TẠP CHÍ Y DƯỢC HỌC CẦN THƠ – SỐ 19/2019
6
IV.BÀN LUẬN
4.1. Tỷ lệ viêm nhiễm và các tác nhân gây VNĐSDD
Tỷ lệ viêm nhiễm
Tỷ lệ mắc bệnh chung của nhóm nghiên cứu chiếm tỷ lệ 72,4%, không mắc bệnh
chiếm 27,6%.
So sánh với kết quả nghiên cứu của Nguyễn Khắc Minh (2010) tại huyện Tuyên
Phước - Quảng Nam tỷ lệ mắc bệnh VNĐSDD là 36,56% [9], tỷ lệ mắc bệnh thấp hơn
của chúng tôi. So sánh kết quả với nghiên cứu của Lê Hoài Chương (2013) tại bệnh
viện phụ sản Trung ương thì tỷ lệ mắc bệnh là 83,1% [4], cao hơn tỷ lệ mắc bệnh
nghiên cứu của chúng tôi. Tác giả Trương Thị Thanh Chấn (2004) nghiên cứu tại địa
bàn tỉnh Long An, cho biết tỷ lệ mắc bệnh là 64,4% [3], thấp hơn tỷ lệ mắc bệnh của
chúng tôi. Tác giả Bùi Đình Long (2017) nghiên cứu ở phụ nữ 18-49 tuổi tại công ty
may tỉnh Nghệ An cho biết tỷ lệ mắc bệnh VNĐSDD là 40,2% [7]. Tác giả Cao Ngọc
Thành (2017) nghiên cứu tại Huyện A Lưới (Huế), cho biết tỷ lệ mắc bệnh là 37,6%
[12]. Sự khác biệt này là do địa điểm, thời gian, hoàn cảnh, điều kiện địa lý, tập quán
sống và các hành vi của đối tượng nghiên cứu, bên cạnh đó chúng tôi cũng nhận thấy
đối tượng tự đến các phòng khám các bệnh viện có tỷ lệ mắc bệnh cao hơn nhóm đối
tượng được khám tầm soát trong cộng đồng, điều nầy cũng dễ giải thích, vì hầu hết khi
có triệu chứng bất thường mới đi khám bệnh. Tuy nhiên với kết quả nghiên cứu của
chúng tôi, tỷ lệ VNĐSDD tại bệnh viện đa khoa Thống Nhất Đồng Nai là 72,4%, tỷ lệ
còn rất cao. Điều này cho chúng ta thấy bệnh VNĐSDD vẫn còn khá phổ biến, nó có
ảnh hưởng lớn đến sức khỏe sinh sản, đến khả năng lao động và đến sự phát triển của
quốc gia và là gánh nặng của chị em phụ nữ. Vì vậy, toàn xã hội và ngành y tế cần có
các hành động thiết thực, cụ thể để hạn chế tỷ lệ mắc bệnh và các biến chứng của bệnh
VNĐSDD ở phụ nữ [2].
Chia sẻ với bạn bè của bạn: