TỔng cục thi hành án dân sự



tải về 318.85 Kb.
trang4/5
Chuyển đổi dữ liệu25.07.2016
Kích318.85 Kb.
#5065
1   2   3   4   5

+ Khoản 1 Điều 115: Trường hợp theo quyết định của Bản án, người phải thi hành án có nghĩa vụ trả nhà mà họ không có nhà, không có tiền để thuê nhà hay tạo lập chỗ ở mới thì cơ quan thi hành án có thực hiện việc cưỡng chế hay không?

Khi cưỡng chế giao trả nhà theo án tuyên mà người phải thi hành án không có nhà, không có tiền để thuê nhà hay tạo lập chỗ ở mới thì cơ quan thi hành án vẫn thực hiện việc cưỡng chế theo quyết định của bản án và quy định tại khoản 1, khoản 2 và khoản 3 Điều 115 Luật Thi hành án dân sự.



+ Khoản 5 Điều 115 quy định: “Trường hợp cưỡng chế giao nhà là nhà ở duy nhất của người phải thi hành án cho người mua được tài sản bán đấu giá, nếu xét thấy sau khi thanh toán các khoản nghĩa vụ thi hành án mà người phải thi hành án không còn đủ tiền để thuê nhà hoặc tạo lập nơi ở mới thì trước khi làm thủ tục chi trả cho người được thi hành án, Chấp hành viên trích lại từ số tiền bán tài sản một khoản tiền để người phải thi hành án thuê nhà phù hợp với giá thuê nhà trung bình tại địa phương trong thời hạn 01 năm”.

Thực tế áp dụng quy định này cho thấy nếu chỉ trích lại tiền thuê nhà cho người phải thi hành án thì những người trong gia đình sống phụ thuộc vào người phải thi hành án sẽ không có nơi ở, trong trường hợp người phải thi hành án hoặc họ là người già, trẻ em, người tàn tật thì xử lý thế nào? Trong trường hợp phải trích lại từ số tiền bán tài sản một khoản tiền để người phải thi hành án thuê nhà phù hợp với giá thuê nhà trung bình tại địa phương trong thời hạn 1 năm là trích riêng cho người phải thi hành án hay cho cả gia đình của người phải thi hành án cùng sinh sống chung nhà. Nếu chỉ trích riêng cho người phải thi hành án còn những người trong gia đình không có nơi ở vì họ không có nguồn thu nhập, không có tài sản để tạo lập nơi ở mới hoặc thuê nhà để ở thì giải quyết như thế nào đối với họ.

Theo quy định trên thì Chấp hành viên chỉ trích lại tiền thuê nhà cho người phải thi hành án. Tuy nhiên, khi áp dụng thực tiễn, cơ quan thi hành án dân sự cũng cần cân nhắc đến các đối tượng là những người trong gia đình sống phụ thuộc vào người phải thi hành án là người già, trẻ em, người tàn tật... để có phương án xử lý hợp tình hợp lý. Đồng thời, cũng cần báo cáo, đề xuất chính quyền địa phương có chính sách hỗ trợ cho họ.



42. Điều 120 quy định: "Trường hợp người phải thi hành án hoặc người đang trông giữ người chưa thành niên không giao người chưa thành niên cho người được giao nuôi dưỡng thì Chấp hành viên ra Quyết định phạt tiền, ấn định thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày ra Quyết định phạt tiền để người đó giao người chưa thành niên cho người được giao nuôi dưỡng. Hết thời hạn đã ấn định mà người đó không thực hiện thì Chấp hành viên tiến hành cưỡng chế buộc giao người chưa thành niên hoặc đề nghị cơ quan có thẩm quyền truy cứu trách nhiệm hình sự về tội không chấp hành án".

Có ý kiến cho rằng quy định trên là chưa thỏa đáng, bởi lẽ nếu đã áp dụng biện pháp cưỡng chế rồi mà không thực hiện được thì có áp dụng được việc đề nghị truy cứu trách nhiệm hình sự không, trong đó Điều luật quy định là chỉ chọn một trong hai biện pháp. Đề nghị cần quy định rõ hơn như sau: Hết thời hạn đã ấn định mà người đó không thực hiện thì Chấp hành viên tiến hành cưỡng chế buộc giao người chưa thành niên. Sau khi hết thời hạn ấn định phạt tiền hoặc áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành không đạt được thì đề nghị cơ quan có thẩm quyền truy cứu trách nhiệm hình sự về tội không chấp hành án.

Trong trường hợp đã áp dụng biện pháp cưỡng chế rồi mà không thực hiện được thì cơ quan thi hành án dân sự vẫn được đề nghị cơ quan có thẩm quyền truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 304 Bộ luật hình sự về tội không chấp hành án. Vì theo quy định tại Điều 3 Bộ luật hình sự về nguyên tắc xử lý thì mọi hành vi phạm tội phải được phát hiện kịp thời, xử lý nhanh chóng, công minh theo đúng pháp luật.



43. Khoản 2 Điều 126 quy định: Sau khi có quyết định trả lại tiền Chấp hành viên thông báo cho đương sự thời gian, địa điểm nhận lại tiền. Hết thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được thông báo mà đương sự không đến nhận lại tiền thì Chấp hành viên phải gửi số tiền đó theo hình thức tiết kiệm không kỳ hạn. Bất cập trong thực tế hiện nay, nếu số tiền trả lại cho đương sự chỉ có 50.000đ thì không mở được sổ tiết kiệm nên hiện nay số tiền tạm ứng án phí phải trả lại còn tồn nhiều.

Trường hợp này, khoản 1 Điều 10 Thông tư số 22/2011/TT-BTP ngày 02/12/2011 của Bộ Tư pháp hướng dẫn thực hiện một số thủ tục trong quản lý hành chính về thi hành án dân sự đã quy định cơ quan thi hành án mở tài khoản tại ngân hàng để gửi đối với khoản tiền gửi không đủ điều kiện để lập sổ tiết kiệm. Cơ quan thi hành án làm thủ tục đứng tên gửi số tiền đó vào ngân hàng theo loại tiền gửi tiết kiệm 01 tháng cho đến khi đương sự đến nhận tiền. Cơ quan thi hành án phải mở sổ theo dõi ghi thông tin về số tiền gửi tiết kiệm cùng với tên người được thi hành án, tên bản án, tên quyết định thi hành án. Phần lãi suất tiền gửi tiết kiệm sẽ được cộng vào số tiền gửi ban đầu và trả cho đương sự. Trường hợp hết thời hạn 05 năm kể từ ngày thông báo mà người được thi hành án không đến nhận thì cơ quan thi hành án làm thủ tục chuyển nộp số tiền đó vào Ngân sách Nhà nước.



44. Điều 142 quy định thẩm quyền giải quyết khiếu nại về thi hành án đối với Chấp hành viên và Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự. Có ý kiến cho rằng: như vậy trong trường hợp khiếu nại về thi hành án đối với Phó Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự thì Luật chưa quy định ai là người có thẩm quyền giải quyết; Luật chưa quy định cụ thể thẩm quyền giải quyết khiếu nại đối với trường hợp Chấp hành viên là Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự cấp huyện trực tiếp tổ chức thi hành án. Cần xác định người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại đối với trường hợp này.

Tại khoản 1 Điều 22 Luật Thi hành án dân sự quy định Thủ trưởng, Phó thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự phải là Chấp hành viên... Tại khoản 4 Điều 6, khảon 3 Điều 7 Nghị định số 74/2009/NĐ-CP ngày 09/9/2009 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự về cơ quan quản lý thi hành án dân sự, cơ quan thi hành án dân sự và công chức làm công tác thi hành án dân sự cũng đã quy định rõ. Do đó trong trường hợp khiếu nại về thi hành án đối với Phó Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự thì người có thẩm quyền giải quyết là Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự.

Điểm b khoản 2 Điều 142 Luật Thi hành án dân sự quy định Thủ trưởng Cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh giải quyết khiếu nại quyết định và hành vi trái pháp luật của Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự cấp huyện. Trong trường hợp này vì Chấp hành viên là Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự cấp huyện trực tiếp tổ chức thi hành án do đó thẩm quyền giải quyết là của Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh (Cục trưởng).

45. Điểm a Khoản 2 Điều 161 quy định khi Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự cấp huyện không nhất trí với kháng nghị của Viện Kiểm sát nhân dân thì phải báo cáo với Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh và Viện trưởng Viện Kiểm sát cấp trên trực tiếp. Như vậy, Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự cấp huyện có cần thông báo cho Viện Kiểm sát đã kháng nghị là không nhất trí với kháng nghị không?

Việc trả lời kháng nghị của Viện Kiểm sát thuộc trách nhiệm của Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự cho dù có nhất trí hay không nhất trí với kháng nghị (theo khoản e, điều 23; khoản 1, 2 Điều 161 Luật thi hành án dân sự - Điều 25 Luật tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân); nếu không nhất trí với kháng nghị vẫn phải trả lời và đồng thời phải báo cáo với Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh và Viện trưởng Viện Kiểm sát cấp trên trực tiếp (theo khoản 2 Điều 161 Luật thi hành án dân sự).



46. Luật Thi hành án dân sự đã đề cập đến quyền và nghĩa vụ của người được thi hành án, người phải thi hành án. Thực tế nhiều trường hợp những người này không có điều kiện, không tự mình bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của mình, đã phải mời đến các luật sự tham gia. Nhưng Luật Thi hành án dân sự chưa đề cập đến việc luật sư tham gia trong lĩnh vực thi hành án dân sự. Chưa có Điều luật nào quy định để luật sư tham gia với tư cách gì và cơ quan nào cấp giấy chứng nhận luật sư tham gia vụ việc thi hành án dân sự. Vì chưa có cơ sở pháp lý nên cơ quan thi hành án dân sự cùng các cơ quan khác có liên quan khi thực hiện nhiệm vụ còn gặp vướng mắc.

Luật sư được hành nghề theo quy định của Luật về Luật sư; trong hoạt động thi hành án dân sự họ thường là người được ủy quyền của đương sự, có thể đương sự ủy quyền để họ làm đơn đề nghị thi hành án, hoặc ủy quyền trong toàn bộ vụ việc đến khi thi hành án xong, họ được làm những gì mà luật pháp không cấm nên không cần phải quy định chi tiết trong Luật Thi hành án dân sự.



II. VỀ THÔNG TƯ LIÊN TỊCH SỐ 14/2010/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC NGÀY 26/7/2010 CỦA BỘ TƯ PHÁP - TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO - VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO HƯỚNG DẪN MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ THỦ TỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ VÀ PHỐI HỢP LIÊN NGÀNH TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ

47. Khoản 5 Điều 2 quy định: Trường hợp bản án, quyết định bị kháng nghị được tổ chức thi hành án đã được tổ chức thông qua bán đấu giá nay bị hủy, sửa thì cơ quan thi hành án dân sự tiếp tục hoàn thiện thủ tục theo quy định của pháp luật cho bên mua đấu giá, trừ trường hợp thủ tục bán đấu giá vi phạm quy định của pháp luật.

Có ý kiến cho rằng: khi bản án tuyên sai dẫn đến bản án bị hủy, thì việc bán đấu giá tất yếu phải bị hủy để khôi phục lại tài sản ban đầu. Do đó quyền lợi của người có tài sản bị bán đấu giá phải được phục hồi trước tiên, rồi mới tính đến quyền lợi của người trúng đấu giá. Quy định này không phù hợp thực tế, làm thiệt hại đến quyền lợi của bên phải thi hành án. Vì nếu như người phải thi hành án đã không đồng tình với bản án đã xử hoặc cơ quan có thẩm quyền phát hiện bản án tuyên không đúng có vi phạm về nội dung hay hình thức nên kháng nghị bản án đó, bản án đã bị kháng nghị nay bị hủy, sửa thì nội dung bản án đã khác, nên không thể tiếp tục hoàn thiện thủ tục bán đấu giá điều này làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích công dân.

Khoản 5 Điều 2 Thông tư 14/2010/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC nêu trên phù hợp với Điều 258 Bộ luật dân sự: “Chủ sở hữu được đòi lại động sản phải đăng ký quyền sở hữu và bất động sản, trừ trường hợp người thứ ba chiếm hữu ngay tình nhận được tài sản này thông qua bán đấu giá hoặc giao dịch với người mà theo bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền là chủ sở hữu tài sản nhưng sau đó người này không phải là chủ sở hữu tài sản do bản án, quyết định bị huỷ, sửa” và Điều 4 Nghị định số 17/2010/NĐ-CP ngày 04/3/2010 của Chính phủ về bán đấu giá tài sản về bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người mua được tài sản bán đấu giá. Dù bản án, quyết định bị hủy nhưng đã được thi hành bằng việc bán đấu giá và việc bán đấu giá không vi phạm pháp luật thì quyền lợi của người trúng đấu giá phải được đảm bảo. Vì trên thực tế, tổ chức bán đấu giá tài sản, người trúng đấu giá đều không có lỗi. Người có lỗi là Tòa án đã tuyên Bản án, quyết định đó và vấn đề thiệt hại cho người phải thi hành án được thực hiện theo quy định của Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước. Việc xử lý tài sản sau khi có quyết định giám đốc thẩm đã được quy định tại các Điều 134, 135, 136 Luật Thi hành án dân sự.



48. Khoản 3 Điều 5 quy định: "Nếu người có nghĩa vụ liên đới không có điều kiện thi hành án, thì cơ quan thi hành án dân sự yêu cầu những người có điều kiện thi hành án thực hiện thay phần nghĩa vụ của người đó. Người đã thực hiện thay phần nghĩa vụ thi hành án có quyền yêu cầu người có nghĩa vụ liên đới khác thanh toán lại phần nghĩa vụ mà người đó đã thực hiện thay cho họ theo quy định tại Điều 298 của Bộ luật Dân sự".

Thực tế xảy ra vướng mắc khi áp dụng là: Chấp hành viên, cơ quan thi hành án dân sự yêu cầu người có điều kiện thi hành án thi hành thay phần nghĩa vụ cho người chưa có điều kiện thi hành án, nhưng người có điều kiện thi hành án đó không thực hiện, mặc dù Chấp hành viên đã giải thích rõ về quyền và nghĩa vụ của những người có nghĩa vụ liên đới; đồng thời khi áp dụng biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản của người đó thì một số Ban, ngành có liên quan cho rằng Luật quy định chưa rõ về vấn đề này, hơn nữa Thông tư liên tịch số 14/2010/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC ngày 26/7/2010 chỉ được ban hành trong giới hạn của liên ngành giữa Bộ Tư pháp, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao mà không ban hành rộng ra các cơ quan ban ngành khác. Do vậy, không ràng buộc được các cơ quan có liên quan phối hợp thực hiện yêu cầu.

Trong trường hợp người có điều kiện thi hành án không thực hiện yêu cầu của Chấp hành viên về việc thi hành thay phần nghĩa vụ của người có nghĩa vụ liên đới không có điều kiện thi hành thì cơ quan thi hành án dân sự có thể áp dụng các biện pháp cưỡng chế, yêu cầu người đó phải thi hành nghĩa vụ.

Bộ luật Dân sự, cũng như Luật Thi hành án dân sự do cơ quan quyền lực cao nhất là Quốc hội ban hành, vì vậy cá nhân, cơ quan, tổ chức phải nghiêm chỉnh thực hiện. Quy định về trách nhiệm phối hợp của các cơ quan, đơn vị, cá nhân với cơ quan thi hành án dân sự được quy định rõ tại Điều 11 Luật Thi hành án dân sự .

Để hướng dẫn thi hành Luật Thi hành án dân sự, tại Điều 182 Luật Thi hành án dân sự Quốc hội giao cho “Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong phạm vi nhiệm vụ quyền hạn của mình quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành các điều, khoản được giao trong Luật...”, với trách nhiệm đó liên ngành ban hành các thông tư hướng dẫn; vì thế các cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan có trách nhiệm phối hợp với cơ quan thi hành án dân sự trong việc thi hành án.



49. Khoản 1 Điều 6 quy định: "Kể từ thời điểm có Bản án, Quyết định sơ thẩm mà người phải thi hành án bán, chuyển đổi, chuyển nhượng, tặng cho, thế chấp, bảo lãnh, cầm cố tài sản của mình cho người khác, không thừa nhận tài sản là của mình mà không sử dụng khoản tiền thu được để thi hành án thì tài sản đó vẫn bị kê biên để thi hành án, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Nếu có tranh chấp thì Chấp hành viên hướng dẫn đương sự thực hiện việc khởi kiện tại Tòa án để bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của mình. Hết thời hạn 30 ngày, kể từ ngày được thông báo mà không có người khởi thì cơ quan thi hành án dân sự xử lý tài sản để thi hành án"

Trong thực tiễn công tác thi hành án dân sự để tiến hành kê biên tài sản, Chấp hành viên hoặc người được thi hành án phải tiến hành xác minh tài sản của người phải thi hành án và khi có căn cứ cho rằng người thi hành án có tài sản nhưng không tự nguyện thi hành án thì Chấp hành viên mới tiến hành kê biên để thi hành án. Chấp hành viên chỉ kê biên, xử lý khi có căn cứ xác định tài sản đó thuộc quyền sở hữu hợp pháp của người phải thi hành án. Quyền sở hữu tài sản của một người có thể chứng minh bằng văn bản (đối với bất động sản và một số động sản theo quy định của pháp luật) hoặc bằng việc thể hiện đầy đủ các quyền năng của chủ sở hữu trên thực tế (đối với bất động sản). Tuy nhiên theo hướng dẫn tại khoản 1 Điều 6 Thông tư liên tịch số 14 nói trên thì việc xác định 1 tài sản được coi là người phải thi hành án có được kê biên hay không lại căn cứ vào thời điểm người thi hành án chuyển quyền sở hữu cho người khác. Theo đó, thì nếu như kể từ thời điểm có bản án, quyết định sơ thẩm mà người phải thi hành án bán, chuyển đổi, chuyển nhượng, tặng, cho người khác không thừa nhận tài sản là của mình mà không sử dụng khoản tiền thu được để thi hành án thì tài sản đó vẫn bị kê biên để thi hành án trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Do vậy, khi áp dụng các quy định trên vào thực tế đã gặp không ít những khó khăn vướng mắc do thiếu các quy định chi tiết, cũng như thiếu sự thống nhất giữa các văn bản pháp luật. Cụ thể:

+ Ngay sau khi có Bản án sơ thẩm, người phải thi hành án đã chuyển nhượng tài sản của mình là nhà, đất cho người khác. Việc chuyển nhượng này đúng quy định của pháp luật và đã kê khai đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền (theo quy định tại Điều 168, Điều 170 Bộ luật Dân sự). Như vậy, đối với trường hợp này theo quy định của Bộ luật Dân sự thì tài sản không còn là tài sản của người phải thi hành án nữa (giấy tờ xác nhận quyền sở hữu tài sản, sử dụng đất do cơ quan có thẩm quyền cấp đều không phải là người phải thi hành án).

Nhưng theo quy định tại Điều này, thì tài sản vẫn bị kê biên để thi hành án. Sau khi kê biên, Chấp hành viên thông báo cho người phải thi hành án và người đã nhận chuyển nhượng tài sản khởi kiện tại Tòa án để bảo vệ quyền lợi của minh nhưng họ không khởi kiện thì Chấp hành viên sẽ xử lý tài sản. Sau khi tài sản bán đấu giá thành, cơ quan thi hành án dân sự có trách niệm cung cấp đầy đủ các văn bản, giấy tờ liên quan cho người mua được tài sản bán đấu giá theo quy định tại khoản 3 Điều 106 Luật Thi hành án dân sự. Nhưng việc lập thủ tục chuyển quyền sở hữu cho người trúng đấu giá không thực hiện được vì giao dịch giữa người phải thi hành án và người mua trước đó vẫn còn hiệu lực; còn kết quả bán đấu giá vẫn được công nhận (theo Điều 4 Nghị định số 17/2010/NĐ-CP ngày 04/3/2010 của Chính phủ về bán đấu giá tài sản).

Như vậy, pháp luật về thi hành án dân sự chỉ qui định từ thời điểm có bản án sơ thẩm mà người phải thi hành án chuyển nhượng tài sản cho người khác thì tài sản đó vẫn bị kê biên đảm bảo thi hành án và quy định quyền yêu cầu giải quyết tranh chấp đối với người có tranh chấp tài sản kê biên, nhưng không quy định cơ quan thi hành án dân sự, Chấp hành viên có quyền hủy bỏ hoặc yêu cầu Tòa án hủy bỏ giao dịch có hiệu lực giữa người phải thi hành án và người khác được thực hiện sau khi có bản án sơ thẩm. Vì vậy, gây khó khăn cho việc xử lý tài sản của người phải thi hành án đã chuyển nhượng cho người khác sau khi có bản án sơ thẩm.

+ Bên cạnh đó, người mua, nhận tài sản không thể biết vào thời điểm đó tài sản đang bị tranh chấp. Trong nhiều trường hợp, người mua tài sản ngay tình có thể bị mất tài sản vì người bán đã sử dụng hết tiền và không còn tiền để trả lại cho người mua.

Mặt khác pháp luật quy định đương sự có thể khởi kiện tại Tòa án để bảo vệ quyền lợi của mình, quy định này cũng không khả thi vì bên mua và bên bán không có tranh chấp thì Tòa án không thể thụ lý để xét xử. Nếu có khởi kiện thì phải chăng là khởi kiện cơ quan thi hành án dân sự? Trong thực tế người nhận quyền sở hữu tài sản từ người phải thi hành án thường khiếu nại đến cơ quan thi hành án đối với Quyết định kê biên vì họ cho rằng cơ quan thi hành án dân sự đã kê biên tài sản thuộc quyền sở hữu hợp pháp của họ lúc này cơ quan thi hành án dân sự lại phải giải quyết khiếu nại. Khi đó việc chuyển quyền sở hữu cho người trúng đấu giá sẽ gặp rất nhiều khó khăn và việc thi hành án bị kéo dài do giao dịch chuyển quyền sở hữu trước đó đang bị tranh chấp nếu khi hết thời hạn 30 ngày kể từ ngày được thông báo mà không có người thực hiện thì cơ quan thi hành án dân sự tiếp tục xử lý tài sản để thi hành án nhưng việc thi hành án cũng bị kéo dài.

+ Luật Thi hành án dân sự quy định thời hiệu yêu cầu thi hành án là 5 năm. Nhiều trường hợp người mua tài sản của người phải thi hành án đã tiếp tục chuyển nhượng cho người khác và tài sản được chuyển nhượng qua nhiều người, hoặc dùng tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh... Do đó khi cơ quan thi hành án dân sự kê biên tài sản mà người phải thi hành án đã sang nhượng sau khi có bản án, quyết định sơ thẩm cho người khác dẫn tới khiếu nại của người mua. Hơn nữa, thời điểm sang nhượng tài sản, người được thi hành án chưa có đơn yêu cầu thi hành án, tài sản của người phải thi hành án không bị ngăn chặn giao dịch. Như vậy, trường hợp kê biên tài sản theo khoản 1 Điều 16 Thông tư liên tịch số 14 nêu trên xảy ra rất nhiều khiếu nại.

+ Trong trường hợp trên, nếu kê biên tài sản đó để đảm bảo thi hành án, thì đến giai đoạn bán đấu giá tài sản thì xử lý như thế nào? Tài sản thi hành án bây giờ không còn là của người phải thi hành án nữa thì tài sản đó không thể bán đấu giá được. Vì theo quy định tại khoản 6 Điều 2 Nghị định 17/2010/NĐ-CP ngày 04/3/2010 của Chính phủ quy định về bán đấu giá tài sản thì: “Người có tài sản bán đấu giá phải là chủ sở hữu tài sản, người được chủ sở hữu ủy quyền bán tài sản”. Do vậy, việc quy định như trên là không khả thi và khó thi hành trên thực tế.

Theo quy định tại Điều 75 Luật Thi hành án dân sự thì “Trường hợp cưỡng chế đối với tài sản của người phải thi hành án mà có tranh chấp với người khác thì Chấp hành viên tiến hành cưỡng chế và yêu cầu đương sự, người có tranh chấp khởi kiện tại Toà án hoặc đề nghị cơ quan có thẩm quyền giải quyết. Chấp hành viên xử lý tài sản đã kê biên theo quyết định của Toà án, cơ quan có thẩm quyền.

Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày Chấp hành viên yêu cầu mà đương sự, người có tranh chấp không khởi kiện tại Toà án hoặc đề nghị cơ quan có thẩm quyền giải quyết thì tài sản được xử lý để thi hành án theo quy định của Luật này”.

Do đó, Khoản 1 Điều 6 Thông tư liên tịch số 14/2010/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC quy định như vậy là hợp lý, phù hợp với quy định tại Điều 75 Luật Thi hành án dân sự, khoản 2 Điều 168 Bộ luật Dân sự về thời điểm chuyển quyền sở hữu đối với tài sản và khoản 8 Điều 170 Bộ luật Dân sự về căn cứ xác lập quyền sở hữu, tránh trường hợp đương sự tẩu tán tài sản, nhằm bảo đảm hiệu lực của Bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án.

Do hiện tại khi chưa có các quy định khác của pháp luật về việc xác lập quyền sở hữu thì cơ quan thi hành án dân sự cần thực hiện theo đúng quy định trên.

III. VỀ THÔNG TƯ LIÊN TỊCH SỐ 144/2010/TTLT-BTC-BTP NGÀY 22/9/2010 CỦA BỘ TÀI CHÍNH VÀ BỘ TƯ PHÁP HƯỚNG DẪN VỀ CHẾ ĐỘ THU, NỘP, QUẢN LÝ VÀ SỬ DỤNG PHÍ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ

50. Tại điểm a khoản 4 Điều 2 Thông tư quy định "Nếu đương sự có thỏa thuận bằng văn bản hoặc người được thi hành án có văn bản yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự không tiếp tục việc thi hành án theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 50 của Luật Thi hành án dân sự và người được thi hành án từ bỏ nhận tiền, tài sản đã thu được hoặc có đơn rút đơn yêu cầu thi hành án trước khi có quyết định cưỡng chế thi hành án, thì cơ quan thu phí không thu phí thi hành án". Như vậy, theo tinh thần hướng dẫn trên thì, hai bên đương sự (người phải và người được thi hành án) có văn bản hoặc người được thi hành án có văn bản yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự không tiếp tục thi hành án nữa thì mới phát sinh việc đình chỉ việc thi hành án theo điểm c khoản 1 Điều 50 Luật thi hành án dân sự.

Tuy nhiên, tại điểm b và c tại khoản 4 Điều 2 Thông tư lại quy định:

b/ Nếu đương sự không có thỏa thuận bằng văn bản hoặc người được thi hành án không có văn bản yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự không tiếp tục việc thi hành án theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 50 của Luật Thi hành án dân sự và việc rút đơn thực hiện sau khi có quyết định cưỡng chế thi hành án, thì người được thi hành án phải nộp 1/3 (một phần ba) số phí thi hành án phải nộp như của trường hợp không rút đơn.

c/ Nếu đương sự không có thỏa thuận bằng văn bản hoặc người được thi hành án không có văn bản yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự không tiếp tục việc thi hành án theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 50 Luật Thi hành án dân sự và việc rút đơn thực hiện sau khi cơ quan thi hành án dân sự đã thực hiện xong việc cưỡng chế; cơ quan thi hành án dân sự đã thu được tiền, tài sản để chi trả hoặc giao trả cho người được thi hành án, thì cơ quan thu phí vẫn thu phí thi hành án theo quy định tại Thông tư này.

Nếu hiểu theo đúng tinh thần tại hai điểm b, c nêu trên thì việc đình chỉ thi hành án theo điểm c khoản 1 Điều 50 Luật Thi hành án dân sự không xảy ra. Theo một số ý kiến, cách diễn đạt trong hai điểm b, c nêu trên là khó hiểu, dẫn đến nội dung bị chệch hướng, không đúng đối tượng cần điều chỉnh.

Ý kiến về diễn đạt trong văn bản gây khó hiểu như đã nêu ở trên là đúng. Tuy vậy, nội dung tại điểm b và điểm c khoản 4 Điều 2 Thông tư vẫn được hiểu về mức phí thi hành án trong hai trường hợp sau:

b/ Thời điểm rút đơn yêu cầu thi hành án của đương sự (việc rút đơn theo đúng trình tự pháp luật) xẩy ra sau thời điểm có quyết định cưỡng chế thi hành án thì phải nộp 1/3 số phí thi hành án phải nộp như của trường hợp không rút đơn.

c/ Thời điểm rút đơn yêu cầu thi hành án của đương sự (việc rút đơn theo đúng trình tự pháp luật) xẩy ra sau thời điểm cơ quan thi hành án dân sự đã thực hiện xong việc cưỡng chế; cơ quan thi hành án dân sự đã thu được tiền, tài sản để chi trả hoặc giao trả cho người được thi hành án, thì cơ quan thu phí vẫn thu phí thi hành án theo quy định tại Thông tư này.




tải về 318.85 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương