9
Catot: 2H
2
O + 2e
ˆ ˆ †
‡ ˆ ˆ
H
2
+ OH
-
(1.14)
H
2
O
ˆ ˆ †
‡ ˆ ˆ
H
+
+ OH
-
(1.15)
2H
+
+ 2e
H
2
(1.16)
Ni
2+
+ 2OH
-
Ni(OH)
2
(1.17)
Anot: Ni -2e
Ni
2+
(1.18)
Các dung dịch mạ Ni thường là: sunfat,
sunfat-clorua, clorua, sunfamat,
floborat trong đó dung dịch sunfat được dùng phổ biến nhất.
Dung dịch cơ bản để mạ Ni gồm có niken sunfat, một ít niken clorua và chất
đệm. Dung dịch nổi tiếng do Watts đề nghị và được dùng rộng rãi là:
NiSO
4
.7H
2
O 250 g/l
NiCl
2
.6H
2
O 10 g/l
H
3
BO
3
30 g/l
Niken sunfat là cấu tử chính, là nguồn cung cấp Ni
2+
cho phản ứng catot.
Niken sunfat có độ hòa tan lớn (579 g/l) ở 25
0
C, ổn định, anion không bị khử trên
catot hoặc oxi hóa trên anot, không bay hơi, không chảy nước, tương đối rẻ, ít ăn
mòn thiết bị. Nồng độ của niken sunfat trong dung dịch mạ cho phép dao động khá
rộng vẫn thu được lớp mạ tốt như nhau. Nhưng vì mật độ dòng catot tỉ lệ thuận với
hoạt độ ion phóng điện trong lớp sát catot nên khi cần mạ nhanh, dùng mật độ dòng
lớn thì nồng độ Ni
2+
tự do (hoạt động) trong dung dịch phải cao. Muốn vậy phải
dùng nồng độ niken sunfat cao. Điều này sẽ làm tăng độ dẫn điện của dung dịch,
giảm được điện thế của bể, góp phần cải thiện khả năng phân bố trong dung dịch.
Trong trường hợp mạ Niken, phân cực catot không giảm đi bao nhiêu khi tăng nồng
độ, vì kim loại nhóm sắt vốn có quá thế hóa học rất lớn, chiếm phần chủ yếu trong
phân cực anot. Khi nồng độ Ni
2+
quá nhỏ, lớp mạ dễ bị cháy.
Chia sẻ với bạn bè của bạn: