TỔng cục thi hành án dân sự



tải về 318.85 Kb.
trang2/5
Chuyển đổi dữ liệu25.07.2016
Kích318.85 Kb.
#5065
1   2   3   4   5

16. Khoản 1 Điều 55 cũng quy định mang tính chất bắt buộc là "phải ủy thác thi hành án". Nhưng trong thực tiễn cơ quan Thi hành án dân sự thực hiện không thống nhất quy định trên. Vì vậy, đề nghị Tổng cục Thi hành án dân sự hướng dẫn cụ thể.

Khoản 1 Điều 55 quy định các trường hợp phải ủy thác thi hành án, nhưng cơ quan Thi hành án dân sự không ủy thác mà tự mình tiến hành tổ chức thi hành án là không đúng quy định, dẫn đến hậu quả như đương sự khiếu nại về thẩm quyền, địa phương không hỗ trợ khi tổ chức cưỡng chế... Vì vậy cơ quan Thi hành án dân sự phải thực hiện ủy thác theo đúng quy định của Luật. Tuy nhiên, khi ủy thác thi hành án cũng cần xem xét: đối với tài sản là bất động sản thì cần ủy thác ngay; đối với tài sản là động sản do sẽ dễ dàng bị tẩu tán trong thời gian các cơ quan Thi hành án dân sự thực hiện việc ủy thác và nhận ủy thác nên cần áp dụng theo hướng cơ quan Thi hành án dân sự đang tổ chức thi hành án có thể áp dụng các biện pháp bảo đảm đối với tài sản là động sản của người phải thi hành án ở địa phương khác rồi mới thực hiện việc ủy thác.



17. Thi hành nghĩa vụ liên đới, có xác định từng phần của từng người thì có được tách ra để ủy thác hay không?

Về nguyên tắc, khi xử lý tài sản của những người phải thi hành án có nghĩa vụ liên đới ở nhiều nơi khác nhau thì cơ quan Thi hành án dân sự không được tách ra để ủy thác vì đối với việc thi hành nghĩa vụ liên đới chỉ được ra một quyết định thi hành án. Trong trường hợp này, theo quy định tại khoản 2 Điều 55 Luật Thi hành án dân sự, trường hợp thi hành nghĩa vụ liên đới mà người phải thi hành án cư trú hoặc có tài sản ở các địa phương khác nhau thì Thủ trưởng cơ quan Thi hành án dân sự uỷ thác toàn bộ nghĩa vụ thi hành án đến cơ quan Thi hành án dân sự thuộc một trong các địa phương nơi người phải thi hành án có điều kiện thi hành án. Vì vậy, cơ quan Thi hành án dân sự ban đầu (nơi đã nhận Bản án, Quyết định của Toà án do Toà án chuyển giao để đưa ra thi hành) căn cứ vào nội dung Bản án, Quyết định của Toà án có thể uỷ thác toàn bộ nghĩa vụ thi hành án đến cơ quan Thi hành án dân sự thuộc một trong các địa phương nơi người phải thi hành án có điều kiện thi hành án (uỷ thác thẳng); nếu đã thụ lý và ra Quyết định thi hành án thì trước khi ủy thác phải xác minh tất cả tài sản của các đương sự ở các nơi cần ủy thác để ủy thác toàn bộ nghĩa vụ thi hành án cho một cơ quan Thi hành án dân sự nơi người phải thi hành án có điều kiện thi hành án. Việc ủy thác cần đảm bảo không làm mất tính liên đới của việc thi hành án và các cơ quan Thi hành án dân sự có trách nhiệm phối hợp chặt chẽ với nhau trong việc tổ chức thi hành các nghĩa vụ thi hành án.



18. Về thẩm quyền ra quyết định thi hành án trở lại đối với việc trả đơn yêu cầu thi hành án mà trước đó việc thi hành án đã được ủy thác nhiều nơi:

Trường hợp này, việc ra Quyết định thi hành án trở lại thuộc thẩm quyền của cơ quan thi hành án đã ra quyết định trả đơn yêu cầu thi hành án. Tuy nhiên, trong trường hợp người phải thi hành án có điều kiện thi hành án tại địa phương khác, để việc tổ chức thi hành án thuận lợi, kịp thời, đúng pháp luật, thì khi nhận được đơn yêu cầu thi hành án trở lại, cơ quan thi hành án đã ra Quyết định trả đơn yêu cầu thi hành án sẽ ra Quyết định thi hành án trở lại theo quy định tại khoản 2 Điều 36 Luật Thi hành án dân sự và uỷ thác việc thi hành án đến cơ quan thi hành án dân sự nơi người phải thi hành án có điều kiện thi hành theo trình tự thủ tục của pháp luật.



19. Điều 60 quy định: Người được thi hành án phải nộp phí thi hành án dân sự. Hiện có những ý kiến như sau:

+ Luật quy định rất rõ ràng về đối tượng phải nộp phí thi hành án là người được thi hành án, trên thực tế việc thu phí thi hành án cũng có vướng mắc: đối với trường hợp người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nhận được tiền, tài sản thông qua quá trình thi hành án, Luật chưa quy định họ phải nộp phí thi hành án, chưa tạo nên sự bình đẳng trước pháp luật về quyền và nghĩa vụ của người phải thi hành án, người được thi hành án và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Dù người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có làm đơn yêu cầu thi hành án hay không, nhưng cơ quan thi hành án dân sự đã tổ chức thi hành bản án mà trong đó, họ được hưởng quyền và lợi ích thì họ cũng phải nộp phí thi hành án. Do đó, cần thiết có văn bản hướng dẫn thi hành Điều 60 một cách thi tiết hơn, rõ ràng hơn.

Cần phải phân biệt thế nào là người được thi hành án; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan (Điều 3 Luật Thi hành án dân sự đã quy định), theo đó khi người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan được nhận tài sản, được hưởng quyền, lợi ích trong bản án, quyết định thì họ có tư cách là người được thi hành án và phải nộp phí theo quy định. Ngược lại khi họ phải thực hiện nghĩa vụ thì họ lại có tư cách người phải thi hành án nên không phải nộp phí.



+ Người được thi hành án phải đóng phí thi hành án dân sự là không hợp lý. Lý do, người được thi hành án phải mất một khoảng thời gian bỏ ra để yêu cầu khởi kiện, thiệt hại về thu nhập trong thời gian cho vay, mượn tài sản... Khi yêu cầu Tòa án giải quyết xong lại phải tốn một khoản phí thi hành án là không thể chấp nhận được, gây thiệt hại đến quyền lợi hợp pháp của người được thi hành án, không tạo sự công bằng trong xã hội, nếu không bỏ điều luật này thì sửa lại người phải thi hành án phải chịu phí thi hành án mới phù hợp.

Về việc này cần hiều rằng, việc khởi kiện tại Tòa án để bảo vệ quyền lợi của đương sự và việc làm đơn yêu cầu thi hành án để đòi quyền lợi là hai giai đoạn độc lập. Do vậy, khi khởi kiện tại Tòa án để bảo vệ quyền lợi của mình thì đương sự là bên thua kiện đã phải chịu một khoản tiền án phí với nhà nước (trừ khi các bên đương sự thỏa thuận với nhau); sang giai đoạn thi hành án, người được thi hành án làm đơn yêu cầu thi hành án để đòi quyền lợi cho mình thì phải chịu một khoản phí thi hành án nhất định là hoàn toàn phù hợp với quy định của pháp luật và công bằng xã hội.



+ Đối với những vụ việc người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án nhưng sau đó các đương sự tự nguyện thi hành án, người được thi hành án không có đơn rút yêu cầu, cơ quan thi hành án dân sự chưa có quyết định cưỡng chế thi hành án nhưng lại thu được tiền, tài sản để chi trả cho đương sự (có trường hợp cơ quan thi hành án dân sự không thu được để chi trả mà 2 bên tự giao nhận với nhau) thì chưa có hướng dẫn, nên thực tế áp dụng không thống nhất. Có trường hợp cơ quan thi hành án dân sự vẫn thu phí với lý do áp dụng theo quy định tại khoản 1 Điều 33 Nghị định 58/2009/NĐ-CP ngày 13/7/2009 của Chính phủ (thu phí trên số tiền hoặc tài sản người được thi hành án thực nhận), nhưng có trường hợp lại không thu phí thi hành án vì chưa có hướng dẫn cụ thể.

Đối với những vụ việc người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án nhưng sau đó các đương sự tự nguyện thi hành án, người được thi hành án không có đơn rút đơn yêu cầu thi hành án để hai bên tự nguyện thi hành án, cơ quan thi hành án dân sự chưa có Quyết định cưỡng chế thi hành án, cơ quan thi hành án dân sự không thu được tiền, mà các bên tự giao nhận với nhau thì không thu phí thi hành án (theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 2 Thông tư liên tịch số 144/2010/TTLT-BTC-BTP ngày 22/9/2010).



20. Về điều kiện miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án quy định tại Điều 61 Luật Thi hành án dân sự và khoản 1 Điều 26 Nghị định số 58/2009/NĐ-CP ngày 13/7/2009 của Chính phủ thì trường hợp mà người phải thi hành các khoản thu nộp ngân sách nhà nước trên 5.000.000 đồng thì điều kiện được xét miễn, giảm thi hành án là “Người phải thi hành nghĩa vụ đối với khoản thu nộp ngân sách nhà nước đã thi hành được ít nhất bằng 1/20 khoản phải thi hành, nhưng giá trị không được thấp hơn mức án phí không có giá ngạch thì được xét miễn, giảm nghĩa vụ thi hành theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 61 Luật Thi hành án dân sự”. Thực tế cho thấy, với nhiều người phải thi hành án điều kiện này vẫn khó thực hiện nên số lượng án tồn đọng vẫn nhiều.

Trường hợp này, hiện nay pháp luật quy định điều kiện xét miễn, giảm đối với người phải thi hành án phải “đã thi hành được ít nhất bằng 1/20 khoản phải thi hành, nhưng giá trị không được thấp hơn mức án phí không có giá ngạch”. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy 1/20 khoản phải thi hành vẫn là một số tiền lớn đối với nhiều trường hợp, đặc biệt là các tội phạm về ma túy, lang thang, không rõ nơi cư trú, gia đình không hỗ trợ. Nhưng vì chưa có quy định khác nên cơ quan thi hành án dân sự cần thực hiện theo đúng quy định hiện hành, theo đó nếu người phải thi hành án chưa thi hành được ít nhất bằng 1/20 khoản phải thi hành, thì chưa đủ điều kiện xét miễn, giảm thi hành án. Cơ quan Thi hành án dân sự phải thực hiện theo quy định tại khoản 5 Điều 6 Nghị định số 58/2009/NĐ-CP: “Đối với việc thi hành án thuộc diện chủ động thi hành án mà người phải thi hành án không có điều kiện thi hành án thì ít nhất 6 tháng một lần Chấp hành viên phải thực hiện xác minh điều kiện thi hành án của đương sự. Trường hợp người phải thi hành án không có điều kiện thi hành án mà đang chấp hành hình phạt tù hoặc không xác định được địa chỉ, nơi cư trú mới thì thời hạn xác minh giữa các lần không được quá một năm”.

Hiện nay, theo Dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 58/2009/NĐ-CP, điều kiện đã thi hành được “một phần” để người phải thi hành nghĩa vụ đối với khoản thu nộp ngân sách nhà nước được xét miễn, giảm thi hành án sẽ giảm hơn so với quy định hiện hành. Khi Nghị định này được ban hành và có hiệu lực thì thực hiện theo quy định mới.

21. Khoản 1 Điều 62 quy định: Về hồ sơ đề nghị xét miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án gồm:

"Văn bản đề nghị xét miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án của Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự hoặc của Viện trưởng Viện kiểm sát trong trường hợp đề nghị xét miễn, giảm khoản tiền phạt".

Có ý kiến cho rằng Luật quy định như vậy chưa rõ ràng còn nhiều cách hiểu chưa thống nhất: có nơi hiểu là cơ quan Thi hành án dân sự hay Viện trưởng Viện kiểm sát đề nghị cũng được; có nơi hiểu đối với khoản tiền phạt phải do Viện trưởng Viện kiểm sát đề nghị mới đúng quy định.

Thẩm quyền, trình tự, hồ sơ xét miễn giảm nghĩa vụ thi hành án được quy định rất rõ tại Điều 4 Thông tư liên tịch số 10/2010/TTLT-BTP-BTC-BCA-VKSNDTC-TANDTC ngày 25/5/2010 hướng dẫn việc miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án đối với khoản thu nộp ngân sách nhà nước. Theo đó:

+ Theo khoản 1 Điều 4, thì cơ quan thi hành án dân sự đề nghị Tòa án xét miễn, giảm các khoản tiền thi hành án trừ trường hợp đối với các khoản tiền phạt theo qui định tại khoản 2 Điều 58 và khoản 3 Điều 76 Bộ luật Hình sự.

+ Theo khoản 2 Điều 4, thì Viện Kiểm sát phải làm văn bản đề nghị Tòa án xét miễn, giảm tiền thi hành án đối với các khoản tiền phạt còn lại qui định tại khoản 2 Điều 58 và khoản 3 Điều 76 Bộ luật Hình sự.



22. Khoản 1 Điều 63 quy định việc xét miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án đối với khoản thu nộp ngân sách nhà nước thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh... nơi cơ quan Thi hành án dân sự đang tổ chức việc thi hành án có trụ sở.

Có quan điểm cho rằng theo Điều 63 Luật Thi hành án dân sự và Điều 26 Nghị định số 58/2009/NĐ-CP không quy định Viện Kiểm sát cấp tỉnh tham dự Hội đồng xét miễn giảm mà chỉ quy định Viện Kiểm sát cấp huyện. Nhưng cấp huyện lại không nghiên cứu hồ sơ, như vậy việc phát biểu quan điểm của Viện Kiểm sát tại Tòa sẽ không chính xác.

Ngoài ra, nhiều trường hợp đủ điều kiện xét miễn, giảm nhưng đương sự sau khi chấp hành xong hình phạt tù, ra tù bỏ đi khỏi địa phương, không tìm ra nơi cư trú mới. Như vậy, hồ sơ đề nghị xét miễn giảm không có đơn đề nghị của đương sự thì một số cơ quan thẩm quyền ở địa phương không chấp nhận đưa ra xét miễn giảm, các trường hợp này tiếp tục bị tồn đọng. Đề nghị Luật phải cụ thể hơn đối với trường hợp này.

Điều 7 Thông tư liên tịch số 10/TTLT BTP-BCA-TANDTC-VKSNDTC ngày 25/5/2010 hướng dẫn việc miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án đối với khoản thu nộp ngân sách nhà nước quy định về kiểm sát hồ sơ đề nghị xét miễn, giảm thi hành án như sau:

“1. Vào tháng đầu của mỗi quý, Cơ quan thi hành án dân sự quy định tại Điều 4 của Thông tư liên tịch này có trách nhiệm chuyển hồ sơ đề nghị xét miễn, giảm được lập trong quý trước cho Viện kiểm sát cấp huyện nơi người phải thi hành án cư trú, làm việc để thực hiện việc kiểm sát.

Trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ, Viện kiểm sát phải xem xét và chuyển hồ sơ cho Toà án kèm theo văn bản nêu rõ ý kiến của Viện kiểm sát về các hồ sơ đề nghị miễn, giảm hoặc văn bản đề nghị miễn, giảm thi hành án và thông báo cho Cơ quan thi hành án dân sự thụ lý hồ sơ xét miễn, giảm biết.

2. Viện kiểm sát có quyền yêu cầu Cơ quan Thi hành án dân sự giải thích những điểm chưa rõ hoặc bổ sung những giấy tờ cần thiết. Trường hợp có căn cứ xác định rõ người phải thi hành án có đủ điều kiện để được xét miễn, giảm thi hành án nhưng Cơ quan Thi hành án dân sự không lập hồ sơ, Viện kiểm sát có quyền yêu cầu Cơ quan Thi hành án dân sự lập hồ sơ đề nghị xét miễn, giảm thi hành án”.

Như vậy, theo quy định của pháp luật thì Viện kiểm sát có thời hạn 15 ngày để nghiên cứu hồ sơ trước khi chuyển Tòa án nhân dân có thẩm quyền xem xét tổ chức thực hiện việc xét miễn, giảm.

Những trường hợp sau khi chấp hành xong hình phạt tù, ra tù bỏ đi khỏi địa phương, không tìm ra nơi cư trú mới, như vậy, hồ sơ đề nghị xét miễn giảm không có đơn đề nghị của đương sự thì theo quy định của pháp luật là chưa đủ điều kiện xét miễn, giảm dẫn đến vụ việc tồn đọng. Tổng cục tiếp thu kiến nghị này và sẽ đưa vào chương trình sửa đổi, bổ sung Luật để quy định cụ thể hơn.

23. Theo quy định tại Điều 106 Luật Đất đai 2003 thì người sử dụng đất được thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất...khi có các điều kiện sau:

a. Có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

b. Đất không có tranh chấp

c. Quyền sử dụng đất không bị kê biên để đảm bảo thi hành án

d. Trong thời hạn sử dụng đất.

Tuy nhiên, một số trường hợp cơ quan thi hành án không ban hành Quyết định kê biên tài sản mà chỉ có có công văn gửi cho UBND cấp xã và các phòng, ban chức năng của huyện yêu cầu không làm thủ tục chuyển đổi, chuyển nhượng, cho tặng, thế chấp, cầm cố bất kỳ tài sản gì của người phải thi hành án để ngăn chặn tẩu tán tài sản trốn tránh nghia vụ thi hành án.

Trên thực tế, các bên chỉ tranh chấp dân sự về tiền vay, đã có quyết định, bản án của Tòa án. Để đảm bảo việc thi hành án thì cơ quan thi hành án phải ban hành Quyết định kê biên một tài sản nào đó của người phải thi hành án tương ứng với nghĩa vụ trả nợ, làm sao tạm dừng chuyển dịch... được tất cả các tài sản của người phải thi hành án trong khi khối tài sản đó có giá trị lớn hơn rất nhiều so với khoản phải thi hành án. Vậy văn bản nêu trên có đảm bảo tính pháp lý để tạm dừng các giao dịch của người phải thi hành án hay không?

Căn cứ Khoản 1 Điều 66 và Điều 69 Luật Thi hành án dân sự 2008 và Điều 10 Nghị định 58/2009/NĐ-CP ngày 13/7/2009 của Chính phủ, để tránh đương sự tẩu tán tài sản, đảm bảo quyền lợi cho người được thi hành án, trước khi ban hành Quyết định kê biên, Chấp hành viên có quyền ban hành Quyết định tạm dừng việc đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng, thay đổi hiện trạng tài sản. Mặt khác, tại Điều 6 Thông tư liên tịch số 14/2010/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC ngày 26/7/2010 của Bộ Tư pháp, Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao hướng dẫn một số vấn đề về thủ tục thi hành án dân sự và phối hợp liên ngành trong thi hành án dân sự quy định: “...Kể từ thời điểm có bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật hoặc trong trường hợp đã bị áp dụng biện pháp ngăn chặn, biện pháp khẩn cấp tạm thời, biện pháp bảo đảm thi hành án, biện pháp cưỡng chế thi hành án mà tài sản bị bán, chuyển đổi, chuyển nhượng, tặng cho, thế chấp, bảo lãnh, cầm cố cho người khác, người phải thi hành án không thừa nhận tài sản là của mình thì bị kê biên, xử lý để thi hành án”. Do vậy, cơ quan thi hành án dân sự có công văn đề nghị Ủy ban nhân dân và các cơ quan chức năng không cho chuyển đổi, chuyển nhượng, cho tặng, thế chấp, cầm cố bất cứ một tài sản nào của người phải thi hành án là chưa đảm bảo tính pháp lý để tạm dừng các giao dịch của người phải thi hành án nhưng cần được các cơ quan chức năng phối hợp với cơ quan thi hành án nhằm hỗ trợ, đảm bảo có hiệu quả việc thi hành án.

Để đảm bảo về mặt pháp lý, đối với mỗi vụ việc cụ thể, cơ quan thi hành án dân sự cần tiến hành xác minh tài sản của đương sự, sau đó ban hành quyết định tạm dừng việc đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng, thay đổi hiện trạng tài sản.

24. Khoản 3 Điều 67 quy định: “Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày ra quyết định phong tỏa tài khoản, Chấp hành viên phải áp dụng biện pháp cưỡng chế...". Nhưng trong thời gian này đương sự chưa hết quyền thỏa thuận thi hành án và người phải thi hành án chưa hết thời gian tự nguyện thi hành án theo quy định tại Điều 45 Luật Thi hành án dân sự. Việc Chấp hành viên áp dụng biện pháp cưỡng chế là vi phạm nghiêm trọng đến quyền của người phải thi hành án.

Theo quy định của pháp luật thì thời hạn tự nguyện thi hành án là 15 ngày kể từ ngày nhận được thông báo quyết định thi hành án hợp lệ. Tuy nhiên, đối với các trường hợp đương sự có hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản hoặc trốn tránh việc thi hành án thì Chấp hành viên có quyền áp dụng ngay các biện pháp quy định tại chương IV của Luật này. Như vậy, không phải toàn bộ quyết định cưỡng chế phải được ra sau 15 ngày kể từ ngày nhận được thông báo .

Phong tỏa tài khoản không phải là biện pháp cưỡng chế thi hành án mà là biện pháp bảo đảm thi hành án. Việc phong tỏa tài khoản là biện pháp ngăn chặn tẩu tán tài sản nên không nhất thiết phải sau 15 ngày, do vậy việc Chấp hành viên áp dụng biện pháp cưỡng chế là đúng quy định của pháp luật, không được xem là vi phạm đến quyền lợi của người phải thi hành án.

25. Khoản 3 Điều 68 quy định:

"Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tạm giữ tài sản, giấy tờ, Chấp hành viên ra một trong các quyết định sau đây:

a) Áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án nếu xác định được tài sản, giấy tờ tạm giữ thuộc sở hữu của người phải thi hành án;

b) Trả lại tài sản, giấy tờ tạm giữ cho đương sự trong trường hợp đương sự chứng minh tài sản, giấy tờ tạm giữ không thuộc quyền sở hữu của người phải thi hành án. Việc trả lại tài sản, giấy tờ tạm giữ phải lập biên bản, có chữ ký của các bên."

Đoạn 2 Điều 69 quy định:

"Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày ra Quyết định, Chấp hành viên thực hiện việc kê biên tài sản hoặc chấm dứt việc tạm dừng việc đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng, thay đổi hiện trạng tài sản"

Thực tế việc xác định chủ sở hữu tài sản có rất nhiều trường hợp gặp khó khăn, phức tạp, phụ thuộc và kết quả trả lời của cơ quan có thẩm quyền. Nhiều trường hợp hết 15 ngày vẫn chưa xác định được chủ sở hữu tài sản thì Chấp hành viên không thể áp dụng biện pháp cưỡng chế, tạm dừng việc đăng ký chuyển quyền sở hữu hoặc trả lại tài sản. Vì vậy, quy định thời hạn 15 ngày Chấp hành viên phải ra một trong các quyết định xử lý nêu trên là khó có tính khả thi, cần quy định thời gian dài hơn.

Quy định như vậy nhằm nâng cao trách nhiệm của Chấp hành viên và để tránh tẩu tán tài sản. Còn việc kê biên phải theo trình tự theo quy định của pháp luật (ra quyết định, thông báo, kê biên...), khi kê biên mà có tranh chấp mới đề nghị cơ quan có thẩm quyền giải quyết. Do Luật đã quy định cụ thể thời hạn, nên cơ quan Thi hành án dân sự đã ra quyết định tạm dừng việc đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng, thay đổi hiện trạng tài sản của người phải thi hành án cần tích cực trong việc xác định quyền sở hữu, sử dụng tài sản để thực hiện việc kê biên tài sản hoặc chấm dứt việc tạm dừng việc đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng, thay đổi hiện trạng tài sản theo đúng thời hạn mà Luật đã quy định. Cơ quan Thi hành án dân sự cần gửi quyết định áp dụng biện pháp bảo đảm và các tài liệu có liên quan tới các cơ quan chức năng để các cơ quan này phối hợp ngăn chặn không cho chuyển quyền sở hữu, sử dụng, tặng cho tài sản đến khi đủ điều kiện thì áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án.

Về việc này, Tổng cục sẽ tiếp thu, nghiên cứu kiến nghị trên để đề xuất vào nội dung đổi, bổ sung Luật Thi hành án dân sự cho phù hợp với thực tế áp dụng. Tuy nhiên, vì hiện nay Luật thi hành án dân sự chưa được sửa đổi, bổ sung nên Chấp hành viên trong quá trình tổ chức thi hành án vẫn phải thực hiện đúng quy định này.

26. Điều 71 quy định về biện pháp cưỡng chế thi hành án. Trên thực tế phát sinh vướng mắc như sau: Theo bản án tuyên xác định ranh giới đất, cơ quan Thi hành án dân sự thụ lý đơn yêu cầu thi hành án, đã tống đạt giấy báo tự nguyện thi hành án cho hai bên đương sự. Nhưng một bên không tự nguyện nên cơ quan Thi hành án dân sự triệu tập hai bên đến chứng kiến cùng các ngành chuyên môn, đại diện địa phương cho đo đạc, xuống mốc ranh giới như bản án tuyên và người yêu cầu thi hành án đã ký nhận vào biên bản nhận ranh giới đất. Sau đó, người không tự nguyện không chấp nhận và dời bỏ cột mốc. Người yêu cầu thi hành án khiếu nại cơ quan Thi hành án dân sự chưa thi hành xong bản án. Vấn đề này giải quyết thế nào? Có thể áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án lại không?

Nội dung này đã được quy định tại khoản 4 Điều 8 Nghị định 58/2009/NĐ-CP ngày 13/7/2009 của Chính phủ: "Tài sản đã được giao trên thực tế cho người được nhận tài sản và người đó đã ký nhận vào biên bản giao, nhận tài sản nhưng sau đó bị đương sự chiếm lại thì cơ quan thi hành án dân sự không có trách nhiệm giao lại tài sản cho người được nhận tài sản. Người đã nhận tài sản có quyền yêu cầu Uỷ ban nhân dân hoặc cơ quan có thẩm quyền giải quyết".



27. Điều 72 quy định Quyết định và kế hoạch cưỡng chế thi hành án phải được gửi ngay cho Viện Kiểm sát nhưng không quy định phải chuyển hồ sơ cho Viện Kiểm sát để kiểm sát tính hợp pháp của hồ sơ thi hành án trước khi thực hiện việc cưỡng chế. Từ đó, gây khó khăn cho công tác kiểm sát, không đảm bảo về thời gian. Khi Viện Kiểm sát ban hành văn bản yêu cầu cung cấp hồ sơ thì Luật không quy định thời gian để cơ quan thi hành án dân sự chuyển hồ sơ cho Viện Kiểm sát.

Trong quá trình thi hành án kể từ khi ra Quyết định thi hành án đến khi cưỡng chế thi hành án là cả một quá trình dài qua các giai đoạn như tự nguyện, xác minh điều kiện thi hành án, nếu có điều kiện mà không tự nguyện mới cưỡng chế, trong cả giai đoạn trước khi cưỡng chế như kê biên tài sản thì Viện Kiểm sát đã thực hiện quyền kiểm sát thường xuyên do đó không nhất thiết phải chuyển hồ sơ cho Viện Kiểm sát nghiên cứu trước khi cưỡng chế.

Tuy nhiên, trong trường hợp cần thiết thì Viện Kiểm sát có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự cung cấp hồ sơ, tài liệu theo Điều 24 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân để xem xét hồ sơ trước khi tiến hành cưỡng chế thi hành án.

28. Vướng mắc trong việc thực hiện quy định tại Điều 74: Cưỡng chế đối với tài sản thuộc sở hữu chung.

+ Trình tự, thủ tục xác định phân chia tài sản của người phải thi hành án có chung với người khác như thế nào?

Trước hết, cần phải có sự phân biệt giữa tranh chấp tài sản và yêu cầu xác định, phân chia quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản.

Tranh chấp liên quan đến tài sản đã kê biên và tranh chấp về kết quả bán đấu giá tài sản...là vụ kiện dân sự. Vì vậy, khi có tranh chấp thì phải do Tòa án giải quyết theo quy định tại khoản 10, khoản 11 Điều 25 Bộ luật Tố tụng dân sự. Do vậy, trong trường hợp này, Cơ quan thi hành án dân sự cần hướng dẫn các đương sự khởi kiện để Tòa án giải quyết.

Đối với việc xác định hoặc phân chia quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản mà không có tranh chấp thì được xác định là việc dân sự. Việc không có tranh chấp ở đây có thể được hiểu là tài sản đó có sự thống nhất, thỏa thuận giữa người phải thi hành án với người khác về việc thừa nhận tài sản đó không thuộc quyền sở hữu, sử dụng của người phải thi hành án mà thuộc quyền sở hữu, sử dụng của người khác. Tuy nhiên, người được thi hành án không đồng ý với thỏa thuận đó hoặc Cơ quan thi hành án dân sự nhận thấy thỏa thuận đó là trái quy định của pháp luật, ảnh hưởng đến việc thi hành án, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người thứ ba, của người được thi hành án thì Cơ quan thi hành án dân sự hướng dẫn các đương sự hoặc tự mình yêu cầu Tòa án xác định quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản để thi hành án.



+ Cách thức xác định phần tài sản của người phải thi hành án trong khối tài sản chung?

Việc xác định phần tài sản của người phải thi hành án trong khối tài sản chung phải được thực hiện theo đúng quy định tại Điều 74 Luật Thi hành án dân sự. Tuy nhiên, cần lưu ý:

- Thời điểm xác định quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản: trước khi kê biên tài sản chung.

- Cách thức xác định: khi xác định phần tài sản của người phải thi hành án trong khối tài sản chung cần phần biệt 2 trường hợp:

Đối với tài sản chung thông thường: việc xác định tài sản riêng của mỗi người trong khối tài sản chung được thực hiện theo nguyên tắc của Bộ luật Dân sự, Bộ luật Tố tụng dân sự. Theo đó, Chấp hành viên cần thông báo cho các đương sự về việc phân chia, xác định tài sản của mình trong khối tài sản chung để đương sự tự thỏa thuận. Nhưng sự thỏa thuận đó không được trái pháp luật, đạo đức xã hội, không ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của người thứ ba. Trường hợp đã thông báo mà các đương sự không thỏa thuận được hoặc có thỏa thuận nhưng không đúng quy định của pháp luật, đạo đức xã hội, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của người thứ ba, ảnh hưởng đến việc thi hành án, nhằm tẩu tán tài sản... thì Chấp hành viên cần thông báo cho người được thi hành án đề nghị Tòa án giải quyết xác định, phân chia. Trong trường hợp người được thi hành án, người phải thi hành án không yêu cầu Tòa án thì Chấp hành viên yêu cầu Tòa án xác định theo quy định tại Điều 26 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Đối với tài sản chung của vợ chồng: Chấp hành viên xác định phần tài sản của vợ, chồng trong khối tài sản chung trên cơ sở Điều 74 Luật Thi hành án dân sự, Bộ luật Dân sự, Luật Hôn nhân và gia đình, Nghị định số 70/2001/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Hôn nhân và gia đình, Nghị quyết 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Căn cứ vào các quy định trên, Chấp hành viên thông báo cho vợ, chồng biết để họ xem xét, quyết định. Nếu vợ, chồng không chấp nhận việc phân chia như trên và không thỏa thuận được thì hướng dẫn vợ, chồng yêu cầu Tòa án xác định quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản trong khối tài sản chung. Trong trường hợp hết thời hạn 30 ngày, kể từ ngày phần sở hữu được Chấp hành viên xác định, đương sự không khởi kiện thì Chấp hành viên căn cứ vào kết quả xác minh của mình để tiến hành xử lý tài sản và thanh toán lại cho vợ hoặc chồng của người phải thi hành án giá trị phần tài sản thuộc quyền sở hữu của họ.



+ Tài sản thuộc sở hữu chung là quyền sử dụng đất cấp cho hộ gia đình bị cưỡng chế thi hành án, Luật chưa quy định rõ ràng tài sản chung của hộ được xác định tại thời điểm nào (theo hộ khẩu tại thời điểm kê biên tài sản hay theo hộ khẩu tại thời điểm cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất).

Tài sản là quyền sử dụng đất cấp cho hộ gia đình, theo quy định của pháp luật đất đai là tài sản chung của các thành viên trong hộ gia đình tại thời điểm cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.




tải về 318.85 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương