khôn tường.

4- Khuyên từ: Sĩ, Nông, Công, Thương

Từ dân tứ thú trong trường thế gian.

Sĩ thời nghiên bút luận bàn,

Noi gương Dương Chấn ngàn vàng thanh bai.

5- NÔNG thời cuộc nguyệt, cày mây,

Ruộng Y,ruộng Doãn, ngày ngày thương dân

CÔNG thời nghiệp khá chuyên cần,

Làm ăn thủ phận lần lần tu thân.

6- THƯƠNG thời nên biết cán cân,

Lường cân tráo đấu, họa căn khó từ.

Muốn cho mọi việc không hư,

Đừng gây quả báo bấy chừ mới an.

7- Làm sao luyện đá hóa vàng,

Tìm đàng CHƠN LÝ, lánh đàng dị đoan.

Cho hay ở cõi Dinh hoàn,

Cuộc đời giấc mộng, giàu sang ích gì.

8- Ai mà trăm tuổi đặng tri,

Nhơn sanh thất thập một kỳ lai hy.

Có lúc thạnh, có lúc suy,

Đố ai chạy khỏi đàng đi cõi trần.

9- Ở trần phải nhuốm mùi trần,

Linh lang bễ ái, nguồn ân buộc người.

Mãn ham sắc đẹp hoa tươi,

Nào lo cho phận khóc cười về sau.

10- Cõi trần là cõi khoe màu,

Nói càng chua xót, dạ bào không an.

Lòng người dục vọng đa mang,

Mãng lo phú quí vinh vang thường ngày.

11- Có ai ăn thẳng ở ngay,

Tích lo điều thiện lánh rày hổ man.

Muốn cho đừng có tiếng than,

Trau giồi Đạo Đức, mới an lòng sầu.

12- Đạo là một mối cao sâu,

Nào ai rõ đặng nhiệm mầu Hóa công.

Từ khai Thiên Địa vừa xong,

Đạo đà có mối chia đồng từ đây.

13- Đất mà nuôi đặng cỏ cây,

Đạo truyền dưới thế làm thầy chúng sanh.

Đạo thường hay dạy làm lành,

Người mà biết Đạo, mới thành phẩm cao.

14- Đạo Bát chánh nên giồi trau,

Ấy là công quả bước mau đàng đời.

Đạo là vật báu của TRỜI,

Còn TRỜI, còn ĐẤT, Đạo thời còn theo.

15- Đạo là thoàn, Đức là chèo,

Muốn an thoàn Đạo, Đức chèo dây loan.

Đức thường bũa khắp nhơn gian,

Nước non cẩm tú, giang san đẹp mày.

16- Muốn cho nhơn loại vui thay,

Hòa bình hai chữ đức dày ban ân.

Đức là một mối thiên luân,

Vua, quan nhơn đức, muôn dân trọn giềng.

17- Gia đình con thảo cha hiền,

Cũng nhờ đức hạnh mới yên Đạo nhà.

Vợ chồng kỉnh trọng thuận hòa,

Cũng nhờ đức hạnh trong nhà mà ra.

18- Gia đình xã hội điều hòa,

Nước nhà đặng đức âu ca hằng ngày.

Nhà mà đặng đức phước thay,

Trên hòa dưới thuận trong ngoài đều vui.

19- Kẻ biết Đạo, đã thông mùi,

Thiên kim vạn lượng đổi thôi đặng nào.

Người mà đức hạnh thường trau,

Quỉ thần kiên tục Thiên tào ban ân.

20- Muốn cho Đạo Đức gồm thâu,

Người tua tĩnh giấc nẽo trần khá tu,

Ở trần lượm lặt công phu,

Tuy là ở thế trì phu phận trường.

21- Khá nên học chước Trương Lương,

Công danh là bã mùi hương vị trầm.

Áo gai nón sắng, thân bần,

Tìm nơi ẩn tích chẳng cần nhục vinh.

22- Hằng lo tu niệm Huỳnh Đình,

Hy di một giấc, phù sinh nhẹ lòng.

Hiu hiu gió mát, trăng trong,

Mản vui làm bạn bá tòng dựa khe.

23- Oanh ngâm, suối chảy re re,

Gà kêu phụng múa rừng tre tham thiền.

Ta nay vui Đạo đào nguyên,

Phú thi, huỳnh hạc, Thánh Hiền vui riêng.

24- Ai mà học chí Thần Tiên,

Tiêu diêu tuế nguyệt khắp miền Càn Khôn.

Ta nay vưng lịnh Chí Tôn,

Nhành dương, giọt nước, non Côn độ người.

25- Lửa lòng nên tắt đừng khươi,

Màn trần tục lụy, tiếng cười thiên thu.

Muốn cho vẹn vẻ công phu,

Ta khuyên người thế chữ TU làm đầu./-

————————————d&c————————————
Ngày 19 tháng 1 Annam 1941 (8 giờ trưa) [ĐCL.43/34]
ĐẶT KINH LÀM SÁCH MUÔN ĐỜI
Ngả Văn Xương Đế Quân, giáng Đàn chào chư Hiền Nam, Nữ.
1- Đặt kinh làm sách muôn ĐỜI,

Bài Văn Xương hiệu tỉnh người bấy lâu,

Vì nay có hội Đáo Đầu,

Vưng lời Ngọc Đế triệu hầu Vô Vi.

2 - Xét xem trong bọn tu trì,

Các chi ,các phái Tam Kỳ trọn phân.

Chiếu theo Điều Luật ân cần,

Đọa siêu đều thảy bình phân chán chường.

3 - Đặng cho người thế tục tường,

Rõ coi TRỜI lập Định Tường vô tư.

Ngó nhìn ít kẻ phước dư,

Còn phe tội quá chuyển đưa dập dìu.

4- Đời coi thấy vậy than nhiều,

Than nhiều thì biết, Luật Điều thì chê.

Tới Kỳ Tân Tỵ Thầy phê,

Chư Thần thâu lại dẹp phe đảng cường.

5 - Đặng cho người Thiệt Tin Thường,

Còn bao nhiêu vậy lo lường lập ra.

Cuối cùng đời gọi Nguơn Ba,

Tuần ư vận khí chuyển Ta độ Người.

6 - Ta đây là Sứ Mạng TRỜI,

Thừa cơ độ thế mấy đời trãi qua.

Hiện giờ cơ hội gần , xa

Thầy lo gom lại, chung hòa tại Nam

7- Sửa yên đời dẹp mê phàm,

Là danh lợi ác không nhàm bấy lâu.

Phải cho một lúc đáo đầu,

Đặng cho người thấy ngán sầu sự tham.

8- Buổi này dầu Nữ dầu Nam,

Muốn thân bình tịnh rán ham sự hòa.

Trên thì thờ phượng Một Cha,

Dưới tùng Chơn Lý, đó là tự tân.

9- Trãi sang ngày lụn tháng lần,

Lần coi mình đặng hưởng phần nạn tai.

Rõ vầy vui vậy mới hay,

Là hay Đạo mới vững tài hiệp Tâm.

10- Bấy lâu thầm tính lo thầm,

Thầm lo danh lợi tại phàm khổ thân.

Nhớ câu ai phước có phần,

Còn ai vô phước sẵn phần như không.

11- Xét coi lòng tự hỏi lòng,

Đồng nhau về MỘT lập công tu hành.

Đó rồi đời bớt cạnh tranh,

Lớn làm gương nhỏ thiệt thành mẫu khuôn.

12- Chia ra Đời, Đạo vui buồn,

Thầm rồi tỷ lại người buông nết hèn.

Tưởng lầm vậy đó đời khen,

Ngày nay dòm lại quá hèn hạ hư.

13- Cạn lời chung thỉ biện tư,

Thì Chư Hiền độ sánh như vậy tường.

Hễ tu thì trước chọn đường,

Đường đây TRỜI lập cần nương náu nhờ.

14- Tuy rằng gọi máy Huyền Cơ,

Hễ lòng tin trọn gọi bờ cõi Tâm.

Cầm nương náu vậy âm thầm,

Dò đâu gặp đó khỏi tầm cho xa.

15- Một Trời, một Đạo truyền ra,

Một bề CHƠN LÝ, đó là một Ngôi.

Hiệp nhau ngoài trọn trong rồi,

Thì trên NGÔI MỘT rõ Đời, Đạo thanh.

16- Ít ai mà hiểu đặng rành,

Tưởng tâm phàm một cứ giành giựt nhau.

Ta vì ngày phán định giao,

Thiên Đài trở lại trước sau cạn lời.

17- Bấy lâu vì phận khuyên đời,

Nay về chung hiệp gìn nơi Luật Hình.

Hưng suy thời cuộc thế tình,

Mỗi ngày lo chuyển , lo đình gạn phân.

18- Tỏ lời ai nấy liệu thân,

Có nghe lời nói vậy đừng có ngang.

Xuôi bề cho đặng vững an,

Vì cơ Tạo Hóa cảng gàng đặng đâu.


Vậy trước Hiệp Thiên Đài Vô Vi, Ta làm lễ Đức Chí Tôn, xin kiếu chư Hiền Nam, Nữ.

ĐƯỢC, bài nầy con giao lại cho CA đặng nó in ra đọc tại Đạo tràng ngày 14 tới đây cho Đạo nghe chung./.


————————————d&c————————————
Ngày 17 tháng 9 Annam 1939 (12 giờ khuya) [ĐCL.43/37]
DỂ NGƯƠI, NÓNG NẢY, TỰ THỊ
Nầy mỗi con nào còn tánh dễ ngươi, có lòng tự thị, tánh nóng không dằn, lời gian chẳng dẹp, thì tự mình hỏi lại coi có tội hay không, đó là Thầy hỏi thử lòng mỗi con cho biết, chớ Thầy đã thường thấy mỗi con hay còn cái thói dựa hơi Thầy trọng dụng ân xá, dỗ dành, tại vậy nên khó bề về Vô Vi cho trọn, dầu Thầy có thương, có chế, có trừ cho mấy đi nữa, thì cũng còn lẫn lộn ở từ ngôi Tiên Phật lui tới Niết Bàn, rồi cũng phải chịu ra vào nơi thế hạ, là tại sao, mỗi con có hiểu chăng? cũng là tại lời nói không dè, chẳng thương người thấp, chẳng kể nhơn từ, nói được gọi hay, làm hư tưởng phải, bởi đó nên Thầy phải lập ra cơ thể Tòa Thánh Định Tường, chỉ rành ngôi phẩm thưởng phạt, phân rành kiếp sanh tiền, dầu nam, dầu nữ, dễ thấy dễ nghe, đó là chỗ mỗi con khỏi chối.

Vậy mỗi con phải ráng nghe lời Thầy nói trên đây gọi là nhắc đó thì phải ráng dằn lần tánh nóng, bỏ bớt thói tham mê, đặng cho Thầy được vui lòng là khỏi thở than, vì mỗi con có tu mà không trọn là vậy đó. Ngày Liên Hoa Đại Lễ Thầy không được trọn vui; là vì Thầy thấy Chư Thần đem sớ về tâu trong đó đọa nhiều siêu ít, nên buộc lòng giáng tỏ cho mỗi đứa nghe, đặng lo chừa cho bớt, chớ ngày giờ xây chuyển mau lẹ dường tên, còn lòng dạ của phần đông thì dật dờ như người đương say chưa tĩnh, Thầy hỏi vậy rồi Thầy ân xá sao được, dìu dắt sao nên, đó là cái thói dễ ngươi mới sanh ra điều ấy.

ĐƯỢC, vậy bài nầy con biểu CA coi rồi giao lại cho Tam Thanh Đầu Sư, ngũ vị Thiên Sư coi rồi đồng ký tên đóng dấu đặng xuất bản phát ra cho Đạo, Đời coi cho rõ./-

Còn con thì ở tại Hiệp Thiên Đài Vô Vi, đến ngày 20 sẽ ra Thánh Tòa mà làm việc./-

————————————d&c————————————
VOÂ-VI HIEÄP-THIEÂN ÑAØI

Ngày 5 tháng 1 Annam 1941 (3 giờ khuya) [ĐCL.43/38]


THUẬN HÀNH ĐẠO LÝ CƠ QUAN
1- Thuận hành Đạo Lý Cơ Quan,

Thượng Nguơn ngày Đạo, mở mang thêm hoài.

Con đồng Đạo Đức chớ sai,

Chớ sai Đạo Đức Lý hoài dẫn cao.

2- Cơ Thần hiệp Tánh chuyển giao,

Quan phòng hư thiệt vậy mau nhớ vầy.

Tam Nguơn đầu lễ ngày nầy,

Một năm mà có ba ngày gọi Nguơn

3- Nghĩ càng thấy tột nguồn cơn,

Người tu, kẻ nghịch tính hơn thiệt nhiều.

Tại vầy mà ít ai theo,

Là theo lời chánh trực nên chỉ bày.

4- Mãn lo đời cạnh tranh đời,

Mản mà chưa mản, người đây lụn người.

Mỗi con CHƠN LÝ biết TRỜI,

Biết thời phải sợ do nơi chỗ HÒA.

5- Ngó nhìn đường thẳng dặm xa,

Hòa tâm thì tới, xảo ngoa chịu ngừng.

Chỉ cho đó vậy khuyên đừng,

Đừng ai mà vội quá mừng sự gian.

6- Một năm ngày Lễ Hội đàn,

Hầu nghe Đạo Lý, Nguơn càng rõ Nguơn,

Nguơn này Nguơn nọ cũng Nguơn,

Người tu thì cứ sự Nhơn Đức bền.

7- Sự gian thường đắm bạc tiền,

Rằng Nguơn Lễ Thượng nhìn duyên cớ bày.

Đặt ra là dệt thêu ngoài,

Viện lời Nguơn vận trả vay nợ nần.

8- Cho nên lần Đạo, xa lần,

Vì do chỗ lợi quên phần lập Nguơn.

Lập từ đời Thượng Cổ phân,

Chừa ngăn ba tháng, đặng dân nhớ chừng.

9- Lắm đời dời cuộc suy hưng,

Qua rồi mấy lớp biện phân mấy kỳ.

Cuối cùng Đời, Đạo an nguy,

Người sanh nhằm lúc thị phi tranh tài.

10- Khó rành trong vậy mới sai,

Đua dèo theo giả, mạnh ai nấy làm.

Vậy nên phàm quá tệ phàm,

Tục mê vui tục, đành cam chịu đành.

11- Mở mang lời Đạo, Lý rành,

ThượngTrung cùng Hạ Nguơn hành chánh Tâm.

Tại lòng người quá sự tham,

Chê lời chơn chánh mới lâm mỵ tà.

12- Cho nên hòa khó nỗi hòa,

Là nơi tình dục vọng xa Đức Hiền.

Hiện giờ ai biết sợ kiêng,

Là kiêng lời thuận hòa nguyên tập lần.

13- Đặng ra cho khỏi tụy trần,

Trong mười nay đặng ba phần cũng xong.

Đó là Trời, Phật ước trông

Là trong lòng mộ thương Hồng Lạc đây.

14- Đồng chung trong một buổi này,

Này cơ Đạo Lý sẵn đây độ điều,

Mở thông lời chánh đáng nhiều,

Người sao quá sự lo điều dọc ngang.

15- Năm nầy Tân Tỵ mới sang,

Nhìn coi tường cảnh tượng an hay ghình.

Dò coi rồi đó hỏi mình,

Hỏi mình ai chỉ cho mình biết đây.

16- Thì thôi đừng có nọ nầy,

Cứ tuân lời Một tiếng Thầy Độc Tôn,

Có gì mà vội nói khôn,

Mà hàm giành mạnh kể đông khoe tài.

17- Chẳng dòm vào chỗ mình sai,

Là sai Lý Đạo, sai hoài tới hư.

Nhớ lời Thầy chỉ như như,

Là Như tại hữu sở tư vậy thường.

18- Thượng Nguơn ngày chỉ bước đường,

Thì con đồng một bền nương vững vàng.

Chớ đừng thấy khó vậy than,

Rồi sanh vọng ý vái van đặt điều.

19- Miễn sao lòng sợ Thiên Điều,

Dầu không vái vậy tự tiêu khổ lần.

Để lời cần Đạo, tĩnh thân,

Con nào nghe rõ thì an huệ thành.

20- Có chi mà giựt mà giành,

Lòng tin dạ nhớ hiểu rành sẵn cho.

Đạo đời, Đời Đạo liếu lo,

Vì không rõ đặng TRỜI cho chỗ hòa.

21- Giựt giành rồi ác cảm ra,

Mà ai vẫn cũng Người Ta, Ta Người.

Hòa Tâm an vận ứng thời,

Tự nhiên Trời, Phật định rồi thưởng cho.

22- Chớ rằng mình cậy liếu lo,

Làm cho nhọc trí chẳng dò tại đâu.

Gom vào thời cuộc trước sau,

Thượng Nguơn ngày chỉ cùng nhau xétvầy.

23- Xét trong lời nói của Thầy

Vầy đây cùng đó nọ nầy kia sao.

Xét rồi việc khó nào nao,

Biết rằng chỗ khó bền trau sửa rành.

24- Kết thành chung cuộc Đức sanh,

Là sanh hạnh phúc Đức danh trọn niềm.

Trước bày sau chỉ dạy thêm,

Là thêm sự nhớ học chiêm ngưỡng kềm.
ĐƯỢC, bài nầy con giao lại cho CA đặng nó in ra cho Đồng Nhi học thuộc lòng đặng đọc tại giờ Ngọ ngày 14 lễ Thượng Nguơn tới đây, đọc rồi phát ra cho Đạo coi mà học. Còn Thiên Sư gởi cho các chủ Thánh Thất mỗi người một bổn./-

-THĂNG-


————————————d&c————————————
Ngày 1 tháng 4 Annam 1941 (12 giờ trưa) [ĐCL.43/42]



tải về 1.08 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
  1   2   3   4   5   6   7   8




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương