Đỗ Thị Sơn và Đtg
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ
174(14): 91-96
91
NGHIÊN CỨU PHÂN TÍCH LỖI SAI CỦA SINH VIÊN KHOA NGOẠI NGỮ
- ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN KHI DỊCH TRỰC TIẾP TỪ HÁN VIỆT
SANG TIẾNG TRUNG QUỐC VÀ GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC
Đỗ Thị Sơn, Đỗ Thị Phượng
*
Khoa Ngoại ngữ - ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT
Từ Hán Việt chiếm 60-70% từ vựng tiếng Việt hiện đại, là bộ phận cấu thành quan trọng của từ
vựng tiếng Việt. Đây là ưu thế rất lớn cho người học Việt Nam học tiếng Trung. Tuy nhiên, từ Hán
Việt du nhập vào Việt Nam từ rất lâu, hiện tại những từ này trong tiếng Trung hiện đại đã có sự
biến đổi nhất định, sau khi du nhập vào Việt Nam chúng cũng biến đổi theo sự phát triển của tiếng
Việt, tạo thành sự khác nhau đôi khi là rất lớn về mặt ý nghĩa giữa từ Hán Việt và từ tiếng Trung
tương ứng. Điều này khiến người học Việt Nam phạm nhiều lỗi sai khi dịch trực tiếp từ Hán Việt
sang tiếng Trung. Trong bài viết này, người viết tiến hành phân tích kết quả khảo sát lỗi sai của
sinh viên Khoa Ngoại ngữ - ĐH Thái Nguyên khi dịch trực tiếp từ Hán Việt sang tiếng Trung và
đưa ra giải pháp khắc phục nhằm hạn chế những lỗi sai này.
Từ khóa: Tiếng Trung; từ Hán Việt; lỗi sai; dịch; Khoa Ngoại ngữ
MỞ ĐẦU
*
Trong thời kì Bắc thuộc, cùng với sự xâm
lược và đô hộ của nhà Hán, chữ Hán theo
chân các quan lại nhà Hán sang nước ta,
người Việt tiếp xúc với chữ Hán, học chữ
Hán, nhưng lại đọc chữ Hán theo quy luật
phát âm của tiếng Việt, từ đó mà hình thành
lên một hệ thống ngôn ngữ trung gian “chữ
Hán- âm Việt”. Vào thế kỉ 20, cùng với sự
xuất hiện của chữ Quốc ngữ, người Việt đã sử
dụng chữ Quốc ngữ để phiên âm các từ “chữ
Hán-âm Việt” này và hình thành nên từ Hán
Việt như ngày nay. Tuy nhiên, từ đầu thế kỉ
thứ 10, sau khi Việt Nam trở thành một quốc
gia độc lập, “chữ Hán-âm Việt” bị tách ly
khỏi hệ thống ngôn ngữ tiếng Hán và phát
triển theo một hướng riêng của tiếng Việt,
chịu sự chi phối của hoàn cảnh lịch sử, xã hội
Việt Nam, hình thành nên sự khác nhau giữa
từ Hán Việt và từ tiếng Hán tương ứng. Trong
quá trình thụ đắc tiếng Trung, các em sinh
viên do không nhận thức được sự khác biệt
này mà tạo thành nhiều lỗi sai trong học tập
và sử dụng tiếng Trung khi dịch trực tiếp từ
Hán Việt sang tiếng Trung. Ví dụ như khi
dịch câu “Anh ta rất phong độ” các em dịch
thành “他很风度”. Từ“风度” trong tiếng Trung
là danh từ, nhưng từ “phong độ” trong tiếng
*
Tel: 0989946696; Email:dophuong.sfl@tnu.edu.vn
Việt vừa là danh từ vừa là tính từ, do vậy trong
tiếng Việt có thể nói “anh ta rất phong độ”
nhưng trong tiếng Trung phải nói “他很有风
度” mới đúng. Người học do không nắm được
sự khác nhau về từ loại giữa hai từ trên mà biểu
đạt sai. Vì vậy, nếu có thể hạn chế được những
lỗi sai này thì có thể giúp các em phát huy tích
cực ưu thế của từ Hán Việt trong quá trình học
tập và sử dụng tiếng Trung.
Những nghiên cứu về từ Hán Việt, âm Hán
Việt có thể nói là bắt đầu từ thế kỷ thứ 20,
đầu tiên là các nhà học giả người Pháp, Đức,
sau đó là Nhật Bản, Trung Quốc, Việt Nam.
Nội dung nghiên cứu chủ yếu tập trung vào
nguồn gốc, quá trình hình thành và phát triển
của từ, âm Hán Việt; mối quan hệ giữa từ
tiếng Hán với từ Hán Việt và sự ảnh hưởng
của từ, âm Hán Việt đối với tiếng Việt.
Người bắt đầu nghiên cứu về từ Hán Việt sớm
nhất phải kể đến nhà từ điển học Alexandre
de Rhodes. Trong cuốn từ điển tiếng Việt đầu
tiên “Việt, Bồ, La” xuất bản năm 1651 của
ông đã thu thập 8000 từ tiếng Việt, trong đó
có 700 từ Hán Việt [1]. Cho dù Rhodes không
thực sự nghiên cứu từ Hán Việt, nhưng trong
từ điển của ông, khái niệm từ Hán Việt lần
đầu tiên xuất hiện.
Người nghiên cứu về âm Hán Việt đầu tiên là
Henri Maspero. Trong “Lịch sử âm vận tiếng
Việt” mà ông xuất bản năm 1912 có đề cập
Đỗ Thị Sơn và Đtg
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ
174(14): 91-96
92
tới âm Hán Việt, khái niệm từ Hán việt, lịch
sử hình thành từ Hán việt và diễn biến âm đọc
chữ Hán trong tiếng Việt [2]. Tuy nhiên phải
đến năm 1948, từ Hán Việt mới được nghiên
cứu tương đối hệ thống và toàn diện bởi học
giả người Trung Quốc Vương Lực. Trong
“Nghiên cứu tiếng Hán Việt” của ông đã chia
tiếng Hán Việt ra làm ba loại: tiếng Hán Việt
cổ, tiếng Hán Việt và tiếng Hán Việt hoá. Rất
nhiều các nghiên cứu về sau lấy cách phân
loại này làm cơ sở [3].
Tại nước ta, cuốn tự điển “Từ điển Hán Việt”
của Đào Duy Anh xuất bản năm 1931 là
nghiên cứu đầu tiên liên quan đến từ Hán Việt
[4]. Về sau vào những năm 70, Nguyễn Tài
Cẩn xuất bản cuốn “Nguồn gốc và quá trình
hình thành âm đọc tiếng Hán Việt” đã mở đầu
cho thời kỳ mới nghiên cứu từ Hán Việt tại
Việt Nam [5].
Theo phong trào học tập tiếng Trung Quốc,
những nghiên cứu về ứng dụng từ Hán Việt
trong dạy học tiếng Hán cũng ngày càng được
các học giả quan tâm. Những tác phẩm tiêu
biểu có thể kể đến “Tiếng Hán Việt và những
gợi mở trong dạy học tiếng Trung và tiếng
Việt” của Dương Á Bình [6]; “Phân tích điểm
giống và khác nhau giữa từ vựng tiếng Trung-
tiếng Việt và dạy học ngôn ngữ” của Lý
Tuyết Ninh [7]; “Tận dụng ưu thế của âm
Hán Việt, từ Hán Việt trong dạy học từ vựng
tiếng Trung tại Việt Nam” của Nguyễn Thị
Phương [8]... Những nghiên cứu này đều
nhấn mạnh ý nghĩa quan trọng của từ Hán
Việt trong dạy học tiếng Trung và tiếng Việt,
đưa ra các sách lược dạy học trên cơ sở phân
tích, so sánh từ Hán Việt và từ tiếng Hán. Tuy
nhiên trong rất nhiều những nghiên cứu đó,
chỉ có một vài nghiên cứu về phân tích lỗi sai
liên quan đến từ Hán Việt nhưng chưa thực sự
có được những kết quả thuyết phục. Do vậy,
người viết nhận thấy đề tài này cần đi sâu
nghiên cứu nhiều hơn để đưa ra được những
kết luận quan trọng nhằm tìm ra giải pháp
khắc phục những lỗi sai phổ biến liên quan
đến từ Hán Việt, nâng cao khả năng biểu đạt
tiếng Trung của người học.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Phương pháp nghiên cứu chính người viết sử
dụng là phương pháp điều tra bằng bảng hỏi.
Đối tượng điều tra là 200 em sinh viên người
Việt Nam chuyên ngành tiếng Trung từ năm 2
đến năm 4 tại Khoa Ngoại ngữ, Đại học Thái
Nguyên. Trong đó, năm 2 có 64 em, chiếm
38%, năm 3 có 76 em, chiếm 38%, năm 4 có
60 em, chiếm 30%.
Bảng hỏi thiết kế gồm 100 câu, chia làm 2
phần, phần đầu tiên có 20 câu, loại hình là
phán đoán đúng sai, phần thứ 2 gồm 80 câu,
thể loại dịch Việt-Trung. Nội dung điều tra
bao phủ 5 mặt: lỗi sai về nghĩa từ vựng, lỗi
sai về từ loại, lỗi sai về kết hợp từ, lỗi tự tạo
từ mới và lỗi sai về ý nghĩa sắc thái của từ.
KẾT QUẢ VÀ PHÂN TÍCH
Sau khi tiến hành khảo sát 200 em sinh viên,
người viết thu được kết quả cụ thể như sau.
Kết quả khảo sát
Tổng số phiếu điều tra phát ra là 200 phiếu,
thu về 200 phiếu, không có phiếu trắng,
nhưng có những câu hỏi sinh viên không trả
lời được. Kết quả trả lời phiếu điều tra xem
bảng 1.
Dựa vào bảng 1, có thể thấy tỉ lệ lỗi sai do
dịch trực tiếp từ Hán Việt lên đến 31.34%,
một tỉ lệ khá cao. Như vậy cứ bình quân dịch
3 từ Hán Việt các em sẽ sai một từ. Dưới đây
là một số ví dụ các em dịch sai.
Ví dụ 1: Xin cứ tự nhiên như ở nhà.
Dịch sai:请自然,就像在自己家里一样。
Sửa:请随意,就像在自己家里一样。
Ví dụ 2: Anh ta tự nhiên lại nổi giận với tôi.
Dịch sai:他自然跟我发脾气。
Sửa:他莫名其妙跟我发脾气。
Bảng 1. Kết quả trả lời phiếu điều tra
Tổng số câu
Trả lời đúng hoặc sai nhưng lỗi sai
không liên quan đến từ Hán Việt
Lỗi sai do dịch trực
tiếp từ Hán Việt
Không trả lời
được
20000
11658
6268
2074
100%
58.29%
31.34%
10.37%
Đỗ Thị Sơn và Đtg
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ
174(14): 91-96
93
Ví dụ 3: Sinh con trai con gái là do phụ nữ
quyết định, việc này là không có cơ sở.
Dịch sai:生男孩女孩由女人决定,这是没
有基础的。
Sửa:生男孩女孩由女人决定,这是没有根
据的。
Tỉ lệ mắc lỗi giữa sinh viên năm 2, 3 và 4
cũng khác nhau, cụ thể xem bảng 2.
Như vậy, từ bảng 2 có thể thấy tỉ lệ mắc lỗi
nhiều nhất là các em sinh viên năm 2, chiếm
hơn 40%, tỉ lệ này giảm dần theo sự tích luỹ
kiến thức về ngôn ngữ Hán và đến năm 4, tỉ
lệ này đã giảm xuống còn 22,5%. Tuy vậy,
đây vẫn là tỉ lệ mắc lỗi khá cao. Có thể thấy
cùng với sự nâng cao về trình độ tiếng Hán,
các em đã sử dụng từ ngữ chính xác hơn,
nhưng vẫn không thoát khỏi sự ảnh hưởng
của từ Hán Việt.
Về tỉ lệ các loại lỗi sai mà sinh viên mắc phải
xem bảng 3.
Bảng 3 cho thấy khi dịch trực tiếp từ Hán
Việt sinh viên mắc lỗi về từ loại nhiều nhất,
chiếm hơn 43%, kế đến là các lỗi sai về ý
nghĩa sắc thái, chiếm 40%, sai về kết hợp từ
và tự tạo từ mới đều chiếm khoảng 1/3, lỗi sai
về nghĩa từ vựng là ít nhất, chỉ chiếm 25.91%.
Điều này chỉ ra rằng sinh viên thường chú
trọng nhiều hơn về vấn đề ghi nhớ nghĩa của
từ mà chưa coi trọng việc nắm vững từ loại,
cách kết hợp từ cũng như sắc thái của từ. Vì
vậy, giáo viên trong quá trình giảng dạy cần
đầu tư nhiều hơn trong việc dạy cho sinh viên
nắm được từ loại của từ, đồng thời phân biệt
từ loại của từ tiếng Hán và từ Hán Việt tương
ứng để hạn chế các lỗi sai trên. Ngoài ra, ý
nghĩa sắc thái của từ và kết hợp từ cũng là
một nội dung cần được nhấn mạnh trong quá
trình giảng dạy. Dưới đây là một số ví dụ sinh
viên dịch sai.
Ví dụ 4: Anh ta là người rất thủy chung (sai
nghĩa từ vựng)
Dịch sai:他是一个很始终的人。
Sửa:他是一个感情很专一的人。
Ví dụ 5: Công trình này rất qui mô (sai từ
loại)
Dịch sai:这个工程很规模。
Sửa:这个工程很有规模。
Ví dụ 6: Chúng ta phải cùng nhau vượt qua
khó khăn (sai kết hợp từ )
Dịch sai:我们要一起超过困难。
Sửa:我们要一起克服困难。
Ví dụ 7: Chuyện của tôi, anh không cần quan
tâm ( sai ý nghĩa sắc thái)
Dịch sai:我的事,你不用关心。
Sửa:我的事,你不用管。
Ví dụ 8: Chuyện này rất quan trọng với tôi
(sai do tự tạo từ mới)
Dịch sai:这件事对我很关重。
Sửa:这件事对我很重要。
Về nguyên nhân tạo thành lỗi sai, chủ yếu
gồm những nguyên nhân sau.
Bảng 2. Kết quả trả lời phiếu điều tra giữa năm 2, năm 3 và năm 4 (%)
Đối tượng
Trả lời đúng hoặc sai nhưng lỗi sai
không liên quan đến từ Hán Việt
Lỗi sai do dịch trực
tiếp từ Hán Việt
Không trả lời
được
Năm 2
45.25
40.03
14.72
Năm 3
58.96
31
10.04
Năm 4
71.35
22.5
6.15
Bảng 3. Tỷ lệ thể loại lỗi sai của sinh viên (%)
Từ loại
Nghĩa sắc thái
Kết hợp từ
Tự tạo từ mới
Nghĩa từ vựng
43.4
40.65
32.25
30.55
25.91
Nguyên nhân hình thành lỗi sai
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |