DẠy học ngữ VĂn trong bối cảnh mới- những kỳ VỌNG, CƠ HỘi và thách thứC



tải về 198.38 Kb.
trang1/3
Chuyển đổi dữ liệu04.09.2016
Kích198.38 Kb.
#31650
  1   2   3
DẠY HỌC NGỮ VĂN TRONG BỐI CẢNH MỚI-

NHỮNG KỲ VỌNG, CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC
(Diễn văn khai mạc Hội thảo quốc gia dạy học môn Ngữ văn- Huế 5-6/1/2013)

Nguyễn Vinh Hiển

Kính thưa quí vị đại biểu, quí thầy cô giáo!

Như chúng ta đều biết, chương trình giáo dục phổ thông(GDPT) hiện hành đã và đang thực hiện từ những năm đầu thế kỷ 21 cho đến nay đã được trên dưới 10 năm. Mặc dù đây là một chương trình (CT) có nhiều ưu điểm và tiến bộ so với các CT trước đó, tuy nhiên do nhiều nguyên nhân khác nhau, đặc biệt trước sự phát triển quá nhanh của xã hội hiện đại, nhất là khoa học và công nghệ; chương trình GDPT nói chung và CT sách giáo khoa(SGK) Tiếng Việt/Ngữ văn nói riêng đã bộc lộ những hạn chế, bất cập, cần phải xem xét và thay đổi.



Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI yêu cầu ngành GD phải tiến hành “đổi mới căn bản toàn diện” trong đó có đổi mới chương trình và SGK. Chiến lược phát triển giáo dục Việt Nam giai đoạn 2011-2020 đã xác định một trong các giải pháp phát triến giáo dục là: “ Trên cơ sở đánh giá chương trình giáo dục phổ thông hiện hành và tham khảo chương trình tiên tiến của các nước, thực hiện đổi mới chương trình và SGK từ sau năm 2015 theo định hướng phát triển năng lực học sinh, vừa đảm bảo tính thống nhất trong toàn quốc, vừa phù hợp với đặc thù mỗi địa phương”.

Bối cảnh trên cho thấy, việc đổi mới CT-SGK nói chung và CT-SGK Ngữ văn nói riêng là tất yếu và là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của ngành GD trong những năm tới.

Để thực hiện nhiệm vụ trên, sau Đại hội Đảng lần thứ XI, Bộ GD& ĐT đã tiến hành triển khai nghiêm túc hàng loạt công việc, trong đó có việc chuẩn bị đề án Đổi mới căn bản toàn diện nền giáo dục Việt Nam và đề án Đổi mới CT, SGk phổ thông giai đoạn sau 2015.

Song song với việc chuẩn bị đề án, Bộ GD&ĐT cũng đã tiến hành hàng loạt Hội thảo quốc gia về các vấn đề phát triển CT nói chung và CT các môn học nói riêng như Hội thảo về dạy học môn Toán (ở Hải Phòng), Hội thảo dạy học môn Lịch sử (ở Đà Nẵng) và bây giờ là Hội thảo dạy học môn Ngữ văn được tổ chức tại thành phố Huế xinh đẹp và thơ mộng này.



  1. Những kỳ vọng:

Cũng như các Hội thảo đã tiến hành, Hội thảo dạy và học môn Ngữ văn toàn quốc lần này hướng tới hai mục đích lớn:

Một là: Nhìn nhận và tổng kết một cách toàn diện việc dạy và học môn Tiếng Việt và Văn học trong phạm vi toàn quốc trên tất cả các phương diện liên quan: từ việc đánh giá ưu và nhược điểm của CT, SGK môn học hiện hành đến việc xem xét phương pháp dạy học và kiểm tra đánh giá kết quả học tập của HS có gì cần khắc phục; từ việc phát hiện và bồi dưỡng HSG đến vấn đề bồi dưỡng GV và nhất là xem xét việc đào tạo ở các trường sư phạm đã đáp ứng được yêu cầu đổi mới dạy học ở nhà trường phổ thông hay chưa, từ đó đề xuất những giải pháp giúp các cơ quan chỉ đạo dạy học, GV và các trường điều chỉnh có hiệu quả việc dạy học Ngữ văn ngay trong những năm tới.

Hai là:Từ việc nhận thức bối cảnh và những yêu cầu mới, Hội thảo bước đầu nêu lên những định hướng phát triển của CT môn học, từ đó bàn bạc và góp ý kiến cho việc chuẩn bị điều chỉnh, xây dựng, thiết kế lại CT và SGK môn học này cho giai đoạn sau 2015.

Về các định hướng cho CT và SKG môn Ngữ văn sau 2015, lãnh đạo Bộ mong muốn và kỳ vọng ở Hội thảo này các đại biểu sẽ bàn bạc, trao đổi nhằm đạt một số kết quả sau đây:



a/ Mục tiêu môn học: cần điều chỉnh, xác định lại mục tiêu môn học này như thế nào để đáp ứng những đòi hỏi của bối cảnh mới; góp phần đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao, phát triển và bồi dưỡng nhân tài, hình thành năng lực và hội nhập quốc tế,….

b/ Tên và cấu trúc nội dung môn học: Từ trước đến nay, vấn đề chọn tên môn học này rất phức tạp, với CT sau 2015 nên thống nhất tên gọi như thế nào để phù hợp nhất với mục tiêu và nội dung dạy học. Nội dung môn học bao gồm những phân môn hay những mạch kiến thức lớn nào?

c/ Tích hợp và phân hóa: Môn học này thực hiện tích hợp trong nội dung bộ môn học và có thể tích hợp giáo dục những nội dung và kỷ năng thuộc các môn học khác như thế nào (tích hợp liên môn) ? Dạy học phân hóa ở môn học này sẽ thực hiện ra sao, ở những khía cạnh nào, từ những lớp nào?

d/ Hình thành năng lực: Một trong những định hướng đổi mới trọng yếu của CTGDPT sau 2015 là phát triển năng lực người học. Môn học Ngữ văn góp phần hình thành và phát triển các năng lực chung và các năng lực chuyên biệt nào? Năng lực nào được hình thành và phát triển thuận lợi và có hiệu quả nhất ở môn học này?

e/ Văn bản chương trình và SGK: Nên biên soạn SGK như thế nào: một hay nhiều bộ sách? Cần có những sách gì cho GV và cho HS? Nội dung và hình thức nên như thế nào để giúp cho yêu cầu hình thành và phát triển năng lực? Ngoài SGK nên có những tài liệu tham khảo gì? Biên soạn và sử dụng sách điện tử và các trang web, các phương tiện truyền thông phục vụ cho học tập môn học như thế nào? Có những gì cần lưu ý trong cấu trúc, nội dung của văn bản chương trình môn Ngữ văn.

g/ Phương pháp và phương tiện dạy học: Với CT, SGK và tài liệu dạy học mới, phương pháp dạy học cần thay đổi như thế nào để hình thành và phát triển năng lực học sinh? Những PPDH truyền thống nào vẫn còn phù hợp? Các PPDH mới nào phù hợp nhất, có tính khả thi và hiệu quả nhất? Dạy hcoj theo CT và SGK mới, với những yêu cấu mang tính đặc thù cảu môn học, cần có những phương tiện dạy học như thế nào?,….

h/ Kiểm tra đánh giá: Làm thế nào để đánh giá được đúng và khách quan năng lực của HS ở môn học này? Đề thi cần ra thế nào để tăng cường yêu cầu sáng tạo, hạn chế nhắc lại và chống học thuộc văn mẫu? Đổi mới kiểm tra, đánh giá như thế nào để tạo sự đồng bộ, ủng hộ và thúc đẩy đổi mới PPDH, phát triển năng lực học sinh? Đa dạng hóa các hình thức đánh giá đối với môn học này như thế nào? Nên quan niệm như thế nào về đề mở, bài tập nghiên cứu, hồ sơ học tập, hoạt động ngữ văn, đánh giá thường xuyên, đánh giá trên lớp, đánh giá kết thúc, …?

Có thể nói các vấn đề nêu trên đều là những câu hỏi lớn liên quan một cách mật thiết và tác động lẫn nhau trong quá trình dạy học. Đó cũng là những vấn đề hết sức khó khăn nhưng không thể né tránh trong việc chuẩn bị thiết kế, đổi mới CT và SGK sau 2015 nói chung và môn học này nói riêng. Chính vì thế cần nêu lên, trao đổi, bàn bạc và giải quyết một cách đồng bộ nhưng có trọng điểm.

Những nội dung trọng yếu nói trên không thẻ là công việc của một người hay một nhóm người mà cần trí tuệ của nhiều tầng lớp, trước hết là đông đảo các thầy giáo, cô giáo trực tiếp giảng dạy trên lớp. Hội thảo này là một cơ hội tốt để nêu vấn đề, xin ý kiến và bàn thảo một số vấn đề quan trọng liên quan đến việc dạy học môn học này.

2/ Cơ hội và thách thức:

Hội thảo dạy học môn Ngữ văn toàn quốc được tiến hành trong một hoàn cảnh có những thuận lợi sau đây:

-Nhiệm vụ, yêu cầu của việc đổi mới căn bản toàn diện đã được khẳng định qua Nghi quyết Đại hội Đảng lần thứ XI; những định hướng phát triển giáo dục nói chung và CT và SGK trong nhà trường phổ thông nói riêng đã được xác định trong Chiến lược phát triển GD 2011-2020 và Chương trình hành động của Chính phủ. Ngoài ra các dự thảo đề án Đổi mới căn bản và toàn diện nền GD Việt Nam và đề án Đổi mới CT và SGK phổ thông sau 2015 cũng đã được soạn thảo và đang tích cực hoàn thiện. Đây chính là những cơ sở pháp lý và chố dựa vững chắc cho việc chuẩn bị đổi mới, phát triển CT môn học.

-Chương trình và SGK hiện hành đã thực hiện được một thời gian khá dài (5 năm với lớp 12 và 11 năm với lớp 1 và lớp 6) đủ để GV và các cơ quan chỉ đạo dạy học nhìn thấy rõ hơn những ưu điểm cũng như những hạn chế và bất cập của bộ CT và SGK này.

-Sau nhiều lần thay đổi, kinh nghiệm và trình độ xây dựng phát triển chương trình GD của Việt Nam đã có nhiều tiến bộ; một số phương diện đã cập nhật được với trình độ quốc tế và khu vực. Lý luận phát triển CT và cơ sở vật chất để thực hiện nhằm đạt được các mục tiêu trong thiết kế CT đã có nhiều tiến bộ so với các lần thay đổi trước, kể cả lần gần đây nhất.

-Sự mở rông giao lưu quốc tế đã tạo ra nhiều cơ hội và điều kiện thuận lợi cho việc tiếp cận tư liệu dạy học, kinh nghiệm phát triển CT và SGK, các phương pháp dạy học tiên tiến và khoa học đánh giá hiện đại. Hy vọng những kinh nghiệm quốc tế về GD nói chung và phát triển CT, SGK nói riêng sẽ giúp được các chuyên gia môn học nhiều gợi mở quý báu và hữu ích.

Tuy vậy, công cuộc đổi mới căn bản, toàn diện GD Việt Nam, trong đó có đổi mới chương trình và SGK môn Ngữ văn sau 2015 cũng phải đối mặt với không ít khó khăn, thách thức. Có thẻ nêu một số điểm nổi bật sau đây:

-Chương trình và SGK Ngữ văn theo yêu cầu mới đặt ra nhiều vấn đề không dễ giải quyết; trước hết là phải tập trung phát triển năng lực người học, coi trọng khả năng “làm được”, “vận dụng được” những gì đã học để giải quyết các vấn đề đặt ra trong cuộc sống, qua đó mà phát triển tư duy, óc sáng tạo,…

-Trong khi thực trạng GD nói chung và dạy học môn ngữ văn nói riêng ở nước ta đang còn nhiều hạn chế, bất cập thì điều kiện cải thiện tình hình cũng có nhiều khó khăn, đặc biệt là:

+Về cơ bản, nước ta vẫn còn nghèo, các điều kiện cơ sở vật chất, thiết bị, trường lớp,…chưa thể đáp ứng hết các đòi hỏi của dạy học hiện đại, nhất là về PPDH và kiểm tra, đánh giá. Chính sách, chế độ cho GV còn chưa thỏa đáng, GV còn gặp nhiều khó khăn cả vật chất lẫn tinh thần, nhất là các vùng sâu, vùng xa. Trong khi, tốc độ phát triển và nhu cầu học tập của người dân ngày càng tăng, sĩ số/đầu lớp khó giảm, tạo ra mâu thuẩn giữa yêu cầu về số lượng và chất lượng giáo dục.

+Chất lượng đào tạo, bồi dưỡng GV còn nhều bất cập; đầu vào của các trường sư phạm ngày càng có chất lượng thấp, nhất là các môn KHTN, trong đó có môn Ngữ văn, GV không nhiệt tình dạy văn, sinh viên không muốn học ngành Văn, giáo trình đào tạo sư phạm ngành Ngữ văn còn lạc hậu, chưa đáp ứng được những yêu cầu mới….tạo thành một vòng luẩn quẩn, tác động lẫn nhau làm cho môn học này nhiều nơi trở nên thiếu sinh khí….

+Chúng ta chưa đào tạo và phát triển được một đội ngũ cán bộ chuyên nghiệp về xây dựng, thiết kế, phát triển chương trình môn học. Phần lớn vẫn là kiêm nhiệm, làm theo hợp đồng, nghề tay trái…Nhiều người tham gia làm CT và viết SGK nhưng chưa có đủ điều kiện nghiên cứu kỹ, chưa đủ năng lực đáp ứng các yêu cầu của nghề làm CT và biên soạn SGK theo đúng nghĩa.

Chúng tôi nêu những thuận lợi và khó khăn như trên để các vị đại biểu và quý thầy cô cân nhắc, bàn thảo, tìm ra những giải pháp phát huy thuận lợi, hạn chế khó khăn, nâng cao chất lượng xây dựng chương trình, SGK và chất lượng dạy học môn ngữ văn, đáp ứng yêu cầu phát triển của lớp trẻ và yêu cầu của sự nghiệp xây dựng con người , văn hóa Việt Nam trong giai đoạn mới.
Thưa các vị đại biểu!

Môn Ngữ văn là một trong những môn học có vị trí và tầm quan trọng số một ở nhà trường phổ thông. Ngoài chức năng công cụ, môn học này còn góp phần rất lớn nhằm hình thành và phát triển năng lực chung cũng như góp phần bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm và các phẩm chất cao đẹp của người học. Chính vì thế không có bất cứ nước nào coi nhẹ CT môn học này.

Tuy vậy, làm thế nào để môn học Ngữ văn xứng đáng với vị trí và tầm quan trọng của nó, thực sự là một thách thức lớn mà vai trò quyết định thuộc về đội ngũ các nhà giáo, các tác gải xây dựng chương trình và biên soạn SGK.Thay mặt lãnh đạo Bộ GD&ĐT, tôi xin nêu lên một số suy nghĩ, cóa thể coi là những kỳ vọng cũng như những cơ hội và thách thức về công cuộc đổi mới môn học này, trước mắt cũng như lâu dài.

Xin gửi tới các vị niềm tin và lời chúc tốt đẹp. Chúc Hội thảo thành công.



DẠY HỌC NGỮ VĂN TRONG NHÀ TRƯỜNG VIỆT NAM –

HIỆN TRẠNG, HƯỚNG PHÁT TRIỂN VÀ

NHỮNG VẤN ĐỀ LIÊN QUAN

Đỗ Ngọc Thống­1


Trong lịch sử giáo dục Việt Nam, môn Ngữ văn2 là một trong những môn học có “tuổi thọ” cao nhất ở nhà trường phổ thông3. Có thể nói, từ khi có hình thức tổ chức dạy học ở dạng sơ khai nhất, học trò đã phải học môn học này. Suốt hàng ngàn năm dưới chế độ phong kiến, khái niệm “đến trường”, “đi học” chủ yếu là học Ngữ văn, trước hết là học lễ nghĩa và sau đó là học chữ nghĩa. Lễ nghĩa là để khai tâm còn chữ nghĩa là để biết đọc, biết viết, từ đó mà học đạo lý, luân lý, hình luật, chính trị, triết lí,…

Một trong lí do quan trọng nhất để cắt nghĩa tại sao cần học môn này sớm và trước là xuất phát từ tính chất công cụ - phương tiện của môn học. Biết đọc, biết viết là cơ sở và công cụ cho việc học những nội dung khác, những môn học khác. Ban đầu là học để biết dọc, biết viết và sao đó thông qua đọc và viết để học; học trong nhà trường và học suốt đời. Cũng phải thông qua đọcviếtlàm, thì làm mới có hiệu quả cao. Làm những công việc thô sơ, đơn giản đã thế; trong đó có khả năng “đọc ra”, “đọc thủng” văn bản để nắm được thông tin và ý nghĩa… Chính xuất phát từ tầm quan trọng này mà cho đến đầu thế kỉ XXI, yêu cầu biết đọc, biết viết (literacy) cho tất cả mọi người vẫn là một trong những mục tiêu quan trọng nhất mà UNESCO4 kêu gọi tất cả quốc gia hoàn thành vào năm 2015.

Đã có việc dạy và học, thì dù có ý thức hay không vẫn phải đặt ra ít nhất ba câu hỏi cơ bản: \A) Dạy và học để làm gì? B) Dạy và học cái gì? C) Dạy và học bằng cách nào? Thực chất đây chính là mục tiêu, nội dung và phương pháp dạy-học, những thành tố quan trọng tạo nên một Chương trình giáo dục (CTGD). Nói một cách khác đã dạy-học là phải có chương trình(CT) và sách giáo khoa (SGK). Chính vì thế xem xét việc dạy học Ngữ văn trong nhà trường ở các giai đoạn khác nhau trước hết và chủ yếu phải dựa vào văn bản CT và SGK môn học này.

Trải qua một chặng đường dài phát triển, CT và SGK môn Ngữ văn mỗi giai đoạn chỉ có thể tồn tại trong một thời gian nhất định, thường là sau khi đã hoàn thành nhiệm vụ lịch sử của nó. CT&SGK Ngữ văn hiện hành (sau 2000) cũng vậy. Mặc dù được đánh giá có nhiều ưu điểm và tiến bộ so với các CT trước đó, tuy nhiên do nhiều nguyên nhân khác nhau, chương trình GDPT nói chung và CT, SGK Ngữ văn nói riêng đã bộc lộ những hạn chế, bất cập, cần phải xem xét và thay đổi. Chính vì thế, một trong những nhiệm vụ trọng yếu của ngành GD hiện nay cũng như những năm tới là phải đổi mới CT, SGK, trong đó có CT, SGK môn Ngữ văn.

Để xác lập định hướng phát triển CT và SGK môn học này cho nhà trường Việt Nam những năm sau 2015, phải dựa vào kết quả nghiên cứu, khảo sát, trao đổi và đánh giá trên một số phương diện quan trọng sau đây:

Một là: Cần xem xét, tổng kết một cách đầy dủ, chính xác những ưu điểm có thể kế thừa và những hạn chế, bất cập cần khắc phục của việc dạy học nói chung, CT&SGK Ngữ văn hiện hành nói riêng (sau 2000).

Hai là: Cần xuất phát từ những yêu cầu của đất nước trong giai đoạn mới. Yêu cầu ấy thể hiện rất rõ trong Nghị quyết của Đại hội Đảng lần thứ XI: “ Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo theo nhu cầu phát triển của xã hội; nâng cao chất lượng theo yêu cầu chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế, phục vụ đắc lực sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.

Ba là: Cần xem xét và cập nhật xu thế quốc tế về phát triển CT giáo dục nói chung và chương trình môn học này của một số nước có nền GD phát triển, đặc biệt là những quốc gia đã từng có điều kiện và hoàn cảnh xã hội – giáo dục tương tự như Việt Nam. Tham khảo, học hỏi quốc tế về xu thế, cách thức và các bước đi cho phù hợp chứ không phải sao chép nguyên si.

Trên tinh thần đó, từ sau Đại hội Đảng lần thứ XI, Bộ GD&ĐT đã và đang tiến hành khẩn trương các công việc nhằm đề xuất Đổi mới căn bản và toàn diện nền GD Việt Nam. Cách tiếp cận vừa nêu trên đã được vận dụng trong việc triển khai nghiên cứu, xây dựng Đề án đổi mới CT-SGK giáo dục cho nhà trường sau những năm 2015.

Quán triệt phương hướng và cách tiếp cận đã nêu, báo cáo này xin đặt ra một số vấn đề lớn đối với việc dạy học văn, đặc biệt là vấn đề phát triển CT và SGK Ngữ văn sau 2015 để Hội thảo có cơ sở xem xét, trao đổi, đánh giá; từ đó có thể thống nhất được một số định hướng lớn, góp phần tích cực chuẩn bị cho việc xây dựng CT, SGK môn học này và đáp ứng được sự kỳ vọng của lãnh đạo Bộ GD&ĐT.

I/ Nhận xét tổng quát về việc dạy học Ngữ văn hiện hành:

Có hai cách tiếp cận trong việc nhận xét, đánh giá việc dạy học Ngữ văn hiện hành. Một là so với mục tiêu ban đầu để chỉ ra cái được và chưa được. Những cái chưa được gọi là hạn chế, nhược điểm. Hai là so với yêu cầu của đất nước trong giai đoạn mới và xu thế hiện đại của quốc tế để nhận xét và đánh giá. Những gì môn Ngữ văn hiện hành chưa đáp ứng được là những bất cập, không phải là nhược điểm. Ở đây chủ yếu tập trung nêu lên những gì chưa được nhằm hướng đến việc khắc phục chứ không phải là sự phủ định.



1. Mục tiêu môn học

Chương trình Ngữ văn hiện hành nêu lên ba mục tiêu, trong đó mục tiêu đầu tiên là “cung cấp cho HS những kiến thức phổ thông, cơ bản, hiện đại, có tính hệ thống về ngôn ngữ (trọng tâm là tiếng Việt) và văn học (trọng tâm là văn học Việt Nam), phù hợp với trình độ phát triển của lứa tuổi và yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”. Mục tiêu thứ hai là hình thành và phát triển năng lực sử dụng tiếng Việt, tiếp nhận văn học, cảm thụ thẩm mĩ… Mục tiêu thứ ba là bồi dưỡng tinh thần, tình cảm như tình yêu tiếng Việt, yêu thiên nhiên, gia đình, lòng tự hào dân tộc…

Có thể thấy rõ cấu trúc nội dung của mục tiêu môn học này gồm 3 yếu tố: kiến thức, năng lực (kĩ năng) thái độ. Đây chính là cấu trúc “kinh điển” của mục tiêu GD trong nhà trường PT từ trước đến nay. Tuy nhiên, so với yêu cầu và xu thế mới có thể thấy một số bất cập trong cách xác định mục tiêu trên.

Thứ nhất: việc cung cấp kiến thức được coi là mục tiêu số một cho thấy chương trình tập trung nhấn mạnh kiến thức chứ không phải kỹ năng, năng lực.

Thứ hai: các khái niệm “cơ bản, hiện đại” và nhất là “tính hệ thống về ngôn ngữ văn học” đã tạo điều kiện cho các tác giả chương trình và SGK nghiêng về trang bị các tri thức mang tính hàn lâm và xây dựng môn Ngữ văn trong nhà trường tương ứng với toàn bộ khoa học Ngữ văn. Kết quả là HS được học tất cả từ ngôn ngữ học, Việt ngữ học, lí luận văn học, lịch sử văn học…trong đó có một số kiến thức quá cao sâu chưa cần đối với Hs phổ thông.

Chúng tôi cho rằng khi xác định mục tiêu môn Ngữ văn sau 2015, cần điều chỉnh sự bất cập vừa nêu trên.

-Đề cao mục tiêu hình thành và phát triển năng lực ngữ văn, mà trước hết là năng lực giao tiếp với việc sử dụng thành thạo bốn kỹ năng cơ bản: đọc, viết, nghe, nói. Sau đó mới là các kỹ năng khác…Cũng cần chú ý đến mục tiêu giúp HS hình thành và phát triển các năng lực chung.

-Việc lựa chọn kiến thức (văn học, tiếng Việt…) tất nhiên cần cơ bản, hiện đại nhưng phải hướng tới phục vụ cho yêu cầu phát triển năng lực, tránh kinh viện, không thiết thực và không quá chú trọng tính hệ thống (hệ thống lịch sử văn học, hệ thống ngôn ngữ…)

-Vừa chú ý mục tiêu GD theo yêu cầu của xã hội; vừa quan tâm đến nhu cầu, sở thích của cá nhân người học và người dạy để xác định nội dung chương trình học tập (GV và HS mong đợi dạy và học những gì?)

2. Về cấu trúc tích hợp và phân hóa của chương trình Ngữ văn hiện hành

Chương trình Ngữ văn hiện hành được xây dựng theo nguyên tắc tích hợp. với môn tiếng Việt ở Tiểu học, CT tập trung vào hai thành phần: kiến thức và kỹ năng, trong đó kiến thức gồm tiếng Việt và văn học; kĩ năng gồm đọc, viết, nghe, nói. Đến THCS và PTTH chương trình lại được cấu trúc theo ba phần: Tiếng Việt, Tập làm văn và Văn học. Mỗi phần đều có các nội dung riêng, theo hệ thống của mỗi phân môn khá độc lập. …Cho nên nhiều nội dung rất khó tích hợp. Có thể thấy nguyên tắc tích hợp được thực hiện khá tốt ở SGK Tiếng Việt Tiểu học, lên đến THCS và THPT tiếp tục được tiếp nối với SGK Ngữ văn, nhưng nhìn chung nhiều bài chưa có chất lượng, hiệu quả chưa cao, nhất là tích hợp ở THPT.

Phân hóa vi mô trong dạy học như một nguyên tắc cũng đã được chú ý, thể hiện qua hệ thống câu hỏi khó dễ ở mỗi bài học, nhưng việc thực hiện chủ yếu lại phụ thuộc vào Gv trên lớp trong mỗi tiết học, nên khó đánh giá. Phân hóa vĩ mô, được thực hiện ở cấp THPT bắng phân ban và tự chọn, thể hiện bằng 2 bộ SGK Ngữ văn ( nâng cao) và Ngữ văn (cơ bản), nhưng lại do 2 nhóm viết nên tính phân hóa chỉ thể hiện qua hình thức, số tiết và số văn bản tác phẩm văn học khác nhau. Về nội dung, rất khó thấy sự phân hóa rõ rệt giữa 2 bộ sách, một số bài ở sách cơ bản lại khó hơn sách nâng cao. Việc đề thi ĐH và CĐ không phân biệt nâng cao hay cơ bản đã phá hủy hoàn toàn tính chất và mục tiêu của 2 bộ sách, dẫn đến tính trạng bộ Ngữ văn nâng cao gần như không được sử dụng, ít có tác dụng phân hóa.

Nhìn chung cấu trúc của CT và nhất là SGK Ngữ văn hiện hành vẫn chủ yếu lấy trục nội dung (tiểu học theo hệ thống chủ đề, còn Trung học lấy lịch sử văn học). Thêm vào đó do làm CT tách rời các cấp nên cấu trục CT các cấp thiếu tính thống nhất; một số dơn vị kiến thức lặp lại, một số nội dung không cần thiết phải học cả ba cấp, hoặc lặp lại không phát triển, nâng cao… Văn bản đọc hiểu còn nhiều, một số văn bản dài, chưa chọn lọc, thiếu hấp dẫn… Dạy học phân hóa còn nhiều bất cập.

Có thể nói xây dụng CT và SGK Ngữ văn theo hướng tích cực là đúng, là một bước tiến trong việc phát triển CT, nhưng vẫn còn bất cập. Chương trình Ngữ văn sau 2015 đòi hỏi nhiều vấn đề cần thay đổi , trước hết là xác định trục chính của CT. Cấu trục nội dung CT phải tập trung vào mục tiêu phát triển năng lực và vì thế trục chính của CT Ngữ văn, như nhiều nước đã làm phải là trục kĩ năng: đọc, viết, nghe, nói. Việc trang bị kiến thức văn học và tiếng Việt, ngôn ngữ… vẫn cần thiết nhưng cần thông qua rèn luyện kĩ năng, liên quan mật thiết nà phục vụ trực tiếp cho rèn luyện kĩ năng. Phân hóa được thực hiện triệt để và chuyên sâu ở THPT bằng tự chọn.

3. Về phương pháp dạy học Ngữ văn

Bên cạnh nhiệm vụ phát triển năng lực tạo lập văn bản cho HS- một nhiệm vụ mà Ct truyền thống vẫn chú ý, môn Ngữ văn hiện hành có nhiệm vụ phát triển năng lực đọc văn, và rộng hơn là năng lực tiếp nhận văn bản. Nhiệm vụ này đòi hỏi thay đổi phương pháp (PP) dạy và học một cách mạnh mẽ.

Tư tưởng quan trọng của CT Ngữ văn sau 2000 là chuyển từ PP giảng văn sang PP đọc hiểu văn bản. Đó là một bước tiến trong PP dạy học văn ở nhà trường phổ thông. Theo định hướng này, dạy văn thực chất là dạy cho Hs cách thức khám phá, giải mã văn bản-tác phẩm, từ đó hình thành năng lực tự học, tự đọc, tự tiếp nhận văn học nói riêng và văn bản nói chung. Các mục tiêu cao đẹp khác như định hướng và giáo dục tư tưởng tình cảm, truyền thụ cái hay, cái đẹp, bồi dưỡng nhân cách cao quí…không phải hạ thấp nhưng đều phải thông qua mục tiêu trực tiếp này, tức thông qua đọc hiểu mà đạt được.

Tuy nhiên tư tưởng và PP đọc hiểu nhìn chung mới dừng lại ở nhận thức là chính. Trong thực tế dạy học tư tưởng vừa nêu chưa được hiện thực hóa một cách toàn diện, đồng bộ và hiệu quả. Có nhiều nguyên nhân: một số tác giả chưa nắm vững và chưa thể hiện được tư tưởng này trong biên soạn SGK; công tác đào tạo, bồi dưỡng GV về PP mới chưa cập nhật, kiểm tra đánh giá chưa đổi mới, chưa đồng bộ…



4. Về kiểm tra đánh giá kết quả học tập

Với CT Ngữ văn sau năm 2000, công tác kiểm tra đánh giá đã có những chuyển biến tích cực; chẳng hạn định hướng ra đề mở, tăng cường nghị luận xã hội, kết hợp hình thức tự luận với trắc nghiệm…tuy nhiên việc kiểm tra đánh giá Ngữ văn hiện hành vẫn còn hạn chế. Hạn chế lớn nhất là chưa đánh giá đúng được sự vận dụng kiến thức một cách sáng tạo; đề thi Ngữ văn chủ yếu vẫn là kiểm tra kiến thức, trí nhớ, tái hiện, làm theo, chép lại… học tác phẩm nào thi đúng tác phẩm đó; chỉ được kiểm tra vào đúng những gì GV dã dạy, trừ một số đề về nghị luận xã hội.

Chương trình Ngữ văn sau 2015 cần thay đổi theo hướng: khuyến khích sự sáng tạo, khả năng vận dụng kiến thức đã học cả nội dung lẫn phương pháp để giải quyết một nhiệm vụ tương tự, trong một tình huống mới.



tải về 198.38 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
  1   2   3




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương