TẠP CHÍ Y DƯỢC HỌC CẦN THƠ – SỐ 19/2019
7
tố: Nhóm tuổi, dân tộc, trình độ học vấn, nghề nghiệp, hoàn cảnh kinh tế, sử dụng BPTT,
số lần sanh, khám phụ khoa định kỳ, vệ sinh giao hợp.
Trong nghiên cứu của chúng tôi nhận thấy Tỷ lệ mắc bệnh VNĐSDD ở những
phụ nữ không vệ sinh sinh dục hàng ngày (80%) và vệ sinh không đúng cách từ sau ra
trước (75,3%) cao hơn những phụ nữ vệ sinh đúng cách (71,5%). Kết quả nầy tương
đồng với Tác giả Nguyễn Khắc Minh (2010), nhóm phụ nữ có hành vi không đúng về
vệ sinh sinh dục hàng ngày có tỷ lệ mắc bệnh VNĐSDD cao hơn nhóm có hành vi
đúng [9].
Tỷ lệ mắc bệnh VNĐSDD ở những phụ nữ vệ sinh sinh dục hàng ngày ≥ 3
lần/ngày (74,7%) cao hơn những phụ nữ vệ sinh sinh dục hàng 1 – 2 lần/ngày (60,9%),
sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với OR (KTC 95%) là 1,89 (1,09-3,28) và p = 0,023.
Tỷ lệ mắc bệnh VNĐSDD ở những phụ nữ vệ sinh ≥ 3 lần /mỗi ngày khi hành kinh
(76,1%) cao hơn những người vệ sinh 1-2 lần chiếm (64,5%), sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê với OR (KTC 95%) là 1,75(1,06-2,87) và p = 0,018. So sánh với tác giả Cấn
Hải Hà (2014) nghiên cứu mối liên quan về thực hành vệ sinh và nhóm phụ nữ bệnh
VNĐSDD với p < 0,05 [5]. Tác giả Trần Thị Lợi (2008) nghiên cứu yếu tố liên quan
giữa VNĐSDD và cách vệ sinh phụ nữ ở phụ nữ từ 18-49 tuổi đến tại phòng khám phụ
khoa Bệnh viện Đa khoa Trung ương Cần Thơ thì nhận thấy thói quen của nhóm phụ
nữ cho thấy nhóm phụ nữ rửa âm hộ bằng dung dịch sát khuẩn nhiều lần có tỷ lệ mắc
VNĐSDD là 38,8% [8]. Kết quả của chúng tôi cũng có điểm tương đồng với các tác
giả trên, nhưng chưa có kết luận chắc chắn, có thể do suy nghĩ càng vệ sinh kỹ và càng
nhiều lần, hoặc sử dung dung dịch tẩy rửa thì càng tránh được bệnh [2], chúng tôi ghi
nhận kết quả nầy và tiếp tục tìm hiểu cho lần nghiên cứu sau về những sản phẩm vệ
sinh phụ nữ.
Trong nghiên cứu của chúng tôi cho thấy tỷ lệ VNĐSDD ở những phụ nữ vệ
sinh sinh dục không đúng cách (rửa từ sau ra trước) cao hơn so với phụ nữ vệ sinh sinh
dục vệ sinh đúng cách (rửa âm hộ từ trước ra sau và lau khô bằng khăn sạch), nhưng sự
khác biệt không có ý nghĩa thống kê. Kết quả khác với nghiên cứu của tác giả Nguyễn
Khắc Minh (2010), nhóm đối tượng có cách thức rửa bộ phận sinh dục không đúng có
tỷ lệ mắc bệnh VNĐSDD cao hơn nhóm có có cách vệ sinh đúng (p<0,05). Theo một
số tác giả, can thiệp thay đổi hành vi vệ sinh sinh dục ở phụ nữ có thể giúp giảm tỷ lệ
VNĐSDT [13, [14].
Chia sẻ với bạn bè của bạn: