DẠy học ngữ VĂn trong bối cảnh mới- những kỳ VỌNG, CƠ HỘi và thách thứC


Về công tác đào tạo và bồi dưỡng giáo viên



tải về 198.38 Kb.
trang2/3
Chuyển đổi dữ liệu04.09.2016
Kích198.38 Kb.
#31650
1   2   3

5. Về công tác đào tạo và bồi dưỡng giáo viên

Hạn chế và bất cập lớn nhất mà ai cũng thấy là việc đào tạo ở các trường sư phạm và công tác bồi dưỡng GV trong thời gian qua không tương xứng với sự chuyển biến thay đổi của CTGD phổ thông. CT môn Ngữ văn 2000 nêu lên khá nhiều điểm mới mẻ, tư tưởng dạy học bộ môn, chẳng hạn tư tưởng dạy đọc hiểu, đã cập nhập cới xu thế quốc tế… Nhưng sự chuẩn bị cho sinh viên và giáo viên chưa được là bao. Chưa có giáo trình hay tài liệu về các nội dung mới đưa vào CT đào tạo nhằm đáp ứng yêu cầu của Chương trình GDPT, cả giáo trình cơ bản cũng như PP dạy học.

Các đợt bồi dưỡng thay sách và bồi dưỡng thường xuyên chưa có kết quả cao. Những tư tưởng và định hướng lớn về nội dung cũng như PP dạy học và kiểm tra đánh giá chưa được GV hiểu đúng bản chất, và nhất là chưa được vận dụng thực sự vào thực tiễn dạy học của mỗi người, phần lớn chỉ dừng lại ở nhận thức.

6/ Hệ quả và thách thức:

Trong những năm gần đây, số lượng học sinh đăng kí học và thi ban Xã hội nhân văn ngày càng ít đi. Không những thể chất lượng ngày càng giảm. Các số liệu thống kê cho thấy, môn ngữ văn đang bị tuyệt đại đa số học sinh phổ thông chối bỏ. Năm 2009, chỉ có 1,82 HS PT theo học ban Xã hội – Nhân văn. Những Hs học sinh học ban này (thi khối C) không phải toàn là học sinh giỏi. Họ theo học ban này chẳng qua không đủ lực theo học ban khác, chứ chẳng say mê văn học. Có rất nhiều HS học ban khoa học tự nhiên (thio khối A- D) rất giỏi văn. Như thể toàn 100% HS THPT chỉ cần học văn để thi đỗ tốt nghiệp mà thôi.

Ngay cả với Hs các trường chuyên, trừ một số ít các em vẫn còn giữ được lòng say mê văn chương thực sự, còn số còn lại cũng không tránh khỏi những ám ảnh của tương lai không sáng sủa đối với ngành học mà học sẽ theo đuổi. Công việc, lương bổng và các điều kiện cho một cuộc sống bình ổ phía trước rất bấp bênh đối với nhuwngc HS theo học các ngành xã hội nhân văn. Hệ qyur là việc dạy học văn trong nhà trường phổ thông nói chung không mấy khởi sắc, nhất là khu vực phía Nam . HS không học văn, không chịu đọc tác phẩm, ngay cả các trích đoạn ngắn trong SGK. Trình trạng HS trốn không muốn vào đội tuyển tỉnh và quốc gia ở mon học này là phổ biến. Các em muốn có thời gian đẻ đầu tư cho các môn thi đại học….

Trong khi đó, bối cảnh xã hội và đối tượng người học đã thay đổi, người làm chương trình. Người viết sách GK và tất cả GV dạy Ngữ văn đều đang đứng trước thách thức rất lớn, trong phạm vi này chỉ xin nêu vài điểm liên quan đến dạy và học Ngữ Văn



a/ Về bối cảnh xã hội: Một trong những đặc điểm nổi bật của xã hội hiện đại là sự thay đổi quá nhanh chóng. Những biến động mạnh mẽ và không ngưng nghỉ của mọi yếu tố cấu thành đời sống, nhất là khoa học kĩ thuật và công nghệ, đang là thách thức lớn nhất đối với mọi xã hội. Đặc điểm đó chi phối tất cả các ngành, các tổ chức và cá nhân trong xã hội. Nền giáo dục không thể là ngoại lệ mà ngược lại, với vị trí, chức năng của mình GD có một vai trò và nhiệm vụ hết sức to lớn trong việc tạo ra một lớp người năng động, sáng tạo nhằm đáp ứng yêu cầu của xã hội công nghiệp, hiện đại, và bắt kịp với nhịp độ tăng tốc như vũ bão của thế giới đương đại.

chính vì thế các quốc gia đều tiến hành thay đổi, đổi mới, thậm chí cải cách chương trình liên tục. Hàn Quốc từ 1955 đến 1997 thay đổi 7 lần1. CT lần thứ 7 mới thực hiện từ 2000 – 2006 thì 2007 đã làm lại chương trình. CT này mới được hoạch định thì năm 2009, Tổng thống mới đắc cử Lee Myung-Bak lại yêu cầu thay đổi CT ở bậc THPT2. Hiện nay ở nhiều nước, “tuổi thọ” của một CT chỉ còn 5-7 năm3, có khi chỉ 2-3 năm như trường hợp của CT Hàn Quốc vừa nêu.

Có thể nói bối cảnh toàn cầu hóa đang diễn ra rất nhanh, đang làm bằng phẳng thế giới, tạo ra môi trường học tập khác hẳn truyền thống và ảnh hưởng rất lớn đến phương pháp học tập của thế hệ HS thời hiện đại.

Thế giới phẳng sẽ tạo ra một sân chơi bình đảng cho tất cả mọi người. Khi đó, chỉ cần có Internet thì HS Mường Tè, Mù Căng Chải hay tận mũi Cà Mau, cực nam tổ quốc đều có được những thông tin như nhau, các cơ hội học tập như nhau. Sẽ không có sự phân biệt giữa quốc gia này và quốc gia khác về thông tin về sự hiểu biết nguồn tri thức chung của nhân loại. Đúng như Doc Searld đã nhận xét: “Trong một thế giới phẳng có vô vàn cơ hội học hỏi cho dù không có sự trợ giúp của nhà trường, chính phủ, giáo hội hay các doang nghiệp. Phần lớn những điều bạn cần biết đã được đăng tải trên mạng Internet”1.

b) Về đối tượng người học: có một sự khác biệt khá lownsveef đối tượng người học đã được tạo ra và không thể không chú ý.

Người học bây giờ là những HS phát triển khá đầy đủ cả về thể chất lẫn tinh thần. Về cơ bản vấn đề ăn và mặc không còn là sự trăn trở, thậm chí bị đe dọa như trước. Ước mong “ăn no, mặt ấm” về căn bản đã đạt được. một bộ phận khá lớn HS, thanh, thiếu niên đã hướng tới mức sống “ăn ngon- mặc đẹp”, một bộ phận nhỏ khác, chủ yếu ở các đô thị lớn, có điều kiện hơn, đã hướng tới mức “ăn lạ, mặt mốt”… Do điều kiện vật chất trên nên sức khỏe của HS cũng đã được cải thiện nhiều. Đại bộ phận phát triển bình thường về cân nặng và chiều cao; ở nhiều thành phố lớn đã xuất hiện hội chứng béo phì. Do sự phát triển nhanh, đủ chất dinh dưỡng nên cơ thể sinh lí và tâm lí của HS cũng thay đổi. Tuổi dậy thì sớm hơn. Vấn đề tình yêu, tình dục trong nhà trường phổ thông, nhất là giai đoạn cuôi cần được chú ý. Văn hóa nghe nhìn, các phương tiện thông tin liên lạc, giải trí trên mạng Internet sẽ đa dạng, tiện nghi và hiện đại hơn nhiều. Việc học ở trường vói SGK và bài giảng của thầy chỉ là một trong nhiều nguồn thông tin khác. GV nếu không được bồi dưỡng, nâng cao sẽ lạc hậu hơn HS rất nhiều về thông tin và cập nhập thông tin; kĩ năng vận dụng và sử dụng công nghệ thông tin và các phương tiện nghe nhìn hiện đại. Quan niệm thẩm mĩ, sự nhận thức về cái thiện, cái cao cả, cái hài, cái bi, tính nhân đạo, lòng thương người, lòng tin… có thể khác nhiều so với thế hệ 8X – 9X của thế kỉ XX.

Học sinh thời trước, quanh năm học bị giam trong bốn bức tường, ngồi yên nghe GV giảng, công cụ dạy và học chủ yếu là bảng đen, phấn trắng và mấy cuốn SGK… Học sinh thời đại số, thời mạng, quen làm nhiều việc một lúc, đồng thời nghe nhạc, nói điện thoại và dùng máy tính. Học mang tính chất tự học và tự tìm hiểu vấn đề nhiều hơn. Học và chơi trò chơi trên máy tính thực tế trở thành một phần của việc giáo dục con người. Cũng như nhiều nước phát triển tình trạng HS ít đọc các tác phẩm cổ điển, ham mê cá trò chơi điện tử trên mạng thích bày tỏ quan niệm, thái đọ, suy nghĩ trên diễn đàn mạng, đặc biệt với sự phát triển của blog, facebook…

Có thể thấy HS thời nay được xuất phát từ một mặt bừng văn hóa tổng hợp khá cao. Những HS giỏi có tu chất tốt lại được sống và học tập, làm việc trong bối cảnh văn hóa đa dạng với công cụ và phuong tiện giao tiếp hiện đại; biết ngoại ngữ, cập nhật thông tin thường xuyên hơn… Điểm mạnh này của học sinh sẽ là một thách thức thức với GV. Nếu người GV không chịu vươn lên, chắc chắn sẽ tụt hậu so với HS. Rất nhiều cản trở do tuổi tác: trí nhớ khó khăn hơn, kĩ năng chậm hơn, tiếp nhận cái mới, với công nghệ hiện đại khó hơn… Trong trường hợp này, người thầy cần tìm cách vượt HS để trở thành bậc thầy ở nhiều bình diện, nhất là phương pháp, cách nghĩ, cách tiếp cận và xử lí vấn đề. Đối với việc dạy học Ngữ văn; HS có thể nhiều thông tin hơn người thầy, nhưng cách đọc, cách tiếp nhận, giải mã thế giới nghệ thuật, khám phá văn học… người thầy là bậc thầy của HS.

Bối cảnh đã nêu tên là rất quan trọng và có ý nghĩ trong việc xác định một chiến lược dạy học nói chung và dạy học ngữ văn nói riêng. Cụ thể là:


  1. Người GV cần biết tự thay đổi liên tục để thích nghi với những biến động của xã hội. Tự học và học suốt đời là một yêu cầu thực sự đối với mọi người, nhất là trí thức, những người thầy đứng trên bục giảng.

  2. Dạy học nói chung và dạy học Ngữ văn nói riêng cần tập trung hình thành cho HS phương pháp học và học phương pháp học. PPDH phải tạo cho HS tính hiếu kì, tò mò (curiosity) và sự đam mê (passion) để tự họ đi tìm và tự lí giải, qua đó mà hình thành năng lực. Không nhồi nhét kiến thức, không bắt nhớ máy móc, cần biết quên cái cụ thể, chi tiết; chỉ nhớ cách làm, cách xử lí vấn đề… giúp HS tự học, tự khám phá, kích thích sáng tạo. Giờ văn học trước hết hãy giúp HS niềm yêu thích, say mê văn chương, mong muốn tìm tòi, tìm hiểu cái hay, cái đẹp của thế giwois nghệ thuật; rồi sau đo mới những yêu cầu khác.

  3. Nhà trường PT trong giai đoạn tới không chỉ chú ý khả năng tư duy loogic, biện chứng… mà cần lưu ý hình thành “khả năng suy tưởng, Sự mẫn cảm”, những “vẻ đẹp thẩm mĩ và xúc cảm”. Trong thế giới hiện đại, điều đó còn quan trọng hơn cả tư duy phân tích – looic. Yêu cầu này là hết sức đúng với bản chất của môn ngữ văn.

II. Định hướng phát triển chương trình giáo dục phổ thông Việt Nam sau 20151

Xây dựng và phát triển Ct môn Ngữ văn, không thể không dựa vào những định hướng lớn của chương trình GDPT nói chung. Dự thảo Đề án Phát triển chương trình giáo dục phổ thông Việt Nam sau 2015, bước đầu đã nêu lên 7 định hướng sau:



1. Phát triển năng lực người học

a) Chương trình được xây dựng hướng tới sự phát triển những năng lực chung mà mọi học sinh đều cần để có thể tham gia hiệu quả nhiều loại hoạt động trong đời sống xã hội và cho học suốt cuộc đời (ví dụ năng lực nhận thức, năng lực giải quyết vấn đề, năng lực hợp tác, năng lực tự học v.v…). Đồng thời hướng tới phát triển những năng lực chuyên biệt, liên quan đến một môn học hay một lĩnh vực hoạt động cụ thể phù hợp với khuynh hướng nghề nghiệp tương lai mỗi cá nhân (ví dụ năng lực cảm thụ văn học, năng lực diễn kịch v.v…). Chú trọng xây dựng các mức độ khác nhau của cả năng lực chung, năng lực chuyên biệt ở từng cấp học, môn học.

b) Khi xây dụng chương trình (xác định phạm vi và cấu trúc nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức giáo dục, phương pháp đánh giá kết quả giáo dục) và biên soạn sách giáo khoa đều phải xuất phát, đều phải hướng tới phát triển các năng lực chung và năng lực cá nhân cho học sinh.

2. Điều chỉnh cân đối “dạy chữ”, “dạy người” và định hướng nghề nghiệp.

Chương trình, SGK phải tạo điều kiện cho học sinh được phát triển cả thể chất và tinh thần, được phát triển toàn diện các mặt giáo dục đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và lao động, hướng nghiệp, từ đó dần hoàn thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Vì vậy cần thực hiện cân đối dạy chữ, dạy người và định hướng nghề nghiệp để “nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đặc biệt coi trọng giáo dục lý tưởng, giáo dục truyền thống lịch sử cách mạng, đạo đức, lối sống, năng lực sáng tạo, lĩ năng thực hành, tác phong công nghiệp, ý thức trách nhiệm xã hội”1.

3. Nội dung giáo dục xây dựng theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế:

a) Lựa chọn nội dung giáo dục là những tri thức cơ bản của nhân loại, những thành tựu khoa học công nghệ và những giá trị lịch sử, tinh hoa văn hóa dân tộc phải đảm bảo vừa hội nhập quốc tế, vừa gắn kết với thực tiễn nước ta trong giai đoạn hiện đại hóa, công nghiệp hóa. Nội dung được thiết kế theo hướng giảm tính hàn lâm, tăng tính thực hành và ứng dụng vào giải quyết các vấn đề tạo điều kiện phát triển các năng lực chung, năng lực riêng biệt cho HS; dung lượng học tập phải phù hợp với thời lượng học tập.

b) Chú trọng giáo dục những giá trị nhân bản, phổ quát của của dân tộc và nhân loại cho HS thông qua việc tăng cường các hoạt động xã hội. Cải tiến nội dung giáo dục đạo đức, gióa dục công dân, giáo dục thể chất và giáo dục thẩm mỹ theo hướng coi trọng tính trung thực, tự chủ, ý thức trách nhiệm và phát huy nội lực cá nhân HS.

4. Chương trình, sách giáo khoa được cấu trúc như một chỉnh thể, linh hoạt và thống nhất trong đa dạng

a) Chương trình giáo dục phổ thông đảm bảo vừa tiếp nối từ chương trình giáo dục mầm non, vừa tạo nền tảng cho sự phát triển chương trình giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học. Đồng thời đảm bảo liên thông giữa các cấp học và trong mỗi môn học, mỗi hoạt động giáo dục.

b) Chương trình, SGK được xây dựng là một chỉnh thể nhất quán từ lớp 1 đến lớp 12, từ cấp học đến các môn học nhằm đảm bảo tính thống nhất và hệ thống. Chương trình được thiết kế theo hai giai đoạn, giáo dục cơ bản (tiểu học, THCS) mang tính phổ cập và sau giáo dục cơ bản THPT) mang tính định hướng nghề nghiệp.

c) Chương trình, SGK được xây dựng theo hướng tích hợp cao ở các lớp dưới, phân hóa rõ dần từ tiểu học đến THCS và sâu hơn ở THPT. Giảm số lượng môn học bắt buộc trong mỗi cấp học và tăng các môn học, các chur đề tự chọn đáp ứng nhu cầu, năng khiếu và định hướng nghề nghiệp của HS.

d) Kế hoạch giáo dục và cấu trúc nội dung được thiết kế với thời lượng: Cấp tiểu học là 2 buổi ngày và hướng dẫn vận dụng cho những cơ sở giáo dục chỉ có điều kiện dạy 1 buổi ngày; Cấp THCS, THPT là 1 buổi ngày và hướng dẫn vận dụng cho những cơ sở giáo dục có điều kiện dạy 2 buổi ngày.

e) Trên cơ sở chương trình chung quốc gia, địa phương được quyền điều chỉnh và bổ sung một phần nội dung, lập kế hoạch dạy học chi tiết và vận dụng những phương pháp, hình thức tổ chức dạy học phù hợp với nhu cầu, điều kiện cụ thể của mình.

5. Đẩy mạnh đổi mới phương pháp và hình thức tổ chức giáo dục nhằm phát tiển năng lực cho học sinh

a) Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ các phương pháp giáo dục phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của HS như giải quyết vấn đề, dạy học kiến tạo, dạy học khám phá, dạy học theo dự án,…; chú trọng bội dưỡng phương pháp tự học, khả năng hợp tác, kĩ năng vận dụng… nhằm hình thành và phát triển các năng lực chung, năng lực chuyên biệt cho HS.

b) Đa dạng hóa các hình thức tổ chức giáo dục trong và ngoài lớp học, trong và ngoài nhà trường; cân đối giữa dạy học và hoạt động giáo dục, giữa hoạt động tập thể, nhóm nhỏ và cá nhân, giữa dạy học bắt buộc và dạy học tự chọn,… để đảm bảo vừa vừa phát triển năng lực cá nhân, vừa nâng cao chất lượng giáo dục cho mọi HS.

Chú trọng các hình thức tổ chức giáo dục như tập dượt nghiên cứu khoa học, giao lưu và trao đổi học thuật, sinh hoạt câu lạc bộ, … cho đối tượng HS năng khiếu. Ở những nơi có điều kiện, tổ chức dạy học và hoạt động GD theo lớp học hòa nhập cho đối tượng HS thiệt thòi để đảm bảo quyền được đi học và học tập có chất lượng cho mọi trẻ em.



c) Tăng cường, nâng cao hiệu quả giáo dục theo hướng đánh giá năng lực

a) Đánh giá kết quả giáo dục nhằm: cung cấp thông tin chính xác, khách quan để điều chỉnh hoạt động dạy và học nâng cao dần năng lực cho HS; xác định năng lực của HS dựa theo chuẩn cấp học, chuẩn môn học thống nhất trên toàn quốc.

b) Để đánh giá đúng năng lực HS ở mỗi lớp học và sau cấp học cần phải:

- Thực hiện đa dạng các phương pháp như quan sát, vấn đáp, kiểm tra trên giấy, trình diễn, dự án, hồ sơ HS,…; phối hợp chặt chẽ nhiều hình thức như đánh giá chẩn đoán, quá trình và ttổng kết, đánh giá của GV và tự đánh giá của HS, của nhà trường, gia đình, xã hội.

- Sử dụng đa dạng công cụ đánh giá như câu hỏi phát vấn, đề kiểm tra, bài luận, bài tập lớn,…bảo đảm đo lường phổ năng lực từ thấp đến cao trong tình huống thực tiễn. Chú trọng phát triển các kĩ thuật đánh giá như thiết kế đề kiểm tra, nhận xét định tính, xử lý định lượng, phản hồi…

- Đổi mời kỳ thi tốt nghiệp THPT theo hướng kết hợp cả kết quả đánh giá môn học với kết quả thi, kết quả đánh giá quá trình với đánh giá tổng kết.

c) Thực hiện định kỳ đánh giá quốc gia để đánh giá chất lượng GD mỗi cơ sở GD, từng địa phương và cả nước. Tham gia một số đánh giá quốc tế nhằm xá định mặt bằng chất lượng giáo dục quốc gia so với khu vực và thế giới, làm can cứ đề xuất chính sách nâng cao chất lượng giáo dục quốc gia.

d) Đảm bảo kết quả đánh giá ở nhà trường phổ thông toàn diện, tin cậy nhằm tạo cơ sở đổi mới kỳ thi tuyển sinh cao đẳng, đại học.



7. Xây dựng một chương trình, biên soạn một số bộ sách giáo khoa và các tài liệu hỗ trợ dạy học

a) Bộ GD&ĐT tổ chức xây dựng, thẩm định và ban hành một chương trình quốc gia được sử dụng thống nhất trong giảng dạy, học tập ở các cơ sở giáo dục phổ thông. Các tổ chức, cá nhân cỏ thể tổ chức biên soạn nhiều bộ sách giáo khoa hoặc một số quyển sách giáo khoa theo chương trình quốc gia. Bộ GD&ĐT sẽ xem xét, phê duyệt cho phép thử nghiệm và thẩm định, phê duyệt cho phép phát hành để sử dụng trong giảng dạy, học tập ở cơ sở GD phổ thông.

b) Phát triển nhiều loại tài liệu hướng dẫn thực hiện chương trình, hỗ trợ dạy và học để đáp ứng sự đa dạng vùng miền, nhu cầu các đối tượng. Đặc biệt tài liệu hỗ trợ HS dân tộc thiểu số, HS vùng khó.

c) Địa phương được quyền xây dựng các tài liệu hỗ trợ dạy và học phù hợp với đặc điểm địa phương mình. Các tài liệu này được Bộ GD&ĐT phê duyệt.



III. Đề xuất cấu truch chương trình môn Ngữ văn trong nhà trường phổ thông sau năm 2015 và một số vấn đề liên quan

1. Cơ sở đề xuất

- Lịch sử phát triển chương trình tiếng Việt, Ngữ văn của Việt Nam

- Những ưu điểm và nhược điểm của CT hiện hành

- Định hướng đổi mới căn bản toàn diện GD và phát triển CTGDPT sau 2015 (gồm Chiến lược GD 2010 – 2020; Đề án đổi mới can bản toàn diện; Đề án đổi mới CT và SGK sau 2015)

- Xu thế quốc tế về môn học/ lĩnh vực tiếng mẹ đẻ - văn học trong nhà trường PT.

2. Những nội dung cơ bản

2.1. Mục tiêu môn học

Cần nhấn mạnh:

- Hình thành và phát triển các năng lực cốt lõi và năng lực đặc thù của môn học; đặc biệt là năng lực giao tiếp (kiến thức tiếng mẹ đẻ cùng với 4 kỹ năng cơ bản: nghe, nói, đọc, viết và khả năng ứng dụng một cách phù hợp, linh hoạt và sáng tạo các kiến thức và kỹ năng ấy vào các tình huống giao tiếp khác nhau trong cuộc sống) và năng lực cảm thị, thưởng thức văn học.

- Bồi dưỡng và nâng cao vốn văn hóa cho người học thông qua những hiểu biết về ngôn ngữ và văn học. Từ đó mà giáo dục, hình thành và phát triển cho HS những tư tưởng, tình cảm nhân văn trong sáng, cao đẹp.

2.2. Tên môn học

Như đã nêu từ trước tới nay, tên môn học này ở Việt Nam rất đa dạng và phong phú. Với CT sau 2015, chúng tôi đề nghị lấy tên chung từ tiểu học đến THPT là Ngữ văn (được hiểu vừa là môn tích hợp, vừa là hai cấu phần ngôn ngữ và văn học)



2.3. Các mạch kiến thức và kĩ năng lớn cấu thành CT môn học

- Năng lực tiếp nhận bao gồm 2 kỹ năng: Đọc Nghe (có thể thêm quan sát – viewing)

- Năng lực tạo lập bao gồm 2 kỹ năng: NóiViết (có thể thêm trình bày – Presenting)

- Kiến thức tiếng Việt bao gồm: Ngữ âm, Từ vựng, Ngữ pháp, Văn bản

-   Kiến thức văn học gồm: Văn học Việt Nam, Văn học nước ngoài, Lý luận và lịch sử văn học (cơ bản và sơ giản)

2.4. Ma trận phân bố các mạch kiến thức- kỹ năng từ lớp 1- 12

a) Lấy trục kỹ năng làm trục tích hợp xuyên suốt từ lớp 1- 12, từ thấp lên cao, từ đơn giản đến phức tạp, …Các kiến thức về tiếng Việt và văn học được hình thành và phát triển thông qua thực hành kỹ năng, tích hợp qua đọc, nghe, nói viết và phần tự chọn phân hóa ở cuối THCS, đặc biệt là THPT.

b) Mỗi kỹ năng lớn được phân ra nhiều kỹ năng bộ phận và các trình độ khác nhau, ngày càng yêu cầu cao hơn, đa dạng và phức tạp hơn. Có thể chia làm 6 bậc trình độ cho mỗi kỹ năng :

Trình độ

1

2

3

4

5

6

Lớp

1-2

3-5

6-7

8-9

10

11-12

Cũng có thể xây dựng yêu cầu cho mỗi lớp 1 trình độ (như Hàn Quốc).

c)  Mỗi trình độ được phân hóa theo các yêu cầu cơ bản sau:

- Yêu cầu về đối tượng và phạm vi văn bản (đọc, nói nghe, viết…cái gì? ở đâu?)

- Yêu cầu về mức độ (đọc, nói nghe, viết…như thế nào? đến mức nào?)

d) Có thể phân bố nội dung học tập của môn học như sau:

Phân bố khái quát về ma trận nội dung môn học



Lớp

Đọc

Nghe

Nói

Viết

Tự chọn

1-2

Đọc 1

Nghe 1

Nói 1

Viết 1

 

3-4-5

Đọc 2

Nghe  2

Nói 2

Viết 2

 

6-7

Đọc 3

Nghe 3

Nói 3

Viết 3

 

8-9

Đọc 4

Nghe 4

Nói 4

Viết 4

CĐ: Văn học

 

10


 

Đọc 5


 

Nghe 5


 

Nói 5


 

Viết 5


CĐ: VH,TV,LV

- Ngôn ngữ

- Tạo lập VB


 

11-12


 

Đọc 6


 

Nghe 6


 

Nói 6


 

Viết 6


- Môn tự chọn cơ bản: văn học

- CĐ tự chọn nâng cao



- Từ lớp 1- 9 ( hết GD cơ bản) học chung một chương trình với 4 kỹ năng và phân hóa theo 4 trình độ đầu. Về cơ bản kết thúc các yêu cầu cơ bản về năng lực ngữ văn. Ngoài ra từ lớp 8-9 có thêm chủ đề tự chọn về văn học, tiếng Việt và làm văn.

- Lớp 10-12 (sau GD cơ bản) chia ra 2 hướng: cơ bản và chuyên sâu

        + Cơ bản: vẫn học theo trục 4 kỹ năng nhưng ở trình độ cao hơn (5 và 6)

        + Chuyên sâu: được thực hiện bằng môn tự chọn văn học và các chủ đề tự chọn nâng cao về tiếng Việt, làm văn và văn học, văn hóa.

        + Lớp 10 ngoài nội dung học cơ bản theo 4 kỹ năng, các chủ đề tự chọn mang tính dự hướng chung: văn học; ngôn ngữ, tạo lập văn bản (phát triển kỹ năng nói và viết)

        + Lớp 11 và 12: ngoài nội dung học cơ bản theo 4 kỹ năng, học tự chọn môn văn học với các chủ đề nâng cao, gắn nhiều hơn với định hướng nghề nghiệp và ngành đào tạo của HS ở bậc cao hơn.



2.5. Mô tả nội dung và yêu cầu khái quát của các mạch chương trình

- Hình thành và rèn luyện, phát triển hài hòa các kỹ năng, nhưng không cào bằng về thời lượng dạy học trong mỗi giai đoạn/ trình độ.

- Ngữ liệu cho việc học các kỹ năng bao gồm các văn bản văn học và các loại văn bản khác: báo chí, truyện tranh, từ điển, bài hát, câu đố… Các văn bản văn học sẽ lựa chọn theo các thể loại từ các giai đoạn nhưng phù hợp với tâm lý lứa tuổiphục vụ cho yêu cầu rèn luyện các năng lực chung và năng lực chuyên biệt ( phát triển năng lực giao tiếp và năng lực phân tích, cảm thụ văn học)

- Thiết kế và xây dựng CT với các mức độ và nội dung phân hóa của từng kỹ năng theo trình độ hoặc theo từng lớp với các yêu cầu nêu trong bảng sau:



Kỹ năng

Kỹ năng bộ phận

Đối tượng, phạm vi

Yêu cầu về mức độ

Đọc

 

 

 

Nghe

 

 

 

Nói

 

 

 

Viết

 

 

 

Mỗi kỹ năng được xác định cho từng trình độ/ lớp cụ thể. Ví dụ đây là nội dung và yêu cầu kĩ năng Đọc với lớp 10 của Hàn Quốc .

Kỹ năng

Đối tượng, phạm vi đọc

Mức độ

Đọc

- Những bài diễn thuyết hoặc trình bày, giải thích về các định nghĩa, công thức, sự kiện... có quan hệ với các đối tượng và hiện tượng khác nhau.

- Những bài thảo luận về các vấn đề xã hội.

- Những cuộc đối thoại hoặc câu chuyện có sử dụng những phương ngôn một cách chủ ý.

- Các tác phẩm đa nghĩa, có thể tạo nên nhiều cách hiểu/giải thích khác nhau.

- Những tác phẩm đi sâu vào miêu tả đời sống tâm hồn bên trong và những mâu thuẫn muôn thuở của con người.

- Những bài phê bình văn học, trong đó thể hiện những hiểu biết tuyệt vời và có giá trị cao về lịch sử văn học.



- Nắm được bản chất của các văn bản chứa đựng/nói về những điều luật xã hội và đánh giá sự công bằng, hợp lý.

- Đọc một số văn bản và so sánh, phân tích, đánh giá những tiền đề và những sự thừa nhận, khẳng định.

- Đọc các bài báo phỏng vấn và đánh giá mục đích của cuộc phỏng vấn, những chiến lược (cách thức phỏng vấn) và quan điểm phỏng vấn.

- Đọc những cuốn sách thông dụng và đánh giá chất lượng cũng như những nguyên nhân tạo nên sự nổi tiếng của những cuốn sách ấy.

- Tìm ra những ý nghĩa và hiệu quả tích cực mà văn học mang đến cho đời sống nhân loại

- Nắm được phong cách của tác giả sau khi đọc xong một tác phẩm văn học

- Hiểu được các tác phẩm văn học đề cập đến những điều kiện sống chung của con người (có thể hiểu đây là những tác phẩm cùng đề tài, chủ đề)

- Suy ngẫm sâu sắc về một tác phẩm văn học



2.6. Cấu trúc nội dung môn học theo hướng phân hóa ở THPT


tải về 198.38 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương