TẬp huấn sử DỤng phưƠng pháP “BÀn tay nặn bộT” trong dạy học môn tự nhiên và XÃ HỘI, khoa họC Ở tiểu học huế, tháng 10-2015



tải về 286.71 Kb.
trang2/6
Chuyển đổi dữ liệu02.09.2016
Kích286.71 Kb.
#30444
1   2   3   4   5   6

2.2 Phương pháp tiếp cận


  • Học viên tự học có hướng dẫn.

  • Vấn đáp.

  • Hoạt động nhóm.

2.3 Học liệu


2.3.1 Phụ lục 2

2.3.2 Bộ Giáo dục và Đào tạo (2012), Phương pháp Bàn tay nặn bột trong dạy học Tự nhiên và xã hội, khoa học ở trường tiểu học, NXB Lao động, Hà Nội. (Phụ lục 3)


2.4 Tiến trình hoạt động


Hoạt động 1:

  • Báo cáo viên (BCV) tóm tắt về chương trình dạy học môn TN-XH ở tiểu học, giới thiệu các mô đun kiến thức có thể áp dụng phương pháp BTNB trong chương trình TN-XH ở tiểu học.

  • BCV đề nghị chia nhóm học viên (HV), thành lập trưởng nhóm, thư ký.

  • Nhóm HV nghiên cứu phụ lục 2 về một tiến trình dạy học minh họa các bước của phương pháp BTNB, sử dụng SGK để theo dõi và phân tích cơ sở khoa học của các bước trong tiến trình minh họa.

  • BCV cùng HV thảo luận và liệt kê các vấn đề cần quan tâm khi áp dụng phương pháp BTNB vào thiết kế tiến trình dạy học ở Việt Nam.

  • BCV cung cấp thêm các ví dụ minh họa và sản phẩm của tiến trình dạy học theo phương pháp.

Hoạt động 2:

  • HV nhớ lại các bước của tiến trình dạy học theo phương pháp BTNB. (P.lục 3)

  • Nhóm Học viên thực hành thiết kế tiến trình dạy học theo phương pháp BTNB cho một bài học ở chương trình TN-XH ở tiểu học.

  • Nhóm học viên trình bày ý tưởng.

  • Báo cáo viên cùng học viên trao đổi, kết luận.

PHẦN 3

SỬ DỤNG PHƯƠNG PHÁP “BÀN TAY NẶN BỘT”

TRONG DẠY HỌC MÔN KHOA HỌC Ở TIỂU HỌC

3.1 Mục tiêu


  • Hiểu tiến trình dạy học theo phương pháp BTNB thông qua phân tích một bài học cụ thể thuộc môn Khoa học ở tiểu học.

  • Vận dụng được tiến trình dạy học theo phương pháp BTNB để thiết kế 01 kế hoạch dạy học thuộc chương trình Khoa học ở tiểu học.

3.2 Phương pháp tiếp cận


  • Học viên tự học có hướng dẫn

  • Vấn đáp

  • Hoạt động nhóm

3.3 Học liệu


3.3.1 Bộ Giáo dục và Đào tạo (2012), Phương pháp Bàn tay nặn bột trong dạy học Tự nhiên và xã hội, khoa học ở trường tiểu học, NXB Lao động, Hà Nội. (Phụ lục 3)

3.3.2 Phụ lục 4


3.4 Tiến trình hoạt động


Hoạt động 1:

  • BCV tóm tắt về chương trình dạy học môn Khoa học ở tiểu học, giới thiệu các mô đun kiến thức có thể áp dụng phương pháp BTNB trong chương trình Khoa học ở tiểu học.

  • BCV đề nghị chia nhóm học viên, thành lập trưởng nhóm, thư ký.

  • Nhóm HV nghiên cứu phụ lục 4 về một tiến trình dạy học minh họa các bước của phương pháp BTNB, sử dụng SGK để theo dõi và phân tích cơ sở khoa học của các bước trong tiến trình minh họa.

  • BCV cùng HV thảo luận và liệt kê các vấn đề cần quan tâm khi áp dụng phương pháp BTNB vào thiết kế tiến trình dạy học ở Việt Nam.

  • BCV cung cấp thêm các ví dụ minh họa và sản phẩm của tiến trình dạy học theo phương pháp.

Hoạt động 2:

  • HV nhớ lại các bước của tiến trình dạy học theo phương pháp BTNB. (P.lục 3)

  • Nhóm HV thực hành thiết kế tiến trình dạy học theo phương pháp BTNB cho một bài học ở chương trình Khoa học ở tiểu học.

  • Nhóm học viên trình bày ý tưởng

  • Báo cáo viên cùng học viên trao đổi, kết luận.

PHẦN 4

TỔNG KẾT



PHỤ LỤC 1

GIỚI THIỆU PHƯƠNG PHÁP "BÀN TAY NẶN BỘT" (PP-BTNB)



1.1 Phương pháp Bàn tay nặn bột (PP-BTNB) là gì ?


- Là phương pháp giảng dạy khoa học dựa trên cơ sở của sự tìm tòi-nghiên cứu, áp dụng cho việc giảng dạy các môn khoa học tự nhiên.

- Là phương pháp hình thành kiến thức cho học sinh thông qua các thí nghiệm. Dưới sự giúp đỡ của giáo viên, chính các em tìm ra câu trả lời cho các vấn đề đặt ra trong cuộc sống thông qua tiến hành thí nghiệm, quan sát, nghiên cứu tài liệu hay điều tra …

Đứng trước một sự vật hiện tượng, học sinh có thể đặt ra các câu hỏi, các giả thuyết từ những hiểu biết ban đầu, tiến hành các thí nghiệm nghiên cứu để kiểm chứng và đưa ra những kết luận phù hợp thông qua thảo luận, so sánh, phân tích, tổng hợp kiến thức.

Mục tiêu của PP-BTNB là tạo nên tính tò mò, ham muốn khám phá, yêu và say mê khoa học của học sinh. Ngoài việc chú trọng đến kiến thức khoa học, PP-BTNB còn chú ý nhiều đến việc rèn luyện kỹ năng diễn đạt thông qua ngôn ngữ nói và viết cho học sinh.

Phương pháp này do giáo sư người Pháp George Charpak (Nobel Vật lý năm 1992) khởi xướng tại Pháp năm 1995. Tháng 9/1996, phương pháp này được Bộ Giáo dục quốc gia Pháp đưa vào dạy thử nghiệm tại 5 tỉnh với 350 lớp học tham gia. Nhiều trường đại học, viện nghiên cứu tham gia giúp đỡ các giáo viên thực hiện tiết dạy.

Ngoài việc triển khai PP-BTNB trong các trường tiểu học, trong giảng dạy các môn Vật lý, Hóa học và Sinh học ở trường THCS, Bộ Giáo dục quốc gia Pháp còn khuyến khích giáo viên ở các trường mầm non áp dụng phương pháp này trong các tiết dạy của mình về khoa học. Việc phát triển và ứng dụng PP-BTNB xuyên suốt qua các bậc học từ Mầm non, tiểu học đến THCS giúp học sinh làm quen với phương pháp học tập khoa học, chịu khó suy nghĩ tìm tòi, mang lại một không khí mới cho việc giảng dạy và học tập khoa học tại các trường học ở Pháp.

1.2 Thế nào là giảng dạy khoa học dựa trên cơ sở tìm tòi-nghiên cứu


Giảng dạy theo PP-BTNB hoàn toàn khác nhau giữa các lớp, phụ thuộc vào trình độ của học sinh. Giảng dạy theo phương pháp này đòi hỏi giáo viên phải năng động, không theo một khuôn mẫu nhất định. Giáo viên được quyền đề xuất một tiến trình giảng dạy của mình phù hợp với tưng đối tượng học sinh, từng lớp học.

Tuy nhiên, để giảng dạy theo PP-BTNB cũng cần phải đảm bảo các nguyên tắc cơ bản sau:


1.2.1 Tự làm thí nghiệm là cốt lõi của việc tiếp thu kiến thức khoa học


Học sinh cần thiết phải tự thực hiện và điều khiển các thí nghiệm của mình phù hợp với hiện tượng, kiến thức mà học sinh quan tâm nghiên cứu. Đây là yếu tố quan trọng của việc tiếp thu kiến thức, là cơ sở cho việc phát hiện, hiểu các khái niệm và thông qua các thí nghiệm, học sinh có thể tự hình thành kiến thức liên quan đến thế giới xung quanh mình.

Trước khi được học kiến thức, học sinh đến lớp với những suy nghĩ ban đầu của mình về các kiến thức, sự vật, hiện tượng theo cách suy nghĩ và quan niệm riêng của các em thông qua vốn sống và vốn kiến thức thu nhận được ngoài trường học. Các quan niệm này có thể đúng hoặc sai.

Các thí nghiệm trong PP-BTNB là những thí nghiệm đơn giản, với các vật liệu dễ kiếm, gần gũi với học sinh. Học sinh không cần thiết phải đi ra khỏi lớp để thực hiên các thí nghiệm, không nhất thiết cần phải có phòng thực hành bộ môn riêng biệt cho các thí nghiệm. Để thiết kế và chuẩn bị cho những thí nghiệm như vậy đòi hỏi giáo viên cần phải tìm tòi, sáng tạo, học hỏi kinh nghiệm từ các đồng nghiệp khác.

1.2.2 HS cần phải hiểu rõ câu hỏi đặt ra hay vấn đề trọng tâm của bài học


Để học sinh có thể tiếp cận thực sự với tìm tòi-nghiên cứu và cố gắng để hiểu kiến thức, học sinh cần thiết phải hiểu rõ câu hỏi hoặc vấn đề đặt ra cần giải quyết trong bài học. Để đạt được yêu cầu này, bắt buộc học sinh phải tham gia vào bước hình thành các câu hỏi. Có nghĩa là học sinh cần phải có thời gian để khám phá chủ đề của bài học, thảo luận các vấn đề và các câu hỏi đặt ra để từ đó có thể suy nghĩ về những gì cần được nghiên cứu, phương án thực hiện như thế nào.

Vai trò của giáo viên rất quan trọng trong việc định hướng, gợi ý, giúp đỡ các em tự khám phá, tự đặt ra các câu hỏi để học sinh hiểu rõ câu hỏi và vấn đề cần giải quyết của bài học, từ đó đề xuất các phương án thí nghiệm hợp lý.

Không chỉ trong PP-BTNB mà dù dạy học bằng bất cứ phương pháp nào, việc học sinh hiểu rõ vấn đề đặt ra, những vấn đề trọng tâm cần giải quyết của bài học là yếu tố quan trọng và quyết định sự thành công của quá trình dạy học.

1.2.3 Tìm tòi-nghiên cứu khoa học đòi hỏi học sinh nhiều kỹ năng. Một trong các kỹ năng cơ bản đó là thực hiện một quan sát có chủ đích


Tìm tòi-nghiên cứu yêu cầu học sinh nhiều kỹ năng như: kỹ năng đặt câu hỏi, đề xuất các dự kiến (dự đoán, giả thiết), dự kiến thí nghiệm, phân tích dữ liệu, giải thích và bảo vệ các kết luận của mình thông qua tình bày nói hoặc viết … Một trong các kỹ năng quan trọng đó là học sinh phải biết xác định và quan sát một sự vật, hiện tượng cần nghiên cứu.

Như chúng ta đã biết, các sự vật, hiện tượng đều có tính chất và đặc trưng cơ bản. Để hiểu rõ và phân biệt được các sự vật, hiện tượng với nhau bắt buộc người học phải rút ra được các đặc trưng đó. Nếu quan sát không có chủ đích, quan sát chung chung và thông tin thu nhận tổng quát thì sẽ không thể giúp học sinh sử dụng để tìm ra câu trả lời cho các câu hỏi cụ thể. Vì thế, giáo viên cần giúp học sinh định hướng khi quan sát để sự quan sát của các em có chủ đích, nhằm tìm ra câu trả lời cho câu hỏi đặt ra. Tất nhiên việc định hướng, gợi ý của giáo viên cần phải đưa ra đúng thời điểm, trước tiên phải yêu cầu học sinh xác định vấn đề cần quan sát và tự định hướng một quan sát có chủ đích.


1.2.4 Học khoa học không chỉ là hành động với các đồ vật, dụng cụ thí nghiệm mà học sinh còn cần phải biết lập luận, trao đổi với các học sinh khác, biết viết cho mình và cho người khác hiểu.


Để các thí nghiệm được thực hiện đúng và thành công, đưa lại kết luận mới về kiến, học sinh phải suy nghĩ và hiểu những gì mình đang làm, đang thảo luận với học sinh khác. Các ý tưởng, dự kiến, dự đoán, các khái niệm, kết luận cần được phát biểu rõ ràng bằng lời hay viết ra giấy để chia sẻ và thảo luận với các học sinh khác.

Việc trình bày ý tưởng, dự đoán kết quả, kết luận của học sinh có thể kết hợp cả trình bày bằng lời và viết, vẽ ra giấy (trong trường hợp cần phải có sơ đồ minh họa hoặc kênh hình giúp học sinh biểu đạt tốt hơn). Đôi khi trình bày và biểu đạt ý kiến của mình cho người khác sẽ giúp học sinh nhận ra mình đã thực sự hiểu được vấn đề hay chưa. Nếu chưa thực sự hiểu vấn đề, học sinh sẽ lúng túng khi trình bày và rất khó để diễn đạt trôi chảy, lô-gic vấn đề mình muốn nói. Phần lớn học sinh thích trình bày bằng lời khi muốn giải thích một vấn đề hơn là viết ra giấy. Việc trình bày bằng lời hay yêu cầu viết ra giấy cần phải được sử dụng linh hoạt, phù hợp với từng hoạt động, thời gian (viết sẽ tốn thời gian nhiều hơn trình bày bằng lời). Đây cũng là một yếu tố quan trọng để giáo viên rèn luyện ngôn ngữ nói và viết cho học sinh trong quá trình dạy học khoa học.


1.2.5 Dùng tài liệu khoa học để kết thúc quá trình tìm tòi-nghiên cứu


Mặc dù cho rằng làm thí nghiệm trực tiếp là quan trọng nhưng không thể bỏ qua việc nghiên cứu tài liệu khoa học. Với các thí nghiệm đơn giản, không thể đáp ứng hết nhu cầu về kiến thức cần tìm hiểu của học sinh và chuyển tải hết nội dung của bài học.

Có nhiều nguồn tài liệu tài liệu khoa học như sách giáo khoa, thông tin trên Internet, báo chí chuyên ngành, tranh, ảnh, phim khoa học mà giáo viên chuẩn bị … để hỗ trợ cho học sinh nghiên cứu tìm ra kiến thức. Tuy nhiên, nguồn tài liệu quan trọng, phù hợp và gần gũi nhất đối với học sinh là sách giáo khoa. Đối với một số kiến thức có thể khai thác thông qua tài liệu, giáo viên có thể cho học sinh đọc sách giáo khoa và tìm thông tin để trả lời câu hỏi liên quan.

Việc đọc tài liệu, nhận biết, tìm thấy và lọc được thông tin quan trọng, liên quan để trả lời cho câu hỏi cũng là phương pháp nghiên cứu trong khoa học (phương pháp nghiên cứu tài liệu). Cũng giống như đối với vấn đề quan sát, giáo viên phải giúp học sinh xác định được tài liệu cần đọc, thông tin cần tìm kiếm để định hướng quá trình nghiên cứu tài liệu của mình.

1.2.6 Khoa học là một công việc cần sự hợp tác


Tìm tòi-nghiên cứu là một hoạt động cần sự hợp tác và kết quả đạt được phần lớn đến từ một sự hợp tác trong công việc. Trong nghiên cứu khoa học thực sự cũng vậy, ví dụ như một nhà động vật học tự mình quan sát, nghiên cứu về tập tính của một loài động vật nào đó. Nhưng sau khi có kết quả nghiên cứu, nhà khoa học đó phải công bố kết quả của mình, thảo luận, so sánh với những nghiên cứu khác trong bài báo khoa học của mình để chứng tỏ kết quả nghiên cứu của mình là mới và chính xác.

Ngay từ việc thảo luận, hoạt động theo nhóm học sinh cũng đã làm các công việc tương tự như hoạt động của các nhà khoa học: chia sẻ ý tưởng, tranh luận, suy nghĩ về những gì cần làm và phương pháp để giải quyết vấn đề đặt ra.




tải về 286.71 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương