Xứ đàng trong năm 1621



tải về 0.59 Mb.
Chế độ xem pdf
trang3/14
Chuyển đổi dữ liệu01.09.2022
Kích0.59 Mb.
#53051
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   14
xu-dang-trong-nam-1621 BORRY
KhoSachOnline.Com-lich-su-vuong-quoc-dang-ngoai-pdf
CH
ƯƠNG 3: ĐT ĐAI PHÌ NHIÊU
Ng
ười ta dễ dàng nhận thấy là nước lụt đã làm cho đất đai ở xứ
Đàng Trong phì nhiêu, nh
ư chúng tôi vừa nói. Tuy nhiên, tôi thấy còn phải
k
ể nhiều sự đặc biệt khác nữa.
N
ước lụt làm cho đất mầu mỡ và phì nhiêu nên mỗi năm có ba vụ
lúa [1], đ
ầy đủ và dồi dào đến nỗi không ai phải lam lũ vất vả để sinh
s
ống, ai cũng sung túc.
Quanh năm có r
ất nhiều và có đủ thứ trái cây như ở An Độ, vì xứ
Đàng Trong có cùng khí h
ậu như ở An. Nhưng đặc biệt là cam ở Đàng
Trong trái l
ớn hơn ở Châu Au to và rất ngọt. Vỏ rất dể bóc, mềm và
ngon, cam có th
ể ăn được cả vỏ lẫn ruột và có mùi vị thơm như trái
chanh [2] 
ở Ý. Ở đây người ta cũng thấy một số trái khác người Bồ gọi
là chu
ối, người khác gọi là vả An Độ. Theo ý tôi thì không xác đáng vì ở
An không có cây nào đ
ược gọi là vả, và cây ở Đàng Trong không có gì
gi
ống cây vả của chúng ta, về thân cây cũng như về trái. Về thân cây thì
nó gi
ống như cây chúng ta gọi là “lúa mì Thổ Nhĩ Kỳ” tuy cao lớn hơn, là
r
ất dài và rất to bản, đến độ chỉ cần hai lá cũng đủ để có thể che một
ng
ười từ chân đến đỉnh đầu và bao quanh cả người. Do đó mà có người
mu
ốn gọi cây này là “cây vườn địa đàng” và Ađam đã lấy lá của nó để
che gi
ấu sự trần truồng của mình [3]. Cây này trổ ngay trên ngọn một
bu
ồng gồm hai mươi, ba mươi hay bốn mươi trái cột chặt với nhau, mỗi
trái v
ề hình thù, bề dài và độ lớn, đều giống trái chanh thông thường ở Ý.
Khi trái ch
ưa hoàn toàn chín thì vỏ xanh và sau đó trở nên vàng giống hệt
nh
ư chanh. Không cần dùng dao để bổ hay gọt vỏ, người ta lột vỏ rất dễ
dàng nh
ư bóc đâu mới hái. Mùi thì rất thơm, ruột vàng và khá cứng chắc
nh
ư một trái lê bergam chín muồi của ta, dễ tan trong miệng. Do đó
không th
ể nói là nó giống cây vả của chúng ta được, trừ vị thơm ngon và
d
ịu ngọt. Cũng còn một thứ trái khác thuộc loại này, người ta sấy và
ngâm r
ượu [4]. Hàng năm, sau khi cây có trái, sẽ héo đi và một nhánh con
tr
ổ ở gốc để cho năm sau. Ở Ý chúng ta gọi là cây vả An Độ, nhưng thực
ra không có gì gi
ống về cây cũng như về trái chuối này. Bây giờ chúng tôi
nói t
ới cây (chúng ta gọi là cây vả An Độ, nhưng không phải là cây người
ta th
ấy ở những miền này).


Trái này có r
ất nhiều ở hầu hết các tỉnh An Độ, nhưng ở Đàng
Trong còn m
ột thứ không thấy ở Trung Quốc cũng như ở khắp An Độ.
Trái nó to, nh
ư trái chanh lớn nhất ở Ý và to đến nỗi chỉ căn một trái cũng
đ
ủ no. Ruột thì trắng và có rất nhiều hạt nhỏ đen và tròn, người ta nhai
l
ẫn với ruột. Các hạt này có vị thơm ngon và rất tốt cho dạ dày.
Ở Đàng Trong cũng còn một loại trái cây nữa, tôi không thấy có ở
An Đ
ộ, người ta gọi là cam [5]. Về hình thù và chất vỏ, nó giống như lựu
c
ủa ta, nhưng ruột bên trong hơi lỏng phải dùng thìa để múc và có vị
th
ơm và có màu gần giống trái sơn trà chín.
H
ọ cũng có thứ giống như trái anh đào của ta, nhưng mùi vị thì lại
nh
ư trái nho theo tiếng họ gọi là gnoo.
H
ọ không thiếu dưa, nhưng không ngon bằng dưa của ta, nên phải
ăn v
ới đường hay mật. Dưa gang hay dưa nước, như nhiều người gọi,
r
ất to và rất tuyệt.
Có m
ột trái gọi là mít. Trái này cũng có ở An Độ, nhưng không
ngon b
ằng trái ở Đàng Trong. Trái mọc ở trên một cây cao như cây hồ đào
và cây d
ẻ của ta, nhưng gai thì dài hơn nhiều. Trái to như trái bí ngô lớn ở
Ý và ch
ỉ cần một trái cũng đủ cho một người vác. Bề ngoài nó có hình
thù c
ủa một nón thông, nhưng ruột thì dịu và mềm. Bên trong thì đầy
nh
ững múi vàng có hột dẹp và tròn như đồng tiền ở Ý hay đồng “teston”
(
ở Pháp). Ở giữa mỗi múi có hạt [6] người ta bỏ đi không ăn. Có hai
lo
ại[7], một loại người Bồ gọi là “giaca barca”, dóc hột, ruột cứng. Loại
th
ứ hai không dóc hột và ruột không cứng bằng, rất mềm và nát như keo.
Mùi v
ị của cả hai loại này rất ngon gọi là sầu riêng chúng tôi sẽ nói sau
đây.
Trái “durion” (s
ầu riêng) là một trong những trái ngon nhất hoàn
c
ầu, không thấy có ở đâu trừ ở Malacca, Bornéô và mấy đảo xung quanh.
Không có gì đ
ể nói giữa cây này và cây mít. Bên ngoài, trái này cũng
gi
ống trái mít và trái thông của ta, cả về kích thước cũng như độ cứng
c
ủa vỏ. Còn thịt thì bám vào hột như keo, rất trắng, còn mùi vị thì giống
nh
ư món đông hạnh nhân của người Ý [8]. Thịt và nước ngọt của nó
đ
ược chứa trong mười hay mười hai ngăn nhỏ, mỗi ngăn có nhiều múi
th
ịt trắng bọc quanh hột, to bằng hạt dẻ lớn nhất của ta. Khi mở ra thì
xông mùi khó ch
ịu như mùi hành thối, nhưng ở trong thì không có mùi và
l
ại rất thơm ngon. Tôi kể ở đây một câu chuyện xảy ra trước mắt tôi. Số
là có m
ột người muốn cho một giáo sĩ cao cấp mới tới Malacca thưởng


th
ức trái này và không báo trước. Ông mở một trái ngay trước mặt vị giáo
ch
ủ. Mùi khá nặng và khó chịu xông ra làm cho giáo chủ ghê sợ và nản
không dùng đ
ược. Nhưng lúc ngồi vào bàn tiệc, trong các món ăn có một
món ch
ỉ toàn là trái cây có mùi vị thơm giống món đông hạnh nhân làm
cho giáo ch
ủ dễ lầm cũng như bất cứ ai chưa được biết trước. Ông vừa
đ
ưa tay lấy một miếng thứ nhất và nếm thì thấy rất ngon làm ông bỡ
ng
ỡ và hỏi xem người đầu bếp nào khéo dọn món đông hạnh nhân ngon
đ
ến thế. Chủ nhà mỉm cười trả lời là chẳng có hỏa đầu quân nào ngoài
Thiên Chúa cao c
ả đã cho xứ này một trái hiếm gọi là sầu riêng mà lúc
đ
ầu ông đã ghê sợ. Nghe tới đây vị giáo chủ sửng sốt và hết lời ca ngợi,
ông dùng r
ất ngon miệng. Thế nhưng trái này ngon đến độ ngay ở
Malacca là n
ơi sản sinh, nhiều khi giá lên tới một đồng “êcu” một trái.
X
ứ Đàng Trong còn có một loại trái khác người Bồ gọi là dứa. Và
tôi bi
ết trái này cũng rất thông thường ở khắp An Độ và ở Brésil. Tuy
nhiên, vì tôi th
ấy người ta tả không đúng theo ý tôi lắm, nên tôi nghĩ là
ph
ải nói một chút. Trái này không trổ trên cây, cũng không do hạt giống,
nh
ưng do rễ như thể cây atisô của ta. Thân và lá hoàn toàn giống như cây
các đông và atisô c
ủa ta. Trái hình tròn dài bằng chín ngón tay [9] và to
nh
ư thể lấy hai vốc tay ôm vừa. Ruột ở trong thì dày như ruột cải củ,
nh
ưng vỏ thì cứng hơn và sờm như vây cá. Khi chín bên trong vàng và sau
khi l
ấy dao gọt vỏ thì ăn sống. Trái có vị chua dịu và khi chín thì thơm
ngon nh
ư trái lê “bergam”.
Ở xứ Đàng Trong còn một trái khác đặc biệt của xứ này người Bồ
g
ọi là “aerca” (cau). Cây nó mọc thẳng như cây dừa, rỗng ở trong và chỉ
đâm lá 
ở chóp đỉnh, lá tựa như lá dừa: ở giữa các tàu lá, nảy các ngành
nh
ỏ có trái. Trái có hình thù và kích thước của trái hồ đào [10], sắc xanh
cũng nh
ư vỏ hồ đào, còn ruột thì trắng và cứng như trái dẻ [11] chẳng có
mùi v
ị gì hết. Trái này không ăn một mình, nhưng ăn với lá trầu không,
th
ứ cây rất thông dụng ở khắp An Độ, lá như lá thường xuân [12] ở Châu
Au và thân bám vào cây ch
ống như giống cây thường xuân. Người ta hái
lá c
ắt thành từng miếng nhỏ và trong mỗi miếng để một miếng cau, như
v
ậy mỗi trái có thể làm thành bốn hay năm miếng. Người ta còn thêm vôi
v
ới cau. Vôi ở xứ này không làm bằng đá như ở Châu Au, nhưng bằng vỏ
sò h
ến [13]. Vì trong nhà thường có những người chuyên lo việc bếp núc,
ch
ợ búa và các việc khác, nên ở Đàng Trong mỗi nhà đều có một người
không có vi
ệc gì khác hơn là việc têm trầu, những người dùng vào việc


này th
ường là đàn bà, nên gọi là các bà têm trầu. Những miếng trầu đã
têm s
ẵn thì để vào trong hộp và suốt ngày người ta nhai trầu, không
nh
ững khi ở trong nhà mà cả khi đi lại trong phố chợ, cả lúc nói, ở mọi
n
ơi, mọi lúc. Và sau khi đã nhai trầu lâu và nghiền trong miệng người ta
không nu
ốt mà nhả ra, chỉ giữ hương vị và phẩm chất tăng thêm sức
m
ạnh cho dạ dày một cách kỳ lạ. Trái này được têm thành miếng rất
thông d
ụng đến nỗi khi tới thăm ai, người ta đem theo một túi đầy trầu và
m
ời người mình tới thăm, người chủ nhà lấy một miếng cho ngay vào
mi
ệng. Trước khi người khách từ biệt ra về, chủ nhà sai người têm trầu
c
ủa nhà mình đem ra một túi để mời người khách đến thăm mình, như để
đáp l
ại sự lịch thiệp mình đã nhận được. Do đó vì cần phải có sẵn coi
tr
ầu cau và có liên tục, nên cau cũng là một nguồn lợi lớn ở xứ này, có
v
ườn cau thì cũng như ở xứ chúng ta có ruộng nho và ruộng ôliu. Họ
cũng hút thu
ốc lá, nhưng thuốc lá không thông dụng bằng trầu cau. Cũng
có đ
ầy đủ các loại mướp và có cả mía nữa. Các trái cây ở Châu Au thì
cho t
ới nay chưa được đưa tới xứ Đàng Trong. Tôi tin rằng nho và vả sẽ
m
ọc được ở đây, những thứ rau như rau diếp, rau diếp xoắn, sú và những
th
ứ rau tương tự hiện có ở Đàng Trong như ở khắp An Độ, nhưng chúng
ch
ỉ ra lá mà không có hạt và nếu muốn gieo thì phải đem hạt từ Châu Au
qua.
Th
ịt thà thì rất nhiều ở đây vì có vô số súc vật bốn chân nuôi trong
nhà nh
ư bò, dê, lợn, trâu và các giống tương tự, và thú rừng như hươu nai
to l
ớn hơn ở Châu Au, lợn rừng và mấy loại khác. Gia cầm như gà nhà và
gà r
ừng rất nhiều ở thôn quê, chim gáy, chim bồ câu, vịt, ngỗng, sếu, thịt
th
ơm ngon và sau cùng là mấy thứ khác ở Châu Au không có.
Ngành ng
ư nghiệp cũng rất thịnh vượng và cá ở đây có hương vị
tuy
ệt diệu và rất đặc biệt, tôi đã qua nhiều đại dương, đã đi nhiều nước,
nh
ưng tôi cho rằng không nơi nào có thể so sánh được với xứ Đàng
Trong. Và nh
ư tôi đã viết, xứ này chạy dọc bờ biển, nên có rất nhiều
thuy
ền đánh cá và rất nhiều thuyền tải cá đi khắp xứ, từng đoàn người
chuy
ển cá từ biển tới tận miền núi, có thể nói trong một ngày hai mươi
b
ốn tiếng đồng hồ thì ít ra họ dùng tới hai mươi tiếng để làm việc này.
Th
ực ra người Đàng Trong ăn cá nhiều hơn ăn thịt. Họ chuyên chú đánh
cá ch
ủ yếu là vì họ rất ham thứ nước “sốt” [14] gọi là balaciam [15] làm
b
ằng cá ướp muối cho mềm và làm nhão ra trong nước. Đây là một thứ
n
ước cốt cay cay tựa như mù tạt (moutarde) của ta, nhà nào cũng dự trữ


m
ột lượng lớn đựng đầy trong chum, vại như tại nhiều nơi ở Châu Au,
ng
ười ta dự trữ rượu. Thứ nước cá này dùng một mình thì không nuốt
đ
ược nhưng được dùng để gợi nên hương vị và kích thích tì vị để ăn cơm
v
ốn nhạt nhẽo và không có mùi vị nếu không có thứ nước đó. Vì cơm là
th
ức ăn chung và thông thường của xứ Đàng Trong, nên cần phải có rất
nhi
ều balaciam (nếu không thì không có mùi vị) và do đó phải có một
l
ượng lớn nước mắm và cũng do đó phải liên tục đánh cá. Cũng không ít
sò, h
ến và các hải sản khác, nhất là một thứ họ gọi là cameron [16].
Nh
ưng ngoài tất cả những gì đã nói, Thiên Chúa quan phòng còn
dành cho h
ọ một thức ăn hiếm và ngon, theo thiển ý tôi, chỉ có thể so
sánh đ
ược với manna [17] Thiên Chúa dùng để nuôi dân riêng của Người
trong sa m
ạc và thức ăn này rất đặc biệt chỉ có ở xứ Đàng Trong chứ
không đâu có. Nh
ững điều tôi sẽ nói thì không phải bởi tôi đã nghe hay
theo ng
ười khác kể lại, nhưng chính tôi có kinh nghiệm, tôi đã thấy và
th
ường được ăn. Ở xứ này có một thứ chim be bé giống như chim én, nó
làm t
ổ [18] ở các cồn đá và hốc đá sóng biển vỗ vào. Con vật nhỏ này
dùng m
ỏ lấy bọt biển và với chất toát ra từ dạ dày, trộn cả hai thứ lại
làm thành m
ột thứ tôi không biết là bùn hay nhựa để làm tổ. Tổ này khi
đã khô c
ứng thì trong suốt và có sắc vừa vàng vừa xanh. Dân xứ này nhặt
nh
ững tổ đó về ngâm trong nước cho mềm và tan rã, rồi dùng làm đồ gia
v
ị trộn với thịt, các thứ thịt, cá, rau, hoặc thứ nào khác làm cho các món ăn
có m
ột hương vị khác nhau tuỳ món như thể đã sẵn cho hồ tiêu, quế, đinh
h
ương hay các thứ gia vị khác, như vậy chỉ một tổ yến mà có thể làm gia
v
ị cho hết các thứ thịt, không cần thêm muối, dầu, mỡ hay thứ gì tương
t
ự. Vì thế tôi nói, nó giống như manna, có hương vị của hầu hết các món
th
ơm ngon nhất, chỉ khác, một đàng là do công trình của một con chim bé
nh
ỏ và một đàng là do tay các thiên thần của Thượng Đế nhào nặn. Thứ
này nhi
ều đến nỗi chính tôi đã thấy người ta chất đầy mười chiếc
thuy
ền nhỏ những tổ yến nhặt ở dọc các hốc núi đá, trong khoảng chưa
đ
ầy nửa dặm. Và đây là món rất ngon, nên chỉ có chúa độc quyền sử
d
ụng, người ta dành tất cả cho ngài và ngài đem một số lớn cống vua Tàu
là ng
ười rất chuộng.
Dân 
ở đây không dùng sữa, họ cho là trọng tội nếu vắt sữa bò, họ
s
ợ nếu làm việc đó là mang tội, vì theo thiên nhiên thì sữa dành để nó
nuôi con. Nh
ư thể bò nuôi con mà không được sử dụng thứ lương thực
dành riêng cho con.


H
ọ còn ăn mấy thứ chúng ta rất sợ và chúng ta coi như độc, thí dụ
con t
ắc kè, con vật này nhỉnh hơn những con đã phơi khô nhập cảng từ
ngo
ại quốc và thường đem về Ý. Tôi đã thấy người bạn tôi mua mấy
con, bu
ộc lại thành bó và đem nướng trên than hồng. Giây buộc đứt và
chúng bò lê thê theo ki
ểu của chúng trên than hồng cho tới lúc thấy sức
nóng thì chúng ch
ống đỡ một chút vì lúc này rất lạnh, nhưng cuối cùng
chúng b
ị thiêu và nướng chín. Thế là ông bạn tôi lôi ra, lấy dao lóc lớp da
đã cháy, th
ịt nó rất trắng, ông bạn tôi nghiền thịt ra và trộn với một thứ
“n
ước sốt” đem đun chín rồi bỏ bơ vào ăn như một thứ thịt rất thơm
ngon. Ông m
ời tôi, nhưng tôi không dùng, chỉ nhìn theo mà thôi.
Còn v
ề tất cả những gì thuộc đời sống hằng ngày, xứ Đàng Trong
cũng r
ất đầy đủ. Thứ nhất là áo mặc, họ có rất nhiều tơ lụa đến nỗi dân
lao đ
ộng và người nghèo cũng dùng hàng ngày. Vì thế đã hơn một lần tôi
r
ất thích thú khi thấy đàn ông, đàn bà khuân vác đá, đất, vôi và những vật
li
ệu tương tự mà không hề cẩn thận giữ cho áo đạp và quý họ mặc khỏi
rách hay b
ẩn. Điều này không có gì lạ, nếu biết rằng có những cây dâu
cao l
ớn người ta hái lá để nuôi tằm được trồng trong những thửa ruộng
r
ộng lớn như cây gai ở bên ta, và mọc lên rất chóng. Thế nên chỉ trong
m
ột ít tháng là tằm được đưa ra nuôi ngoài khí trời và đồng thời nhả tơ,
làm thành nh
ững cái kén nhỏ với số lượng rất nhiều và dư thừa đến nỗi
ng
ười Đàng Trong đủ dùng riêng cho mình mà còn bán cho Nhật Bản và
g
ửi sang nước Lào để rồi đưa sang Tây Tạng [19]. Thứ lụa này tuy không
thanh và m
ịn nhưng bền và chắc hơn lụa Tàu.
Nhà c
ửa và đền đài, mặc dầu chỉ bằng gỗ, nhưng không thua kém
b
ất cứ nước nào, bởi vì không nói quá chút nào, gỗ ở xứ này là gỗ quý
nh
ất hoàn cầu, theo nhận xét của những người ở các nơi đó. Trong vô số
cây và vô s
ố loại cây ở đây, có hai thứ thường được dùng để làm nhà cửa
và là th
ứ không bao giờ hư mặc dầu bị ngâm trong nước hay vùi trong
bùn, và r
ất chắc, rất nặng đến nỗi không bao giờ nổi trên mặt nước và
dùng làm neo tàu. M
ột thứ là gỗ đen, nhưng không phải đen như mun,
lo
ại thứ hai có mầu đỏ hung. Cả hai sau khi được lóc vỏ thì nhẵn và trơn
không c
ần phải bào. Các cây đó gọi là Tin [20] và rất có thể người đó
không l
ầm khi nói rằng thứ gỗ không bao giờ hư đó là gỗ chính vua
Salomon đã dùng đ
ể dựng Đền thánh và chúng ta được biết qua Kinh
Thánh r
ằng thứ cây này được gọi bằng một cái tên rất gần với tên này,
ligna thying [21]. Núi x
ứ Đàng Trong mọc đầy loại cây này, thẳng tắp và


cao ng
ất nghểu, như thể ngọn chạm tới mây và lớn bằng hai người ôm.
Ng
ười Đàng Trong dùng gỗ này để dựng nhà và ai nấy đều có thể lên núi
ch
ặt tuỳ thích. Tất cả kiến trúc nhà đều dựa vào hàng cột cao, chắc và
đóng r
ất sâu, rồi lắp ván, nhưng người ta có thể tháo gỡ ra và thay thế
b
ằng phên liếp, bằng tre, sậy đan rất tài tình để thông khí trong mùa nóng
b
ức và một phần nào cho nước và thuyền qua lại tự do vào mùa lụt lội
nh
ư chúng tôi đã nói ở trên. Họ cũng làm rất nhiều hoa lá nhỏ xinh và
nhi
ều hình hài khéo léo để tô điểm trang trí nhà của họ, họ chạm trổ và
đ
ẽo gọt gỗ ván rất công phu.
Vì chúng tôi đang nói v
ề cây cối và trước khi qua đề tài khác, tôi
xin thêm ít đi
ều về một loại gỗ vốn là món hàng quý nhất có thể xuất từ
x
ứ Đàng Trong ra các nước ngoài. Đó là thứ gỗ nổi tiếng gọi là aquila và
calamba [22]; cùng lo
ại gỗ nhưng khác về tác dụng và sự quý chuộng
ng
ười ta dành cho chúng.
Lo
ại cây này có rất nhiều, nhất là trên núi Kẻ Mọi, cây rất to và rất
cao. N
ếu gỗ cắt ở thân cây non thì là trầm hương, có rất nhiều và ai
mu
ốn lấy bao nhiêu tuỳ thích. Nhưng khi lấy ở gốc già thì đó là kỳ nam
r
ất khó hiếm, vì hình như thiên nhiên cho những cây đó mọc lên ở những
ng
ọn núi cao nhất và hiểm trở nhất để được thảnh thơi già cỗi đi, không
ai làm h
ại được mình. Thỉnh thoảng có ít cành gẫy và rời khỏi thân rơi
xu
ống, hoặc vì khô quá hoặc vì già cỗi quá khi người ta nhặt được thì đã
m
ục nát và mốc thếch. Nhưng đó lại là thứ có giá nhất và lừng danh nhất
g
ọi là kỳ nam vượt hẳn thứ trầm hương thông thường rất nhiều về tác
d
ụng và về hương thơm. Trầm hương thì ai cũng có thể bán tuỳ thích
nh
ưng chúa giữ độc quyền mua bán kỳ nam vì hương thơm và tác dụng
đ
ặc biệt của nó. Thực ra ở chính nơi nhặt được, nó rất thơm, rất dịu, tôi
đã mu
ốn thử mấy miếng người ta cho tôi, tôi đem chôn dưới đất sâu
ch
ừng hơn năm chân [23] thế mà vẫn ngửi thấy hương thơm. Kỳ nam
nh
ặt tại chỗ thì giá năm đồng đuca [24] một líu, nhưng ở hải cảng xứ
Đàng Trong, n
ơi buôn bán thì đắt hơn, nghĩa là hai trăm đuca một líu. Nếu
tìm đ
ược một tấm lớn có thể làm gối để gối đầu, còn hay làm gối dài
[25] thì ng
ười Nhật mua tới ba trăm hay bốn trăm đuca một líu. Là vì
ng
ười ta nghiệm thấy, vì sức khỏe thì nên dùng làm gối một thứ gì cứng
h
ơn là thứ gối làm bằng lông vừa không lành vừa hay sinh bệnh. Thường
thì h
ọ dùng một phiến gỗ, và tuỳ theo khả năng, người ta mong có được
th
ứ gỗ quý nhất có thể sắm được [26]. Trầm hương thì ít được trọng


h
ơn và giá cũng rẻ hơn kỳ nam, nhưng chỉ một tàu chở đầy trầm hương
cũng đ
ủ cho thương gia trở nên giàu có và sung túc suốt đời. Thế nên
ph
ần thưởng lớn nhất chúa ban cho thuyền trưởng Malacca, đó là cho
phép ông buôn tr
ầm hương. Bởi vì người Bàlamôn và người Banian [27]
ở An Độ có tục hỏa thiêu xác người chết bằng gỗ rất thơm, nên họ cần
ngay m
ột số lượng lớn.
Sau cùng, x
ứ Đàng Trong có rất nhiều mỏ kim khí quý và nhất là
vàng. Và đ
ể hiểu biết thêm bằng vài lời những gì đáng được kể dài dòng
h
ơn nữa về sự giàu có của xứ này thì tôi kết thúc chương này bằng lời
c
ủa các thương gia Châu Au đã có dịp tới đây. Họ quyết rằng xứ Đàng
Trong có nhi
ều của cải hơn Trung Quốc mà chúng tôi biết là rất dồi dào
v
ề mọi thứ.
Ph
ải nói thêm ở đây chút ít về các thú vật chúng tôi đã nói là có rất
nhi
ều ở Đàng Trong, nhưng để khỏi nói nhiều, tôi chỉ xin nói về voi và tê
giác, nh
ất là ở xứ này và nhiều chuyện kỳ lạ chưa bao giờ nghe thấy.
Chú thích
[1] Ba v
ụ lúa: chúng tôi chưa biết rõ việc này.
[2] Chanh 
ở Ý lớn hơn chanh của ta, màu vàng chứ không xanh như
ta.
[3] Theo Kinh Thánh, sau khi ph
ạm tội ăn trái cấm, tổ tiên thấy
mình tr
ần truồng và phải lấy lá che thân.
[4] Có th
ể là một thứ chuối “ngự” thơm và nhỏ, hay một thứ trái
cây nào khác.
[5] Trái nói 
ở trên có thể là trái ổi còn trái “cam” này có thể là trái
thanh long.
[6] Có th
ể cho trái mít cũng thuộc về loại “sầu riêng”
[7] Mít m
ật và mít dai
[8] Món h
ạnh nhân tán nhỏ hòa với đường, rồi để vào tủ lạnh, món
ăn r
ất sang của người Châu Au vào thời này.
[9] “Pouce” cách đo th
ời xưa cũng như kiểu đo gang tay hay sải.
[10] Ti
ếng Pháp: noix
[11]Ti
ếng Pháp: châtaignes
[12] Ti
ếng Pháp: lierre, thứ như nho dại, lá xanh và leo trên tường
[13] Th
ứ vôi này có màu hồng
[14] N
ước sốt (sauce), một thứ nước dùng riêng đằng đặc gồm
n
ước thịt và mỡ béo để tưới vào các thức ăn khô và nhạt.


[15] N
ước mắm rất danh tiếng của ta
[16] Chúng tôi ch
ưa rõ đây là thứ gì
[17] Th
ức ăn từ trời rơi xuống, có mùi vị theo sở thích người dùng.
[18] Chim y
ến, tổ yến. “Người ta cho rằng, ban ngày chim yến đi
ki
ếm ăn, nuốt cả con trong biển, rồi đêm đến nhả nước dãi thành những
vành tròn hình xoáy 
ốc để xây tổ (Đỗ Tất Lợi: Những cây thuốc và vị
thu
ốc ở Việt Nam, Hà Nội 1981, tr.945)
[19] Vào th
ế kỷ 15, 16, 17 người Châu Au qua phương Đông nhất
là Trung Qu
ốc để buôn hồ tiêu và tơ lụa, vì thế có con đường gọi là con
đ
ường tơ lụa (route de la soie)
[20] G
ỗ lim
[21] Chúng tôi ch
ưa nghiên cứu xem danh từ này có nghĩa thế nào.
N
ếu là lim thì theo Đỗ Tất Lợi, sách dẫn, là những thứ cây mọc phổ biến
c
ủa nước ta, nhất là tại những khu rừng miền Bắc và miền Trung. Còn
th
ấy ở Lào, miền Nam Trung Quốc. Thường người ta khai thác gỗ làm
nhà, làm đ
ồ dùng. Có thể cao hơn mười thước hoặc hơn nữa (tr.361)
[22] Tr
ầm hương: kỳ nam là loại trầm hương quý nhất, xem: Đỗ
T
ất Lợi, sd tr.449-450.
[23] Pied: chân, cách đo th
ời xưa, chừng 0.3407m
[24] Đ
ồng tiền này thường đúc bằng vàng vào thế kỷ 13 tại Venise
(Ý) lúc đó là m
ột cộng hòa độc lập và rất thịnh vượng. Líu: livre, tức nửa
cân.
[25] G
ối dài là thứ gối theo suốt bề ngang của chiếc giường lớn.
[26] 
Ở xứ nóng thường dùng gối mây hoặc gỗ, khác hẳn các xứ
l
ạnh.
[27] Không rõ thu
ộc tôn giáo nào, còn đạo Bàlamôn là đạo chính
y
ếu của An Độ. 



tải về 0.59 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   14




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương