Tên sách: Brisingr Hỏa Kiếm Tác giả: Christopher Paolini



tải về 4.77 Mb.
trang20/36
Chuyển đổi dữ liệu07.07.2016
Kích4.77 Mb.
#1502
1   ...   16   17   18   19   20   21   22   23   ...   36

Chương 28 : Vì tình yêu

Roran nhìn chằm chằm xuống đất, viên sỏi nằm gọn trong tay. Đôi lông mày của anh

nhíu lại thành một đường thẳng giận dữ.

"Stern risa!" anh gầm gừ trong hơi thở.

Viên sỏi vẫn không chịu nhúc nhích.

"Cậu đang làm gì thế, Cây-búa-dũng-mãnh?" Carn hỏi và ngồi phịch xuống khúc gỗ

Roran đang ngồi.

Nhét viên sỏi vào thắt lưng, Roran cầm lấy miếng bánh mì và mẩu phô mai Carn đem

đến và nói: "Không có gì. Chỉ mơ màng thôi."

Carn gật đầu. "Chuyện thường thấy trước khi làm nhiệm vụ."

Vừa ăn, Roran vừa đưa mắt quan sát những người cùng đi với anh. Nhóm gồm 30

người đàn ông khỏe mạnh, kể cả Roran. Họ đều là những chiến binh dũng mãnh. Người

nào cũng mang cung, và hầu hết đều mang gươm, nhưng cũng có một số người chọn

giáo, chùy, hoặc búa. Anh đoán trong số đó có khoảng 7, 8 người cùng độ tuổi với mình,

293

còn lại thì đều lớn tuổi hơn nhiều. Người lớn tuổi nhất trong bọn là viên chỉ huy,



Martland Redbeard, vị bá tước đã bị truất phế của Thun, người đã trải qua nhiều mùa

đông đến nỗi hàm ria nổi tiếng của ông trở nên bạc trắng như băng tuyết.

Khi Roran mới gia nhập đội quân của Martland, anh đã đến trình diện trong lều của

ông ta. Bá tước là một người thấp bé, cơ bắp lực lưỡng do cả đời ngồi trên lưng ngựa và

vung kiếm. Bộ ria nổi tiếng của ông dày, được chải chuốt cẩn thận, dài đến giữa ngực.

Sau khi nhìn ngắm Roran cẩn thận, bá tước nói: "Công nương Nasuada đã kể cho ta nghe

những chuyện tuyệt vời về cậu, con trai của ta, và ta còn nghe được nhiều hơn thế từ lính

của ta, từ những tin đồn, đại loại thế. Cậu biết chúng thế nào rồi đấy. Không nghi ngờ gì

nữa, cậu đã đạt được những chiến công cao quý; ví dụ như đương đầu với bọn Ra'zac

ngay trong hang ổ của chúng, đó quả thật không phải là việc dễ dàng. Tất nhiên, cậu được

em mình giúp đỡ, đúng không, hmm?... Cậu có thể đã quen làm việc theo cách riêng của

mình với dân làng của cậu, nhưng giờ cậu đã là một phần của Varden, con trai của ta ạ.

Hơn nữa, cậu còn là chiến binh của ta. Chúng ta không phải gia đình cậu. Chúng ta không

phải láng giềng của cậu. Thậm chí, bọn ta còn không cần phải là bạn cậu. Nhiệm vụ của

chúng ta là thực hiện mệnh lệnh của Nasuada, bất kể bản thân cảm thấy thế nào. Khi cậu

chiến đấu dưới quyền của ta, cậu phải làm những gì ta bảo, khi ta bảo, và theo cách của

ta, hoặc là ta thề trên nấm mồ của mẹ ta rằng – mong bà được yên nghỉ - đích thân ta sẽ

lột da cậu ra, mặc kệ cậu là bà con của ai đi nữa. Cậu hiểu chứ?"

"Vâng, thưa ngài!"

"Rất tốt. Nếu cậu cư xử tốt và thể hiện rằng mình có chút đầu óc, và nếu cậu sống sót,

thì việc thăng tiến trong Varden đối với một người có quyết tâm không phải là không thể.

Và điều đó hoàn toàn phụ thuộc vào chuyện ta có cho rằng cậu thích hợp để chỉ huy một

đội quân riêng không. Nhưng cậu đừng bao giờ cho rằng, đừng bao giờ, rằng cậu có thể

nịnh bợ ta để ta đánh giá tốt về cậu. Ta không quan tâm cậu thích hay không thích ta. Ta

chỉ quan tâm đến việc cậu có thể làm được chuyện cần làm hay không."

"Tôi hoàn toàn hiểu, thưa ngài"

"Ừm, được, có lẽ cậu sẽ làm được, Cây-búa-dũng-mãnh ạ. Chúng ta sẽ biết ngay thôi.

Giờ thì đi báo cáo với Ulhart, cánh tay phải của ta."

Roran nuốt chửng mẩu bánh mì cuối cùng và tọng nó xuống bằng một ngụm rượu từ

chiếc túi da luôn mang theo mình. Tối qua anh đã mong có được một bữa ăn nóng sốt,

nhưng bọn họ đang ở sâu trong Đế quốc, và đám lính có thể phát hiện ra ngọn lửa. Anh

thở dài, duỗi hai chân ra. Hai đầu gối anh đau nhừ vì cưỡi Hỏa tuyết suốt từ bình minh tới

hoàng hôn trong ba ngày liền.

Sâu trong lòng, Roran cảm thấy một áp lực mơ hồ nhưng liên tục, một nỗi bứt rứt

không yên mà đêm ngày đều hướng anh về một phía: Katrina. Nguyên nhân của cảm giác

này là chiếc nhẫn Eragon tặng anh, nó là một niềm an ủi lớn cho Roran khi biết rằng, nhờ

có nó, anh và Katrina có thể tìm ra nhau ở bất cứ nơi nào trên Alagaesia, ngay khi cả hai

đều điếc và mù.

Nghe Carn đang thì thầm những từ ngữ cổ bên cạnh, anh mỉm cười. Carn là pháp sư

của họ, anh ta được điều đến để đảm bảo rằng các pháp sư đối phương không thể giết hết

mọi người chỉ bằng một cái phẩy tay. Từ một số người lính, Roran biết được rằng Carn

không phải là một pháp sư cao tay – anh ta khá vất vả để thực hiện được một câu thần

294

chú – nhưng anh ta bù đắp vào khiếm khuyết đó bằng cách sáng tác ra nhiều câu thần chú



rất hay và đặc biệt nổi trội trong việc lẻn vào tâm trí đối phương. Carn khá gầy ốm, có

đôi mắt luôn lo lắng ủ rũ, kiểu người dễ bị kích động. Roran thích anh ta ngay lập tức.

Phía trước Roran là hai người đàn ông, Halmar và Ferth, đang ngồi trước lều của họ.

Halmar bảo Ferth, "… vì thế khi bọn lính tới tìm ông ta, ông ta rút hết quân vào điền

trang của mình và cho đốt những bể dầu sôi mà người hầu đã chuẩn bị trước, bẫy bọn

lính và làm cho bọn đến sau tin rằng tất cả đã bị thiêu sống. Cậu tin nổi không? Ông ta

giết một lúc 500 tên lính mà thậm chí không cần vung gươm!"

"Làm sao ông ấy thoát được?" Ferth hỏi.

"Ông của Redbeard là một thằng cha xảo quyệt, thật vậy. Ông ta cho đào một đường

hầm suốt từ đại sảnh gia đình đến tận dòng sông gần nhất. Nhờ đó, Redbeard đã cứu thoát

cả gia đình mình, và cả những người hầu nữa. Ông đưa họ đến Surda, và vua Larkin thu

nhận tất cả. Nhiều năm sau, Galbatorix mới phát hiện ra rằng họ vẫn còn sống. Chúng ta

rất may mắn được dưới quyền Redbeard. Ông ta chỉ mới thua có hai trận, và đó là vì phép

thuật."


Halmar im lặng khi Ulhart bước vào giữa 16 căn lều. Tay chiến binh kì cựu với khuôn

mặt khắc nghiệt đứng với hai chân dang rộng, vững chãi như một cây sồi đâm rễ sâu,

quan sát những căn lều để chắc rằng mọi người đều có mặt. Ông ta nói: "Mặt trời lặn rồi,

mau đi ngủ đi. Chúng ta sẽ khởi hành hai tiếng trước bình minh. Đoàn xe cách chúng ta

khoảng 7 dặm về phía tây bắc. Nếu tận dụng được thời gian, ta sẽ tấn công ngay khi

chúng bắt đầu di chuyển. Giết hết tất cả, đốt sạch mọi thứ, và chúng ta sẽ được về nhà.

Các ngươi biết rồi đấy. Cây-búa-dũng-mãnh, ngươi đi với ta. Nếu ngươi gây sự, ta sẽ moi

ruột ngươi ra bằng một lưỡi câu cùn." Đám lính cười thầm. "Được rồi, đi ngủ ngay đi."

Gió quất vào mặt Roran. Tiếng tim đập thình thình trong tai anh át đi mọi tiếng động

khác. Hỏa Tuyết lồng lên, phi nước đại. Tầm nhìn của Roran thu hẹp lại, anh không thấy

gì khác ngoài hai tên lính cưỡi hai con lừa cái màu nâu cạnh cỗ xe áp cuối trong đoàn xe

tải lương.

Nâng cao cây búa, Roran gào to hết sức có thể.

Hai tên lính giật mình dò dẫm với vũ khí và khiên của mình. Một tên làm rơi ngọn

giáo và phải cúi xuống để nhặt nó lên.

Kéo cương để Hỏa Tuyết chạy chậm lại, Roran đứng hẳn lên bàn đạp ngựa, và, khi

vừa ngang tầm tên lính đầu tiên, anh đánh vào vai hắn, xẻ đôi áo giáp của hắn. Tên lính

thét lên, cánh tay hắn mềm nhũn ra. Roran giải quyết hắn bằng một cú đấm.

Tên lính kia đã nhặt được ngọn giáo, hắn cố đâm vào cổ Roran. Roran né ra sau tấm

khiên tròn, ngọn giáo thép đâm mạnh vào gỗ gây nên một tiếng động chói tai. Roran thúc

chân vào sườn Hỏa Tuyết làm nó lồng lên, hí vang, chồm hai chân trước lên trời. Một

chiếc móng sắt của nó đập vào ngực tên lính, xé nát chiếc áo trấn thủ màu đỏ của hắn.

Hỏa Tuyết vừa hạ chân xuống, Roran liền vung búa lên, chặt nát cổ họng tên lính.

Để mặc tên lính nằm thoi thóp trên mặt đất, Roran thúc Hỏa Tuyết chạy về phía cỗ xe

kế tiếp trong đoàn xe, nơi Ulhart đang một mình đấu lại ba tên lính. Mỗi xe được bốn con

bò kéo, và khi Hỏa Tuyết chạy qua chiếc xe Roran vừa chiếm được, con bò dẫn đầu hất

đầu lên, chóp sừng trái của nó đâm vào chân phải Roran. Roran thở hổn hển. Anh cảm

295


thấy như vừa bị ai đó đặt một cái bàn ủi nóng đỏ lên ống quyển. Anh nhìn xuống và thấy

một mảnh ủng rách ra đang lủng lẳng cùng với một mẩu da và cơ.

Thét lên một tiếng xông trận, Roran chạy đến tên lính gần nhất trong số ba tên đang

đấu với Ulhart và hạ hắn chỉ với một nhát búa. Tên kế tiếp thoát được cú đánh của Roran

và xoay ngựa chạy trốn.

"Chặn hắn lại!" Ulhart hét lên, nhưng Roran đã đang đuổi theo hắn rồi.

Tên lính chạy trốn thúc ngựa mạnh đến mức con vật đổ máu, nhưng dù hắn đã cố gắng

tuyệt vọng đến mức tàn nhẫn, con chiến mã của hắn vẫn không thể vượt nổi Hỏa Tuyết.

Roran nằm rạp xuống cổ Hỏa Tuyết khi nó phi như bay trên mặt đất với tốc độ phi

thường. Nhận thấy chạy trốn là không thể, tên lính ghìm cương, xoay ngựa lại và chém

Roran bằng một thanh kiếm lưỡi cong. Roran nâng búa lên và suýt nữa đã không đỡ được

lưỡi kiếm sắc như dao lam. Anh lập tức trả đũa bằng một cú đánh móc phía trên đầu

nhưng hắn ta đỡ được và lại chém vào tay chân Roran thêm hai lần nữa. Roran thầm chửi

thề trong đầu. Rõ ràng tên lính kia dùng kiếm giỏi hơn anh; nếu anh không thẳng nổi

trong vài giây tới, anh sẽ bị giết.

Tên lính hẳn đã cảm thấy lợi thế của mình, hắn tấn công dồn dập hơn, buộc Hỏa Tuyết

phải lùi lại. Ba lần Roran đã chắc rằng tên lính sẽ làm anh bị thương, nhưng rồi cuối cùng

lưỡi kiếm của hắn bị chệch hướng và trượt khỏi Roran như bị tác động bởi một lực vô

hình. Lúc đó, Roran cảm thấy rất biết ơn sự bảo trợ của Eragon.

Không còn biết trông cậy vào gì khác nữa, Roran đành phải viện đến yếu tố bất ngờ:

anh thò đầu và cổ ra ngoài tấm khiên và la lên: "Bah!" như thể đang dọa người nào đó

trong một hành lang tối tăm. Tên lính chùn bước, và ngay lúc đó, Roran nhoài người tới

trước, đập búa vào đầu gối trái hắn ta. Mặt hắn trắng bệch ra vì đau. Trước khi hắn kịp

hồi phục lại, Roran đánh mạnh vào thắt lưng hắn ta và tên lính thét lên, cột sống hắn cong

vòng. Roran kết thúc sự đau đớn của hắn bằng một cú đập vào đầu.

Roran ngồi xuống, thở hổn hển một lúc, sau đó anh kéo cương Hỏa Tuyết và thúc nó

chạy nước kiệu về lại đoàn xe. Mắt đảo quanh bắt lấy từng chuyển động nhỏ nhất, Roran

thầm đánh giá kết quả trận chiến. Bọn lính chết gần hết, cả những người đánh xe cũng

vậy. Carn đứng cạnh cỗ xe dẫn đầu, đối diện với một người mặc áo choàng, cả hai hoàn

toàn bất động, ngoại trừ vài cơn co giật nhỏ, dấu hiệu duy nhất của cuộc chiến vô hình

của họ. Khi Roran còn đang quan sát, đối thủ của Carn bỗng ngã vật ra, nằm bất động

trên đất.

Ở khoảng giữa đoàn xe, năm tên lính dũng cảm đã thả lũ bò ra và kéo mấy cỗ xe lại

tạo thành một hình tam giác, bảy Martland Redbeard và mười chiến binh Varden khác.

Bốn tên lính thọc giáo vào các cỗ xe, trong khi tên thứ năm bắn cung vào các chiến binh

Varden, buộc họ phải rút về nấp sau cỗ xe gần nhất. Tay cung thủ đã làm thương khá

nhiều chiến binh Varden, vài người ngã khỏi ngựa, những người còn lại cố thủ trên yên,

tìm chỗ nấp.

Roran nhíu mày nghĩ ngợi. Họ không thể nấn ná quá lâu trên một trong những trục

đường chính của Đế quốc, trong khi bọn lính lại đang giết dần từng người lính đang ẩn

nấp. Thời gian đang chống lại họ.

296


Bọn lính quay mặt về hướng tây, phía các chiến binh Varden tấn công. Ngoài Roran

ra, không chiến binh Varden nào đi về phía kia của đoàn xe. Do đó, bọn lính không hề

ngờ rằng chúng bị anh phục kích từ phía đông.

Một kế hoạch nảy ra trong đầu Roran. Trong bất cứ tình huống nào khác, anh cũng sẽ

gạt nó sang một bên ngay vì nó quá lố bịch và phi thực tế, nhưng cũng chính vì vậy mà

anh chọn nó, vì hiện giờ đó là cách duy nhất để giải quyết tình hình. Anh không màng

đến việc bản thân gặp nguy hiểm, anh đã gạt nỗi sợ chết sang một bên khi họ bắt đầu

nhiệm vụ.

Roran thúc Hỏa Tuyết phi nước đại. Anh đặt tay trái lên trước yên, chân đặt sát phía

ngoài bàn đạp ngựa, sẵn sàng hành động. Khi Hỏa Tuyết cách tam giác xe khoảng 50

feet, anh chống tay, nâng người lên, đặt hẳn chân lên yên, thu mình lấy đà ngay trên lưng

Hỏa Tuyết. Anh phải tập trung hết mức và vận dụng hết sự khéo léo để giữ thăng bằng.

Như Roran mong đợi, Hỏa Tuyết giảm tốc độ và chuyển hướng sang bên khi đám xe bắt

đầu hiện ra lù lù.

Roran thả dần dây cương khi Hỏa Tuyết rẽ, rồi anh nhảy khỏi lưng ngựa, phóng thẳng

lên chiếc xe ngựa đang xoay về phía đông. Bao tử của anh quặn lên. Anh bắt gặp ánh mắt

của một cung thủ đang ngước lên, mắt hắn ta tròn, tròng trắng phân rõ, rồi anh lao thẳng

vào hắn, và cả hai cùng ngã xuống. Roran đè lên tên lính, cơ thể hắn làm đệm cho anh.

Roran quỳ dậy trên hai gối, nâng khiên lên và đập mạnh vào khe hở giữa chiếc nón sắt và

cái áo trấn thủ của tên lính, làm hắn gãy cổ. Rồi anh đứng hẳn dậy.

Bốn tên lính còn lại phản ứng khá chậm. Tên bên trái Roran mắc sai lầm, hắn cố đâm

giáo vào giữa tam giác xe nhưng quá vội vàng nên làm cho ngọn giáo kẹt giữa hông một

chiếc xe và bánh trước của một chiếc khác. Roran lao tới tấn công hắn. Tên lính cố rút

lui, nhưng mấy chiếc xe chặn đường hắn. Vung búa lên, anh chặt vào ngay dưới cằm hắn.

Tên lính thứ hai khôn hơn. Hắn bỏ giáo và rút gươm từ thắt lưng ra nhưng chỉ mới

được nửa chừng thì đã bị Roran đánh vỡ ngực.

Tên lính thứ ba và thứ tư thì đã sẵn sàng đối đầu với Roran. Chúng kéo về phía anh,

gươm tuốt trần, gầm gừ. Roran định bước tránh chúng, nhưng cái chân bị thương phản

bội anh, anh vấp và ngã quỵ gối. Tên lính gần nhất chém thẳng xuống. Roran giơ khiên

chặn cú đánh, rồi trườn tới và nghiền nát chân của hắn bằng búa. Tên lính buột ra một

tiếng rủa, ngã ra đất. Roran lập tức đập nát mặt hắn, sau đó nhảy lên lưng hắn, và nhận ra

rằng tên lính cuối cùng đang ở ngay sau lưng mình.

Roran cứng người, tay chân dang rộng.

Tên lính đứng trước anh, kiếm giương lên, mũi kiếm sáng loáng cách họng Roran có

một inch.

Vậy là xong, Roran nghĩ.

Nhưng rồi một cánh tay khỏe mạnh vòng quanh cổ tên lính, kéo giật hắn về phía sau,

tên lính bật ra một tiếng nấc nghẹn khi một lưỡi kiếm nhú ra từ ngực hắn cùng với một tia

máu. Tên lính ngã xuống như một đống thịt, và ngay chỗ hắn vừa đứng là Martland

Redbeard. Bá tước thở gấp, râu và ngực ông toàn máu khô.

297

Martland cắm gươm xuống đất, tựa vào chuôi kiếm và xem xét cảnh tàn sát trong lòng



tam giác xe. Ông gật đầu : "Ta biết là cậu làm được mà."

Roran ngồi cuối cỗ xe, cắn lưỡi trong khi Carn cắt nốt chiếc ủng của anh ra. Cố gắng

phớt lờ cơn đau kinh khủng ở chân, Roran liếc nhìn bọn kền kền đang đảo quanh trên đầu

và tập trung vào những kỉ niệm về mái nhà ở thung lũng Palancar.

Anh khẽ làu bàu khi Carn chọc sâu vào vết cắt.

"Xin lỗi," Carn nói. "Tôi phải kiểm tra vết thương."

Roran không trả lời, tiếp tục nhìn chằm chằm vào bọn kền kền. Một phút sau, Carn

lẩm bẩm một tràng cổ ngữ, và vài giây sau, cơn đau ở chân Roran dịu hẳn lại. Nhìn

xuống, Roran thấy chân mình đã lành lại.

Nỗ lực chữa thương cho Roran và hai người khác khiến Carn tái mặt và run lẩy bẩy.

Tay pháp sư ngồi sụp xuống, vòng tay ôm lấy bụng, trông như sắp nôn mửa tới nơi.

"Anh không sao chứ?" Roran hỏi.

Carn khẽ nhún vai. "Tôi cần một lúc để hồi phục… Con bò đã làm xước xương chân

anh. Tôi đã chữa vết xước, nhưng tôi không đủ sức để chữa toàn bộ vết thương cho anh.

Tôi đã khâu sơ lại da và cơ bắp của anh, nên anh sẽ không bị chảy máu hay quá đau đớn.

Tuy nhiên, phần cơ đó chỉ có thể đỡ nổi trọng lượng của chính anh, không hơn, cho đến

khi nó tự lành hẳn."

"Phải mất bao lâu?"

"Một hoặc hai tuần."

Roran xỏ chân vào phần còn lại của chiếc ủng. "Eragon đã niệm thần chú bảo vệ tôi

khỏi bị thương. Mấy câu thần chú đó đã nhiều lần cứu mạng tôi hôm nay. Nhưng sao

chúng không bảo vệ tôi khỏi sừng của con bò?"

"Tôi không biết, Roran à," Carn nói, thở dài. "Không ai có thể lường trước được hết

mọi chuyện. Đó là một trong những lý do khiến cho phép thuật trở nên nguy hiểm. Nếu

anh bỏ sót một khía cạnh của một câu thần chú, nó sẽ làm anh yếu đi hoặc tệ hơn nữa, nó

sẽ gây ra những điều tệ hại mà anh không mong muốn. Chuyện đó xảy ra ngay cả với

những pháp sư cừ khôi nhất. Hẳn là đã có một lỗ hổng trong câu thần chú của em anh –

một từ ngữ bị đặt nhầm chỗ, hoặc một câu không rõ nghĩa – và nó đã để cho con bò húc

anh."

Thấy thoải mái hơn, Roran khập khiễng đi về phía chiếc xe đầu đoàn, đánh giá kết quả



trận đánh. Năm chiến binh Varden bị thương, kể cả anh, và hai người nữa chết: một

người Roran ít khi gặp, còn người kia là Ferth, người mà anh thường hay trò chuyện. Còn

bọn lính và người đánh xe thì không ai sống sót.

Roran dừng lại bên tên lính đầu tiên trong hai tên anh đã giết và xem xét cái xác.

Miệng anh đắng nghét, còn ruột anh thì quặn lại vì kinh sợ. Giờ đây, mình đã giết

người… Mình cũng chẳng biết bao nhiêu người nữa. Anh nhận ra rằng trong cơn điên

cuồng trong trận Cánh Đồng Cháy, anh đã không thể đếm nổi số người mình giết. Việc

anh đã giết nhiều người đến nỗi không nhớ hết làm anh bối rối. Liệu mình có phải giết cả

một rừng người để đòi lại những gì Đế quốc đã cướp của mình không? Một ý nghĩ nữa

xuất hiện, làm anh càng mất bình tĩnh hơn: Và nếu có, thì làm cách nào mình có thể trở

298

lại thung lũng Palancar để sống một cách bình yên khi tâm hồn mình đã vấy bẩn bởi máu



của hàng trăm người?

Nhắm mắt lại, Roran thả lỏng cơ bắp, cố gắng bình tĩnh lại. Mình giết chóc vì tình

yêu. Mình giết người vì tình yêu dành cho Katrina, cho Eragon, cho dân làng Carvahall,

cho Varden, và cho mảnh đất này. Vì tình yêu, mình sẽ bơi vào biển máu, dù nó có hủy

hoại mình đi nữa.

"Chưa bao giờ thấy chuyện nào như vậy, Cây-búa-dũng-mãnh ạ," Ulhart nói. Roran

mở mắt ra và thấy người chiến binh tóc hoa râm đang đứng trước mặt mình, tay nắm

cương Hỏa Tuyết. "Chưa từng có ai điên khùng đến mức thực hiện một kế hoạch như

vậy, nhảy lên những cỗ xe, chưa có ai còn sống mà nghe chuyện này, tuyệt đối chưa.

Làm tốt lắm! Nhưng hãy cẩn thận. Ngươi không thể cứ đi lòng vòng, nhảy khỏi ngựa rồi

giết một lúc năm tên mà vẫn còn mong được thấy mùa hè sau, đúng không? Hãy cẩn thận

hơn nếu ngươi có đầu óc."

"Tôi sẽ ghi nhớ điều đó," Roran nói và cầm lấy cương Hỏa Tuyết.

Vài phút sau khi Roran hạ tên lính cuối cùng, những chiến binh không bị thương đã

đến từng cỗ xe trong đoàn, mở tung những kiện hàng, và báo cáo lại cho Martland, người

ghi chép lại những gì họ tìm thấy để Nasuada xem xét và có thể đoán ra phần nào kế

hoạch của Galbatorix. Roran xem họ kiểm tra mấy cỗ xe cuối cùng, chúng chứa toàn bột

mì và quân phục. Khi mọi việc đã xong, họ cắt cổ mấy con bò khiến máu đổ đầy đường.

Giết lũ bò khiến Roran khó chịu, nhưng anh hiểu tầm quan trọng của việc không được để

cho Đế quốc có chúng, và anh sẵn sàng làm điều đó nếu được bảo. Đúng ra họ nên đưa

chúng về với Varden, nhưng chúng quá chậm và sẽ trở nên vướng víu. Ngựa của bọn lính

thì có thể theo kịp khi họ chạy ra khỏi lãnh thổ kẻ thù, nên họ bắt lại càng nhiều càng tốt

và cột chúng sau ngựa của mình.

Sau đó, một người rút từ trong túi yên ngựa của mình ra một cây đuốc tẩm nhựa

thông, và đốt nó lên bằng đá lửa. Chạy tới lui giữa đoàn xe, anh ta dí ngọn đuốc vào từng

cỗ xe cho đến khi nó bắt lửa, rồi ném ngọn đuốc vào cỗ xe cuối cùng.

"Đi thôi!" Martland nói to.

Chân Roran run lên khi anh nhảy lên Hỏa Tuyết. Anh thúc con chiến mã đến kế bên

Carn khi những người sống sót tụ lại thành hai hàng phía sau Martland. Lũ ngựa khịt mũi

và gõ móng xuống đất, nôn nóng đi xa khỏi đám cháy.

Martland phi nước kiệu nhanh đi trước, mọi người theo sau, để lại một dãy những cỗ

xe cháy rừng rực, như một chuỗi hạt lấp lánh giữa con đường cô độc.



Chương 29: RỪNG ĐÁ

299


Tiếng reo hò vang lên từ đám đông.

Eragon đang ngồi trên một khán đài gỗ mà người lùn đã xây men theo đường chân lũy

ở mặt ngoài Hang Bregan. Pháo đài nằm trên một bờ núi tròn của ngọn Thardûr, cao hơn

một dặm bên trên thung lũng đặc sương mù, và từ trên đó có thể nhìn được nhiều dặm

theo cả hai hướng, hoặc cho đến khi những đỉnh núi che khuất tầm nhìn. Giống như

Tronjheim và những thành phố người lùn khác mà Eragon đã viếng thăm, Hang Bregan

hoàn toàn được dựng lên bằng đá mỏ – trong trường hợp này, một loại đá hoa cương màu

hung đỏ khoác lên vẻ ấm áp cho những căn phòng và hành lang bên trong. Cái hang là

một công trình dày, vững chắc mọc cao năm tầng lên đến một tháp chuông mở, có đỉnh là

một khối thủy tinh to ngang hai người lùn và được giữ bởi bốn gọng đá hoa cương kết nối

với nhau tạo thành một chỏm đá nhọn. Khối thủy tinh, theo như Orik nói với Eragon, là

một mẫu lớn hơn của những ngọn đèn không lửa của người lùn, và trong những dịp quan

trọng hoặc khẩn cấp, có thể dùng nó để soi sáng toàn bộ thung lũng bằng ánh sáng màu

vàng. Những người lùn gọi nó là Az Sindriznarrvel, hay Viên ngọc Sindri. Rất nhiều ngôi

nhà phụ tụ tập quanh sườn cái hang, là nơi cư trú của những người phục vụ và chiến binh

của Dûrgrimst Ingeitum, cùng với những công trình khác, như chuồng ngựa, xưởng rèn,

và một nhà thờ dựng lên dành cho Morgothal, vị thần lửa của người lùn và là thần hộ

mệnh của các thợ rèn. Bên dưới những bức tường cao, nhẵn nhụi của Hang Bregan là

hàng tá những trang trại rải rác đó đây trong những khoảng rừng trống, những cuộn khói

lững lờ trôi bên trên những ngôi nhà đá.

Và còn nhiều điều khác nữa, Orik đều đã chỉ và giải thích cho Eragon sau khi ba đứa

trẻ lùn hộ tống nó vào đến sân trong của Hang Bregan, la hét “Argetlam!” với bất cứ ai

trong tầm nghe. Orik đã đón mừng Eragon như một người anh em, rồi đưa nó đến nhà

tắm và, khi nó đã sạch sẽ, ông lo liệu cho nó một cái áo choàng màu tía sẫm, với một

vòng xuyến vàng để đeo vào lông mày.

Sau đó, Orik đã làm Eragon ngạc nhiên khi giới thiệu nó với Hvedra, một nữ người

lùn có đôi mắt sáng, khuôn mặt tròn với bộ tóc dài, và hãnh diện tuyên bố rằng họ vừa

mới làm đám cưới hai ngày trước. Trong khi Eragon bày tỏ sự ngạc nhiên và chúc mừng,

Orik đứng đổi chân liên tục trước khi đáp lại, “Tôi đã rất đau lòng vì cậu không có ở đây

để dự lễ, Eragon ạ. Tôi đã nhờ một pháp sư liên lạc với Nasuada, và tôi hỏi cô ta liệu có

thể chuyển lời mời của tôi đến cậu và Saphira không, nhưng cô ta từ chối nói lại với cậu;

cô ta sợ lời mời có thể khiến cậu xao nhãng nhiệm vụ sắp tới. Tôi không thể trách cô ta,

nhưng tôi ước gì cuộc chiến này cho phép cậu dự đám cưới của chúng tôi, và chúng tôi

dự đám cưới anh họ cậu, vì tất cả chúng ta giờ đều đã là họ hàng, theo luật pháp nếu

không phải theo huyết thống.”

Bằng giọng nặng nề, Hevdra nói, “Xin hãy coi tôi là họ hàng của cậu, thưa Khắc-tinhcủa-

Tà-thần. Miễn là khả năng của tôi cho phép, cậu sẽ luôn được đối đãi như người nhà

ở Hang Bregan, và cậu có thể thỉnh cầu sự che chở của chúng tôi bất cứ khi nào cậu cần,

cho dù kẻ săn lùng cậu là Galbatorix đi nữa.”

300


Eragon cúi đầu, biết ơn vì đề nghị giúp đỡ của bà. “Bà thật tử tế.” Rồi nó hỏi, “Nếu bà

không phiền vì sự tò mò của tôi, tại sao bà và Orik lại chọn làm đám cưới vào thời điểm

này?”

“Chúng tôi đã dự định sẽ thành thân mùa xuân này, nhưng…”



“Nhưng,” Orik tiếp lời với vẻ cộc cằn, “đám Urgals tấn công Farthen Dûr, rồi Vua

Hrothgar phái tôi đi dạo mát với cậu ở Ellesméra. Khi tôi trở lại đây và các gia đình trong

tộc đã chấp thuận tôi làm grimstborith mới, chúng tôi nghĩ đã đến lúc làm trọn lời hứa

hôn của chúng tôi và trở thành vợ chồng. Có khi chẳng ai trong chúng tôi sống được đến

hết năm, vậy thì lần lữa mà làm gì?”

“Vậy là ông đã thực sự trở thành tộc trưởng,” Eragon nói.

“Đúng. Chọn ra người lãnh đạo mới cho Dûrgrimst Ingeitum là một vụ gây nhiều

tranh cãi – chúng tôi gặp phải nhiều khó khăn trong hơn một tuần – nhưng đến cuối cùng,

hầu hết các gia tộc đều tán thành rằng tôi nên tiếp bước Vua Hrothgar mà kế vị ngài vì tôi

là người thừa tự duy nhất mang tên ngài.”

Lúc này Eragon đang ngồi cạnh Orik và Hvedra, ăn ngấu nghiến bánh mì và thịt cừu

mà những người lùn đã mang tới và quan sát cuộc thi đấu diễn ra trước các khán đài. Đã

là thông lệ, Orik nói, nếu một gia tộc người lùn có vàng thì họ sẽ tổ chức các cuộc chơi

để giúp vui cho khách dự đám cưới. Gia tộc của Vua Horthgar rất giàu có, các cuộc chơi

hiện giờ đều đã kéo dài được ba ngày và đã được lên lịch để tiếp tục thêm bốn ngày nữa.

Cuộc chơi gồm nhiều nội dung: đấu vật, bắn cung, đấu kiếm, đọ sức, và nội dung đang

diễn ra, là Ghastgar.

Từ hai đầu đối diện của một sân cỏ, hai người lùn trên lưng hai con Feldûnost trắng

đang tiến về phía nhau. Hai con dê núi có sừng nhảy băng qua bãi cỏ, mỗi con bật xa hơn

hai mươi thước. Người lùn ở bên phải có một cái mộc nhỏ cột bên tay trái nhưng không

có vũ khí. Còn người lùn bên trái không có khiên, nhưng trong tay phải, ông ta giữ một

ngọn giáo trong tư thế sẵn sàng để ném.

Eragon nín thở khi khoảng cách giữa hai con Feldûnost thu hẹp. Khi chúng còn cách

nhau không tới chín thước, người lùn có cây giáo vung tay trong không trung và phóng

ngọn giáo vào đối thủ. Người lùn kia không hề lấy khiên che chắn mà vươn tay ra và, với

một sự khéo léo đáng kinh ngạc, chộp lấy cán giáo. Ông ta vung nó lên quá đầu. Đám

đông tụ tập quanh trường đấu hò reo vang dội, cả Eragon cũng góp vào, vỗ tay nhiệt liệt.

“Quả đó khéo thật!” Orik kêu lên. Ông cười và nốc cạn vại rượu mật ong của mình, bộ

giáp khoác ngoài bóng loáng của ông lấp lánh trong ánh sáng chiều tối. Ông đội một mũ

sắt có gắn vàng, bạc, hồng ngọc, và trên ngón tay ông là năm chiếc nhẫn thiệt lớn. Trên

hông ông là cây rìu vẫn luôn luôn hiện hữu. Hvedra còn được tô điểm lộng lẫy hơn, với

những mảnh vải được thêu thùa trên bộ áo váy xa hoa của mình, những dây ngọc trai và

vàng xoắn xuýt quanh cổ, và trong mái tóc bà là một chiếc lược ngà gắn một viên lục bảo

to như ngón cái của Eragon.

Một hàng người lùn đứng và thổi một bộ tù và chạm trổ, âm thanh lanh lảnh vang

vọng trong dãy núi. Rồi một người lùn to như một thùng rượu bước tới trước và, bằng

301

tiếng Người lùn, tuyên bố người chiến thắng trong cuộc thi cuối cùng, cũng như đọc tên



cặp đấu tiếp theo sẽ tranh tài trong môn Ghastgar.

Khi người điều khiển buổi lễ nói xong, Eragon cúi xuống và hỏi, “Bà có đi cùng

chúng tôi đến Farthen Dûr không, Hvedra?”

Bà ta lắc đầu và cười rạng rỡ. “Tôi không thể. Tôi phải ở lại đây và lo công việc của

Ingeitum trong lúc Orik đi vắng, như vậy lúc quay lại anh ấy sẽ không phải thấy chiến

binh của mình chết đói còn vàng thì bị tiêu sạch.”

Tủm tỉm cười, Orik đưa cái vại của mình ra cho một người phục vụ cách đó vài thước.

Khi người lùn vội vã đi tới và rót thêm rượu vào vại từ một cái bình, Orik nói với Eragon

với một vẻ hãnh diện rõ rệt, “Hvedra không nói khoác đâu. Cô ấy không chỉ là vợ tôi, cô

ấy là… Chà, các cậu không có từ này. Cô ấy là grimstcarvloss của Dûrgrimst Ingeitum.

Grimstcarvloss nghĩa là… ‘người giữ nhà,’ ‘người quản lý nhà.’ Nhiệm vụ của cô ấy là

đảm bảo rằng các gia đình trong tộc trả mức thuế đã thỏa thuận cho Hang Bregan, rằng

các đàn thú của chúng tôi được đưa đến đúng cánh đồng và đúng thời điểm, kho thức ăn

và ngũ cốc của chúng tôi không vơi đi quá mức, phụ nữ Ingeitum dệt đủ vải, chiến binh

của chúng tôi được trang bị đầy đủ, thợ rèn luôn luôn có quặng để luyện thành sắt, và nói

chung, đảm bảo rằng bộ tộc của chúng ta được trông nom tốt và sẽ thịnh vượng và phát

đạt. Chúng tôi có một câu nói: một grimstcarvloss tốt có thể tạo dựng cả một bộ tộc –”

“Và một grimstcarvloss tồi có thể hủy diệt cả một bộ tộc,” Hvedra nói.

Orik cười và siết tay bà. “Và Hvedra là người giỏi nhất trong các grimstcarlossn. Đấy

không phải là một danh hiệu thừa kế. Cậu phải chứng minh cậu xứng đáng với nhiệm vụ

nếu cậu muốn giữ nó. Cũng hiếm khi vợ của một grimstborith lại là một grimstcarvloss.

Tôi thật may mắn nếu xét theo mặt này.” Cúi đầu, ông ta và Hvedra cọ mũi vào nhau.

Eragon liếc đi chỗ khác, cảm thấy cô đơn và lạc lõng. Ngả đầu ra, Orik làm một hơi rượu

mật ong, rồi nói, “Có rất nhiều grimstcarvlossn nổi tiếng trong lịch sử chúng tôi. Người ta

thường nói là đám tộc trưởng chúng tôi chỉ giỏi tuyên chiến với nhau và các

grimstcarvlossn lại thích chúng tôi cứ đi mà cãi vã nhau để khỏi có thời gian can thiệp

vào công việc của bộ tộc.”

“Nào nào, Skilfz Delva,” Hvedra quở. “Anh biết điều đó không đúng mà. Hay ít nhất

là không đúng đối với chúng ta.”

“Ừm,” Orik nói, và chạm trán mình vào trán Hvedra. Họ cọ mũi với nhau lần nữa.

Eragon lại chú ý đến đám đông bên dưới khi họ bùng ra la ó và huýt sáo điên cuồng.

Nó thấy một người lùn tham gia trong cuộc thi Ghastgar đã mất chiến ý và, vào phút

cuối, ông ta giật con Feldûnost của mình sang một bên để rồi cố gắng chạy trốn khỏi đối

phương. Người lùn có cây giáo truy đuổi liền hai vòng quanh trường đấu. Khi họ đã đủ

gần nhau, ông ta đứng lên trên hai bàn đạp và phóng cây giáo ra, đâm trúng vào sau vai

trái của ông lùn nhát gan. Người lùn đó hú lên, rơi khỏi lưng chiến mã và nằm nghiêng

sang bên, ghì chặt lấy lưỡi giáo và cái cán đang găm vào thịt. Một người chữa trị nhào tới

chỗ ông ta. Sau một lát, mọi người đều quay lưng lại quang cảnh đó.

302

Môi trên Orik cong lên phẫn nộ. “Ha! Gia đình hắn sẽ tốn nhiều năm mới tẩy sạch



được vết nhơ hổ nhục của đứa con trai. Tôi rất tiếc vì cậu phải chứng kiến hành động

đáng khinh này, Eragon ạ.”

“Nhìn ai đó tự làm xấu mặt mình chẳng bao giờ là thú vị.”

Ba người họ ngồi yên lặng suốt hai cuộc đấu tiếp theo, rồi Orik làm Eragon giật mình

khi nắm lấy vai nó và hỏi, “Cậu có muốn thấy một khu rừng bằng đá không, Eragon?”

“Một thứ như thế không tồn tại, trừ khi là chạm khắc.”

Orik lắc đầu, mắt lấp láy. “Không phải chạm khắc, và nó có tồn tại. Vậy tôi hỏi lại,

cậu có muốn thấy một khu rừng bằng đá không?”

“Nếu ông không giỡn… có, tôi muốn.”

“A, tôi mừng là cậu chấp thuận. Tôi không giỡn, và tôi hứa với cậu là ngày mai cậu và

tôi sẽ tản bộ giữa rừng cây bằng đá hoa cương. Đó là một trong những kỳ quan của rặng

núi Beor. Mọi vị khách của Dûrgrimst Ingeitum đều nên có dịp đến thăm nơi đó.”

Sáng hôm sau, Eragon ngồi dậy trên cái giường nhỏ quá khổ trong căn phòng đá trần

thấp, cùng những đồ đạc có kích cỡ chỉ bằng nửa bình thường. Nó rửa mặt trong một

chậu nước lạnh, và, trái lệ thường, nó nới rộng tầm ý thức về phía Saphira. Nó chỉ cảm

nhận được tâm tưởng của những người lùn cùng những con thú bên trong và xung quanh

cái hang. Nản chí, Eragon cúi ra trước, nắm lấy vành cái chậu, kiệt quệ vì cảm giác bị

cách ly. Nó giữ nguyên tư thế đó, không thể cử động hay suy nghĩ, cho đến khi tầm nhìn

của nó hóa thành đỏ thẫm với những đốm sáng nhấp nháy trôi nổi trước mắt. Hổn hển, nó

thở ra và lại hít vào thật sâu.

Mình nhớ ả suốt hành trình từ Helgrind, nó nghĩ, nhưng ít nhất mình biết là mình đang

trở lại với ả nhanh nhất có thể. Còn giờ đây mình đang rời xa khỏi ả, và mình không biết

khi nào mới lại được đoàn tụ.

Giũ mình, nó mặc quần áo rồi tìm đường xuyên qua những hành lang xoắn ốc của

Hang Bregan, cúi đầu với những người lùn mà nó đi ngang, và họ chào nó bằng cách lặp

lại “Argelam!” một cách hồ hởi.

Nó thấy Orik và mười hai người lùn khác ở sân trong của cái hang, đang đóng yên cho

một hàng ngựa nhỏ, hơi thở của chúng sinh ra những cụm khói trắng trong không khí

lạnh. Eragon thấy mình như một ông khổng lồ khi những người đàn ông thấp lùn vạm vỡ

di chuyển quanh nó.

Orik đón chào nó. “Chúng tôi có một con lừa trong chuồng ngựa, nếu cậu muốn cưỡi.”

“Không, tôi sẽ đi bộ, nếu các ông không thấy vấn đề gì.”

Orik nhún vai. “Tùy ý cậu.”

Khi họ đã sẵn sàng khởi hành, Hvedra bước xuống những bậc thang rộng bằng đá dẫn

từ cổng vào đến đại sảnh của Hang Bregan, váy của bà ta lê dài phía sau, và đưa cho Orik

một cái tù và bằng ngà phủ vàng kim bao quanh hai đầu. Bà nói, “Cái này của cha em khi

ông đi cùng Grimstborith Aldhrim. Em đưa nó cho anh để anh có thể nhớ đến em trong

những ngày sắp tới.” Bà nói nhiều điều nữa bằng tiếng Người lùn, nhỏ nhẹ đến mức

303

Eragon không thể nghe thấy, rồi bà ta và Orik chạm trán vào nhau. Ngồi thẳng lại trên



yên, Orik đưa tù và lên môi và thổi. Một âm thanh trầm và mạnh mẽ vang lên, âm lượng

tăng dần cho đến khi không khí bên trong khoảng sân dường như rung động như một

chiếc dây thừng bị gió đưa đẩy. Một đôi quạ đen bay ra từ ngọn tháp bên trên, kêu vang.

Tiếng tù và làm máu Eragon rộn lên. Nó cựa quậy, hăm hở muốn rời đi.

Nâng cái tù và lên quá đầu và với một cái nhìn cuối cùng dành cho Hvedra, Orik thúc

con ngựa tiến tới, đi nước kiệu ra khỏi cổng chính của Hang Bregan, rồi ngoặt sang

hướng đông, về phía đầu thung lũng. Eragon và mười hai người lùn kia theo sát phía sau.

Trong ba giờ, họ đi theo một lối mòn kéo dài ngang qua sườn núi Thardûr, trèo lên cao

hơn bao giờ hết bên trên lòng thung lũng. Những người lùn cố điều khiển những con

ngựa nhanh nhất có thể mà không làm chúng bị đau, nhưng tốc độ của chúng vẫn là rất

nhỏ so với Eragon nếu nó được chạy thoải mái. Dù phát nản, Eragon vẫn không phàn nàn

gì, vì nó nhận ra ngoài thần tiên và Kull, nó không thể tránh được việc phải đi chậm lại

với tất cả các sinh vật khác.

Nó rùng mình và kéo cái áo khoác vào sát hơn. Mặt trời vẫn chưa xuất hiện trên rặng

Beor, và một cái lạnh ẩm ướt lan tỏa khắp thung lũng, cho dù chỉ còn vài giờ nữa là đến

giữa trưa.

Rồi họ lên đến một dải đá hoa cương bằng phẳng rộng hơn ba trăm thước, viền bên

phải tiếp giáp với một vách nghiêng của những cái cột đá thiên tạo hình bát giác. Màn

sương mù lay động che khuất đầu kia của dải đá.

Orik đưa một tay lên nói, “Nhìn đi, Az Knurldrâthn đó.”

Eragon cau mày. Chăm chú hết sức, nhưng nó không nhìn ra cái gì đáng chú ý ở nơi

cằn cỗi đó. “Tôi không thấy rừng đá nào cả.”

Trèo xuống ngựa, Orik đưa dây cương cho một người lính đằng sau và nói, “Đi bộ với

tôi nếu cậu không phiền, Eragon.”

Cùng nhau họ bước về phía đám sương mù xoáy cuộn, Eragon thu ngắn bước chân

cho ngang với Orik. Sương mù lướt qua mặt Eragon, mát lạnh và ẩm ướt. Hơi nước trở

nên dày đặc đến mức che khuất toàn bộ phần thung lũng còn lại, bao bọc chúng trong

một khung cảnh màu xám buồn tẻ, ở đó mọi chỗ đều y hệt nhau chẳng có gì phân biệt.

Không e dè, Orik bước tới với dáng đi tự tin. Eragon, tuy vậy, cảm thấy mất phương

hướng và hơi lảo đảo, và nó đi với một tay đưa ra trước mặt, đề phòng trường hợp húc

phải bất cứ thứ gì ẩn nấp sau làn sương mù.

Orik dừng lại ở rìa một vết nứt mảnh làm hư hại bề mặt đá hoa cương mà họ đang

đứng ở trên và nói, “Giờ cậu thấy gì?”

Nheo mắt, Eragon đảo nhìn tới lui, nhưng sương mù vẫn có vẻ đơn điệu như trước. Nó

mở miệng định nói nhưng rồi để ý thấy một điểm hơi khác biệt trong màn sương về phía

bên phải, một khuôn mẫu mờ nhạt của ánh sáng và bóng tối vẫn giữ nguyên dạng ngay cả

khi sương mù trôi qua. Nó chợt nhận ra những vùng khác nữa cũng tĩnh tại: những mảng

tương phản lạ thường và trừu tượng, không tạo thành thứ gì có thể nhận ra được cả.

304

“Tôi không…,” nó bắt đầu nói khi một cơn gió nhẹ làm lay động tóc nó. Dưới sự



khích lệ nhẹ nhàng của làn gió, sương mù mỏng đi và những kết cấu rời rạc của bóng tối

tan ra tạo thành thân của những cái cây lớn màu tro với những cành nhánh trần trụi và nứt

vỡ. Hàng tá những cái cây như thế vây bọc nó và Orik, những bộ xương nhợt nhạt của

một khu rừng cổ xưa. Eragon ấn lòng bàn tay lên một thân cây. Vỏ cây lạnh và cứng như

đá cuội. Những mảng địa y xanh xao bám lấy bề mặt cái cây. Eragon thấy gai gai phía

sau gáy. Dù nó không cho là mình mê tín quá mức, nhưng màn sương ma quái và thứ ánh

sáng chập chờn kỳ dị và bề ngoài của chính những cái cây – dữ dằn, xúi quẩy và huyền bí

– kích phát một tia sợ hãi trong nó.

Nó liếm môi và hỏi, “Làm sao lại thành ra thế này?”

Orik nhún vai. “Vài người cho rằng Gûntera đã đặt chúng ở đây khi người sáng tạo ra

Alagaësia từ cõi hư không. Một số khác lại cho là Helzvog đã tạo ra chúng, vì đá là

nguyên tố ưa thích của ngài, và chẳng lẽ vị thần của đá lại không có những cái cây bằng

đá trong vườn của mình? Vẫn có những người khác nói không phải, rằng những cái cây

này đã từng giống như bao cây cối khác, nhưng một thảm họa ghê gớm từ xa xưa đã chôn

vùi chúng vào lòng đất, và trải qua thời gian, gỗ biến thành đất, và đất biến thành đá.”

“Lẽ nào lại như thế?”

“Chỉ có chúa mới biết chắc. Còn ai khác ngoài họ có thể hy vọng hiểu được những

điều tại sao hay thế nào của vạn vật?” Orik dời chỗ. “Tổ tiên của chúng tôi đã tìm ra

những cái cây đầu tiên trong khi đang khai thác đá hoa cương ở đây, hơn ngàn năm trước

rồi. Hvalmar Lackhand, sau này trở thành grimstborith của Dûrgrimst Ingeitum, đã ngừng

việc khai thác và bảo những thợ xây của mình đục những cái cây ra khỏi đá bao xung

quanh. Khi họ đã tách ra được gần năm chục cây, Hvalmar nhận ra có thể có hàng trăm,

hoặc hàng ngàn những cái cây đá bị chôn vùi trong sườn Núi Thardûr, cho nên ông ta ra

lệnh cho người của mình ngừng công việc lại. Nơi này, tuy vậy, đã thu hút trí tưởng

tượng của chủng tộc chúng tôi và kể từ đó, knurlan từ mọi tộc đã tới đây và lao động để

tách thêm nhiều cây khác ra khỏi lớp đá hoa cương. Thậm chí có những knurlan đã cống

hiến cả đời cho công tác này. Việc gửi mấy đứa con cháu quậy phá xuống đây đục ra một

hay hai cái cây dưới sự giám sát của một thợ cả cũng đã trở thành truyền thống rồi.”

“Nghe tẻ nhạt quá.”

“Việc đó cho chúng thời gian để ăn năn về lề thói của mình.” Dùng một tay, Orik vuốt

ve bộ râu bện của mình. “Chính tôi đã phải tiêu vài tháng ở đây hồi tôi còn là một thằng

cứng đầu cứng cổ ở tuổi bốn mươi ba.”

“Thế ông có ăn năn về lề thói của mình không?”

“Eta. Không. Nó quá là… tẻ nhạt. Sau tất cả những tuần đó, tôi chỉ lôi ra được một cái

cành từ phần đá hoa cương, cho nên tôi bỏ trốn và tình cờ gặp một nhóm Vrenshrrgn –”

“Những người lùn của tộc Vrenshrrgn?”

“Đúng, knurlagn của tộc Vreshrrgn, Sói Chiến, Sói Chiến tranh, hay bất cứ từ gì cậu

có thể dùng trong ngôn ngữ này. Tôi tình cờ gặp họ, rồi say sưa bia rượu, và khi họ đi săn

Nagran, tôi quyết định mình cũng nên giết một con lợn rừng và mang đến cho Vua

Hrothgar để làm nguôi cơn giận của ngài đối với tôi. Đó không phải điều khôn ngoan

nhất tôi đã làm. Kể cả những chiến binh lão luyện nhất cũng ngại săn Nagran, mà tôi vẫn

305


còn giống thiếu niên hơn là đàn ông. Khi đã thấu hiểu, tôi nguyền rủa sự ngu ngốc của

bản thân, nhưng tôi đã thề là tôi sẽ làm, nên tôi không còn lựa chọn nào khác hơn là thực

hiện lời thề.”

Khi Orik ngừng, Eragon hỏi, “Chuyện gì đã xảy ra?”

“À, tôi giết một con Nagra, với giúp đỡ từ Vrenshrrgn, nhưng con lợn rừng đã húc vào

vai tôi và tung tôi lên cành một cây gần đó. Nhóm Vrenshrrgn đã phải vác cả hai, con

Nagra và tôi, về lại Hang Bregan. Nhà vua hài lòng vì con lợn rừng, và tôi… tôi, cho dù

được những người trị thương giỏi nhất chăm sóc, vẫn phải mất nguyên tháng tiếp theo

nằm trên giường, và Vua Hrothgar nói như thế là đủ để trừng phạt tôi vì tội trái lệnh

ngài.”


Eragon quan sát ông lùn một lát. “Ông rất nhớ ngài.”

Orik đứng yên một thoáng, cằm tựa lên bộ ngực chắc nịch. Nâng cây búa của mình

lên, ông đập cái cán vào mặt đá hoa cương, tạo ra một tiếng cách sắc nét vang vọng giữa

rừng cây. “Đã gần hai thế kỷ kể từ khi dûrgrimstvren cuối cùng – cuộc chiến thị tộc cuối

cùng – tàn phá đất nước chúng tôi, Eragon à. Nhưng trước bộ râu đen của Morgothal,

chúng ta đang phải đối mặt với một cuộc chiến mới.”

“Ngay lúc này ư?” Eragon kêu lên, thất kinh. “Tệ đến thế thật sao?”

Orik cau có. “Tệ hơn rồi. Tình trạng căng thẳng giữa các bộ tộc đang mạnh hơn lúc

nào hết trong ký ức của bất cứ ai. Cái chết của Vua Hrothgar và sự xâm lấn Đế quốc của

Nasuada đã làm khuấy động sự phẫn nộ, làm trầm trọng hơn những đối nghịch cũ, và

càng thúc đẩy mạnh những kẻ vẫn tin rằng chia sẻ số mệnh với Varden là điên rồ.”

“Làm sao họ lại tin như thế khi mà Galbatorix đã tấn công Tronjheim bằng đám

Urgals?”

“Bởi rằng,” Orik nói, “họ đã tin là không thể đánh bại được Galbatorix, và những vụ

tranh cãi của họ gây ảnh hưởng nhiều đến người của chúng tôi. Thành thật với tôi nào,

Eragon, nếu Galbatorix đương đầu với cậu và Saphira ngay lúc này, hai vị có thể thắng

được hắn không?”

Eragon nghẹn họng. “Không.”

“Tôi nghĩ là không. Những người phản đối Varden đã mù quáng trước sự đe dọa của

Galbatorix. Họ nói rằng nếu chúng tôi từ chối che chở cho Varden, nếu chúng tôi không

chấp nhận cậu và Saphira vào Tronjheim, thì Galbatorix đã không có lý do gì để gây

chiến với chúng tôi. Họ nói rằng nếu chúng tôi cứ lo cho bản thân và cứ ẩn trốn trong

những hang động và đường hầm, chúng tôi sẽ không phải sợ Galbatorix nữa. Họ không

nhận ra rằng cơn khát quyền lực của Galbatorix là không đáy và rằng hắn sẽ không

ngừng lại cho đến khi nào toàn thể Alagaësia nằm dưới chân hắn.” Orik lắc đầu, cơ bắp

trên cẳng tay ông cuộn lên và rắn lại khi ông nắm chặt cây rìu. “Tôi sẽ không cho phép

chủng tộc tôi co rúm trong hang như những con thỏ đế cho đến khi con sói bên ngoài đào

đường vào và xơi tái tất cả. Chúng ta phải tiếp tục tranh đấu với hy vọng rằng bằng cách

nào đó chúng ta tìm ra được một cách để giết Galbatorix. Và tôi sẽ không để cho đất

nước bị tan rã vì chiến tranh thị tộc. Với hoàn cảnh như hiện giờ, một dûrgrimstvren khác

sẽ hủy diệt nền văn minh của chúng ta và có lẽ sẽ nhấn chìm Varden luôn.” Hàm rắn lại,

Orik quay sang Eragon. “Vì sự tốt đẹp cho người của chúng ta, tôi dự định sẽ giành lấy

306

ngôi vua. Dûrgrimstn Gedthrall, Ledwonnû, và Nagra đã cam kết sẽ ủng hộ tôi. Tuy



nhiên có quá nhiều người đứng giữa tôi và vương miện; sẽ không dễ gì gom đủ phiếu để

trở thành vua. Tôi cần phải biết, Eragon à, cậu sẽ ủng hộ tôi trong chuyện này chứ?”

Khoanh tay lại, Eragon bước từ cây này đến cây kế tiếp rồi lại quay lại. “Nếu tôi làm

vậy, sự ủng hộ của tôi có thể sẽ làm các tộc khác chống lại ông. Không chỉ bởi ông sẽ

phải yêu cầu mọi người trở thành đồng minh với Varden, mà ông còn phải yêu cầu họ

chấp nhận một Kỵ sĩ Rồng như một thành viên trong số họ, họ chưa bao giờ làm điều này

trước đây và tôi không tin bây giờ họ lại muốn làm thế.”

“Đúng, điều đó có thể khiến một số chống lại tôi,” Orik nói, “nhưng cũng có thể giúp

tôi thu được phiếu bầu của số khác. Điều đó cứ để cho tôi phân xử. Tất cả những gì tôi

muốn biết chỉ là, cậu sẽ ủng hộ tôi chứ? …Eragon, sao cậu do dự?”

Eragon nhìn chăm chăm một cái mấu rễ cây nhô ra từ mặt đá hoa cương dưới chân nó,

tránh ánh mắt Orik. “Ông lo lắng về những gì tốt đẹp cho người của ông, đúng là phải

như vậy. Nhưng mối lo của tôi rộng hơn thế; chúng chứa đựng những gì tốt đẹp cho cả

Varden và thần tiên và bất cứ ai chống lại Galbatorix. Nếu… nếu ông không chắc giành

được vương miện, và có một tộc trưởng khác có khả năng, và người đó không có ác cảm

với Varden –”

“Không tộc trưởng nào có thiện cảm với Varden hơn tôi được nữa!”

“Tôi không chất vấn tình bằng hữu của ông,” Eragon phản kháng. “Nhưng nếu những

gì tôi nói xảy ra và vì những gì tốt đẹp cho toàn phần còn lại của Alagaësia, chẳng lẽ tôi

không nên ủng hộ người lùn nào có cơ hội thành công lớn nhất sao?”

Bằng giọng trầm chết người, Orik nói, “Cậu đã thề lời huyết-thệ trước Tim của Đá,

Eragon à. Xét theo mọi điều luật trong vương quốc, cậu là một tộc viên của Dûrgrimst

Ingeitum, cho dù những kẻ khác có phản đối dữ dội đến đâu. Việc Vua Hrothgar nhận

cậu vào tộc là chưa từng có tiền lệ trong toàn bộ sử sách, và điều đó không thể bị tháo bỏ

trừ khi, với tư cách grimstborith, tôi khai trừ cậu khỏi tộc. Nếu cậu quay lưng lại tôi,

Eragon à, cậu sẽ làm ô danh tôi trước toàn thể giống loài tôi và không ai có thể tin vào sự

lãnh đạo của tôi được nữa. Hơn thế, cậu sẽ chứng tỏ cho những kẻ gièm pha cậu rằng

chúng tôi không thể tin tưởng một Kỵ sĩ Rồng. Các tộc viên không phản bội lẫn nhau vì

ngoại tộc, Eragon ạ. Sẽ không xong đâu, không xong, trừ khi cậu muốn tỉnh dậy trong

đêm với một con dao găm cắm vào tim cậu.”

“Ông đang đe dọa tôi?” Eragon hỏi, cũng bằng giọng lặng lẽ tương tự.

Orik chửi thề và đập cái rìu vào đá hoa cương lần nữa. “Không! Tôi sẽ không bao giờ

giơ tay chống lại cậu, Eragon! Cậu là nghĩa đệ của tôi, cậu là Kỵ sĩ duy nhất tự do ngoài

vòng kiềm tỏa của Galbatorix, và quỷ tha ma bắt tôi nếu tôi không thấy quý mến cậu sau

những chuyến ta đi cùng nhau. Nhưng kể cả tôi không làm hại cậu, như thế không có

nghĩa là toàn thể tộc Ingeitum cũng sẽ nhẫn nại như thế. Tôi nói vậy không phải như một

lời hăm dọa mà như một phát biểu chân thật. Cậu phải hiểu điều này, Eragon à. Nếu bộ

tộc nghe được cậu ủng hộ tộc khác, chắc tôi sẽ không thể kiềm chế họ được đâu. Cho dù

cậu là khách của chúng tôi và luật hiếu khách bảo vệ cậu, nhưng nếu cậu tuyên bố chống

lại Ingeitum, cả tộc sẽ coi cậu như một kẻ phản bội, và tục lệ của chúng tôi sẽ không cho

phép kẻ phản bội đứng trong hàng ngũ mình. Cậu hiểu tôi không, Eragon?”

307


“Ông trông đợi gì ở tôi?” Eragon hét lên. Nó vung tay ra và bước tới lui trước mặt

Orik. “Tôi cũng đã thề với Nasuada, và đó là lệnh cô ta đưa ra cho tôi.”

“Và cậu cũng đã nguyện trung thành với Dûrgrimst Ingeitum!” Orik rống lên.

Eragon ngừng lại, nhìn chằm chằm ông lùn. “Ông sẽ buộc tôi đày đọa toàn bộ

Alagaësia chỉ để ông có thể duy trì chỗ đứng của mình giữa các tộc?”

“Đừng lăng mạ tôi!”

“Vậy thì đừng yêu cầu điều không thể ở tôi! Tôi sẽ hậu thuẫn ông nếu ông có khả

năng bước lên ngôi báu, còn nếu không, thì tôi sẽ không. Ông lo lắng cho Dûrgrimst

Ingeitum và cả chủng tộc của ông nói chung, trong khi trách nhiệm của tôi là lo lắng cho

họ và cả toàn thể Alagaësia.” Eragon ngồi sụp xuống, tựa vào một thân cây lạnh lẽo. “Và

tôi lại không thể làm mếch lòng ông và tộc của ông – ý tôi là, của chúng ta – cũng như cả

vương quốc người lùn.”

Bằng giọng hòa nhã hơn, Orik nói, “Có một cách khác, Eragon ạ. Sẽ khó khăn hơn cho

cậu, nhưng sẽ giải quyết được tình thế khó xử của cậu.”

“Sao? Giải pháp xuất sắc nào thế?”

Đẩy cái rìu vào đai lưng, Orik bước tới chỗ Eragon, nắm lấy cẳng tay nó, và ngước

nhìn nó qua đôi lông mày rậm. “Hãy tin tưởng tôi đang làm điều đúng đắn, Eragon Khắctinh-

của-Tà-thần. Hãy cho tôi lòng trung thành như là cậu thực sự được sinh ra trong

Dûrgrimst Ingeitum. Những người dưới tôi không bao giờ dám liều tuyên bố chống lại

chính tộc trưởng của mình để ủng hộ ngoại tộc. Nếu một grimstborith đánh nhầm tảng đá,

đó sẽ là trách nhiệm của một mình ông ta, nhưng như thế không có nghĩa là tôi không

thấy được những băn khoăn của cậu.” Ông nhìn xuống một lát, rồi nói, “Nếu tôi không

thể làm vua, hãy tin rằng tôi không quá mù quáng vì quyền lực trước mắt đến nỗi không

nhận ra được nỗ lực của mình đã thất bại. Nếu điều đó xảy ra – không phải tôi tin nó sẽ

xảy ra – thì tôi sẽ tự nguyện ủng hộ cho một ứng viên khác, vì tôi cũng như cậu, không hề

muốn thấy một grimstnzborith thù địch với Varden lên ngôi. Và nếu tôi phải giúp tiến cử

một ai khác lên ngôi, thì địa vị và uy tín mà tôi giao cho tộc trưởng đó sẽ tự nhiên bao

hàm cả của cậu, vì cậu thuộc Ingeitum. Cậu có tin tưởng tôi không, Eragon? Cậu sẽ chấp

nhận tôi như grimstborith của cậu chứ, như mọi thần dân đã tuyên thệ của tôi?”

Eragon rên rỉ và tựa đầu vào cái cây thô ráp, ngước nhìn những cành cây vặn vẹo trắng

như xương bị sương mù bao bọc. Tin tưởng. Trong tất cả mọi thứ, Orik đã yêu cầu ở nó

thứ khó đưa ra nhất. Eragon thích Orik, nhưng tự đặt mình xuống dưới uy thế của ông lùn

trong khi quá nhiều điều đang lâm nguy như vậy sẽ càng làm giảm tự do của nó, và nó rất

miễn cưỡng với viễn cảnh đó. Và cùng với tự do của nó, nó cũng sẽ làm giảm phần trách

nhiệm của nó đối với số mệnh của Alagaësia. Eragon cảm thấy như thể nó đang bị treo

trên mép một vách đá và Orik đang cố thuyết phục nó rằng có một gờ đá ở dưới chỉ cách

chân nó có một thước, nhưng Eragon không thể bắt mình buông tay được, vì sợ rằng

mình sẽ ngã vào sự diệt vong.

308

Nó nói, “Tôi sẽ không làm một bầy tôi thiếu suy nghĩ cho ông sai bảo này nọ đâu. Nếu



là vấn đề Dûrgrimst Ingeitum, tôi sẽ theo ý ông, nhưng trong mọi vấn đề khác, ông sẽ

không thể tác động gì lên tôi đâu.”

Orik gật đầu, mặt nghiêm nghị. “Tôi không lo lắng về nhiệm vụ mà Nasuada giao cho

cậu, cũng như cậu sẽ giết những ai trong khi đánh lại Đế quốc. Không, điều làm tôi mất

ngủ, trong khi lẽ ra tôi phải ngáy như Arghen trong hang của mình, chính là tưởng tượng

ra cậu cố gắng tác động lên việc bầu chọn của hội đồng thị tộc. Ý định của cậu là cao

thượng, tôi biết, nhưng dù cao thượng hay không, cậu cũng không quen với chính trị của

chúng tôi, cho dù Nasuada đã giảng giải cho cậu kỹ đến đâu. Đây là lãnh vực chuyên

môn của tôi, Eragon ạ. Cứ để tôi kiểm soát theo cách mà tôi cho là thích đáng. Đó là điều

mà Vua Hrothgar đã chuẩn bị cho tôi trong suốt cuộc đời tôi.”

Eragon thở dài, và với cảm giác đang bị rơi, nó nói, “Được rồi. Tôi sẽ làm theo cách

mà ông cho là tốt nhất trong việc nối ngôi, Grimstborith Orik.”

Một nụ cười nở rộng trên mặt Orik. Ông siết chặt tay Eragon hơn, rồi buông ra và nói,

“A, cảm ơn cậu, Eragon. Cậu không biết điều đó có ý nghĩa thế nào đối với tôi đâu. Cậu

thật là tốt, rất tốt, và tôi sẽ không quên điều đó, cho dù tôi có sống đến hai trăm tuổi và

râu mọc dài đến mức kéo lê trên đất.”

Phớt lờ chính mình, Eragon tủm tỉm cười. “Ừ, tôi hy vọng nó không mọc dài đến thế.

Ông sẽ quàng chân vào đó liên tục mất!”

“Điều đó thì có lẽ,” Orik vừa nói vừa cười. “Với lại, tôi thì nghĩ là Hvedra sẽ cắt ngắn

nó đi một khi nó dài đến đầu gối tôi. Cô ấy có lập trường rõ ràng về độ dài thích hợp của

một bộ râu.”

Orik dẫn đường khi hai người rời khỏi khu rừng đá, bước xuyên qua màn sương không

màu xoáy cuộn giữa những thân cây bị vôi hóa. Họ nhập bọn với mười hai người lính của

Orik, rồi bắt đầu đi xuống sườn núi Thardûr. Dưới lòng thung lũng, họ tiếp tục đi thẳng

sang sườn phía bên kia, và tại đó những người lùn đưa Eragon đến một đường hầm được

che giấu rất khéo léo dưới bề mặt đá, nó sẽ chẳng bao giờ tự mình tìm ra được lối vào.

Eragon có phần tiếc rẻ vì bỏ lại sau lưng ánh mặt trời nhợt nhạt và khí núi trong lành

để đổi lấy bóng tối của đường hầm. Hành lang rộng hai thước rưỡi và cao gần hai thước –

hơi thấp so với Eragon – và giống như những đường hầm khác của người lùn mà nó đã

vào, đường hầm này thẳng như một mũi tên theo như nó có thể thấy. Nó ngoái lại nhìn

qua vai vừa đúng lúc thấy ông lùn Farr đóng lại phiến đá hoa cương có bản lề, có chức

năng như cánh cửa đường hầm, nhấn chìm cả đám vào bóng tối. Một lát sau, mười bốn

quả cầu rực rỡ đủ màu xuất hiện khi những người lùn lấy những cái đèn lồng không lửa

ra khỏi túi yên của họ. Orik trao một cái cho Eragon.

Rồi họ bắt đầu tiến về phía trước, bên dưới chân những ngọn núi, và móng ngựa làm

vang vọng trong đường hầm những tiếng lách cách, nghe như những hồn ma giận dữ

đang quát vào họ. Eragon nhăn nhó, biết rằng họ sẽ phải nghe những tiếng ầm ĩ này suốt

cả chặng đường đến Farthen Dûr, vì đó là nơi mà đường hầm kết thúc, cách đó rất nhiều

dặm. Nó khom hai vai và siết chặt quai túi và ước rằng nó đang ở cùng Saphira, bay bổng

thật cao bên trên mặt đất.

309



tải về 4.77 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   16   17   18   19   20   21   22   23   ...   36




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương