TÌm hiểu pháp thần thông trong phật giáO



tải về 1.59 Mb.
trang42/43
Chuyển đổi dữ liệu02.09.2016
Kích1.59 Mb.
#30821
1   ...   35   36   37   38   39   40   41   42   43

Trưởng Lão Khāṇukoṇḍañña


 Thường có thói quen rút vào nhập thiền định gọi là Thiền Chứng (samāpatti). Thế rồi một đêm nọ đã xảy ra một sự kiện, khi Trưởng Lão đang mải mê nhập Thiền Chứng (samāpatti) như thường lệ, có một bọn cướp (thực tế gồm tới 500 tên) 19 đội trên đầu rất nhiều của cải cướp được, đi đến một địa điểm đã ấn định. Nhận thấy đã đi khá xa địa điểm gây án, bọn cướp suy nghĩ có lẽ đã được an toàn và muốn nghỉ ngơi đôi chút. Nhìn thấy vị Trưởng Lão trong bóng tối, chúng tưởng lầm ngài là một gốc cây, vì vậy cả bọn chất đống toàn bộ chiến lợi phẩm cướp được lên đầu Trưởng Lão, một khối lượng xem ra rất nặng. Sau khi đã nghỉ ngơi một thời gian khá lâu, bọn chúng đồng ý lên đường và cả bọn đã lấy toàn bộ số đồ cướp được khỏi vị Trưởng Lão, mà họ cứ tưởng là một vật vô tri vô giác gì đó. Đến lúc này, khi bọn chúng vừa định lấy đi của cướp được cuối cùng chúng vứt bỏ lên đầu ngài trước đó, thì chính xác lúc đó trưởng lão quyết định xuất khỏi Thiền Chứng (samāpatti). Nhìn thấy “gốc cây” động đậy. Bọn chúng vô cùng khiếp sợ, cứ tưởng là ma hiện hình. Và thốt lên những lời hết sức hoảng hốt. Nghe thấy vậy, Trưởng Lão liền nói với bọn chúng., “Đừng sợ, những người anh em, tôi là một vị tỳ khưu” với những lời đầy an ủi đó, bọn cướp mới bớt sợ và hoàn hồn, nhưng lại hết sức kinh ngạc do sức mạnh che chở của ngài. Bọn cướp hết sức ấn tượng và xin được nhận thọ Đại Giới, sau đó cả bọn đều đạt đến Bậc A-la-hán cùng với Tứ Vô Ngại Giải (paṭisambhidā) 

Điều trên đây cho thấy Sức Mạnh Bảo Vệ Thiền Chứng (samāpatti) đã giữ cho ngài khỏi bị hại cho dù biết bao nhiêu vật nặng chất đống lên đầu ngài. Đây là bài tường thuật ngắn tìm thấy trong Thanh Tịnh Đạo (Visuddhimagga) (2/210). Nhiều chi tiết khác có thể tham khảo trong đoạn bốn tác phẩm Pháp Cú Kinh (Dhammapada) trang 128.

---o0o---

Bà Uttarā Và Sức Mạnh Bảo Vệ Thiền Định Bà


Những nữ thinh văn thường gọi Uttara là con gái của nhà triệu phú tên là Puṇṇa, Bà là vợ của một người triệu phú con trai của Sumana sống tại thành phố Rājagaha. Bà mong muốn sống trong riêng tư để nàng có thể cống hiến nhiều thời gian hơn vào việc thực hiện nhiều việc công đức, nàng đã thuê một người gái điếm tên là Sirimā để thay mình phục vụ cho chồng bà. Điều này được thực hiện trong một thời gian cho đến khi Sirimā người gái điếm được thuê trở nên ghen tuông với bà Uttarā và muốn trở thành bà chủ trong gia đình. Một ngày kia nàng đã đổ nguyên một bình nước nóng đang sôi lên đầu Uttarā , lúc bà vừa mới rút vào nhập thiền định và tỏ lòng từ tâm với Sirimā . Nhờ sức mạnh bảo vệ của thiền định, bình nước nóng đang sôi đã trở thành nước lạnh và làm mát giống như những giọt nước rơi từ trên chiếc lá sen khi đụng phải đầu Uttarā. Chính vì thế, đây là một ví dụ điển hình khác nữa minh chứng cho sức mạnh Thiền Định trong lãnh vực này. Đây chính là phép Thiền định Vipphāra dành cho bà Uttarā 

Chi tiết của câu chuyện trên có thể tìm thấy trong đoạn thứ sáu trong Pháp Cú Kinh (Dhammapada) trang 165

Chuyện kể về cuộc đời của bà Uttarā

Trong thành phố Rājagaha có một nhà triệu phú tên là Sumana. Cha của bà Uttarā tên là Puṇṇa, là một người rất nghèo chỉ là một trong số những người đầy tớ của Sumana. Trong nhà của người triệu phú có ba người đầy tớ tên là Punna, vợ của ông và con gái của hai người là Uttarā .

Một ngày kia nhà vua xuống chỉ yêu cầu toàn dân phải ngừng sản xuất để tham dự lễ hội kéo dài bảy ngày. Nghe chiếu chỉ của nhà vua, Sumana nói với Puṇṇa, nàng hỏi ông xem hai người có thể tham gia lễ hội với những người khác hay không hay ông chỉ muốn đi làm thuê. Puṇṇa trả lời theo Lễ hội chỉ đem hiệu quả tốt cho những người giàu có, trong khi đó chính ông phải lo chạy ăn từng bữa, chính vì thế ông muốn có vài con bò để đi cầy còn hơn là đi tham gia lễ hội. Nghe thấy vậy Sumana liền cho Puṇṇa một cặp bò khoẻ mạnh để ông đi cầy ruộng, trước khi ra đồng đi cấy Puṇṇa đã nói với vợ sửa soạn đồ ăn cho ông gấp hai lần bình thường và rồi đem ra đồng cho ông. Nói đoạn ông đi đồng cấy ruộng

---o0o---



Trưởng Lão Xá-Lợi Phất đến trợ giúp Puṇṇa

Vào thời điểm đó sau khi đã rút vào nhập thiền Diệt Thiền Chứng (Nirodha samāpatti) trong bảy ngày, Trưởng Lão Xá-Lợi Phất (Sārīputta) đã xuất thiền và dùng phép Nhãn Thông nhìn thấy Puñña thông qua thiên nhãn, ngài suy nghĩ thêm một chút và nhìn thấy Puñña đã được đầy đủ đức tin và đã được ban cho khá nhiều của cải qua thực hiện bố thí cho ngài (tức là cho vị Trưởng Lão)

Biết vậy Trưởng Lão liền mặc y cà sa và lấy bát khất thực rồi tiến ra nơi Puṇṇa đang đến để cầy ruộng. Ngài đứng đợi người nghèo khổ đó gần một bụi cây sát ngay bên một chiếc hồ. Nhìn thầy trưởng lão đứng đó, Puṇṇa liền tiến lại gần, bỏ cầy xuống và thụp lạy trước mặt ngài và nhìn thấy Trưởng Lão đưa mắt về phía bụi cây, như thể Trưởng Lão muốn có được một ít cành cây để xỉa răng. Chính vì thế ông đã cắt một ít cành và dâng cho Trưởng Lão (vì ông biết một tỳ khưu không được phép chặt cây ngay chỉ một cành cây hoặc một nhánh cây con.)

Rồi sau đó Trưởng Lão lấy ra trong bát khất thực một miếng vải dùng để lọc nước và đưa cho ông. Puịịa hiểu ngay Trưởng Lão muốn có ít nước để uống. Chính vì thế Trưởng Lão đã ra hiệu cho ông hiểu như thế.

Rồi Trưởng Lão suy nghĩ, nếu ngài có thể đi đến nhà người nghèo ngài có thể nhờ bà vợ của người đó để bà không thể tránh không gặp được ngài. Khi qua phép nhãn thông Trưởng Lão nhìn thấy vợ của người nghèo đã đi ra ngoài, ngài liền chờ bà ta trên đường đi.

Vợ của Puṇṇa dâng của Bố Thí cho Trưởng Lão Sārīputta

Trên đường mang đồ ăn cho chồng, bà đã nhìn thấy Trưởng Lão, Vợ của Puṇṇa suy nghĩ trong lòng, trước kia đôi khi nàng đã có dịp làm việc thiện nhưng lại không gặp được Trưởng Lão; rồi lúc nàng gặp được các Trưởng Lão, nhưng lại chẳng có gì để dâng cho ngài. Nhưng lần này tình cờ gặp Trưởng Lão và có chút đồ để dâng cho ngài, nàng bắt đầu suy tính: “Có lẽ Trưởng Lão muốn nhận đồ dâng cúng hèn mọn của mình chăng.” Nàng đến quì trước Trưởng Lão và nói, “Mong rằng ngài Trưởng Lão không coi đây là của bố thí thô thiển hay hoàn thiện, mong rằng ngài chấp nhận của bố thí này từ tay kẻ nô lệ của ngài”

Trưởng Lão Xá-Lợi Phất (Sārīputta) giơ bát khất thực ra, nhưng khi nàng đã dâng cho ngài một nửa số đồ ăn, ngài liền lấy tay che tô khất thực lại như ra dấu nói với nàng là đủ rồi, vợ của Puṇṇa thấy thế liền nói với ngài Trưởng Lão, “Kính ngài Trưởng Lão, tôi không muốn lượng đồ ăn này được chia làm hai đâu, ngài có thể không chúc lành cho kẻ nô lệ này trên đời này. Nhưng xin ngài hãy chúc lành cho nó nơi cuộc sống mai hậu” Nói đoạn, nàng thấy bát khất thực lại mở ra một lần nữa, rồi nàng đã đổ hết số đồ ăn nàng đã sửa soạn cho chồng nàng vào bát khất thực của ngài trưởng lão, đồng thời thực hiện lời ước, nói rằng, “Mong rằng tôi được thông phần vào Phật pháp của ngài đã thể hiện được.”

Trưởng Lão lên tiếng “Mong rằng được như vậy” và khi còn đứng đó ngài đã nói lên lời khen ngợi của bố thí của nàng, sau đó ngài đi đến chỗ có nước và dùng bữa.

Vợ của Puṇṇa trở về nhà và lại sửa soạn bữa ăn cho chồng lần thứ hai, lúc này chồng nàng đã cảm thấy cơn đói giằn vặt. Nghĩ rằng chàng không thể chịu đựng được hơn nữa. chàng tháo bò ra khỏi cày và nằm nghỉ dưới bóng cây gần đó. Nhìn về phía mà chàng biết là nàng sẽ đến gặp chàng.

Vào lúc đó vợ của Puṇṇa, với số đồ ăn đã sửa soạn, nhìn thấy chàng đang ngồi chờ, liền nghĩ, “Chàng đang ngồi chờ ta với cơn đói giằn vặt dữ dội. Điều gì sẽ xảy ra nếu chàng la rầy vì sự chậm trễ của ta? chàng sẽ đánh ta với cây gậy thúc bò thì sao? Rồi lúc đó ta có phân bua điều gì cũng chỉ vô ích. Tốt hơn hết ta nói thật với chàng thì hơn” Nghĩ thế, nàng liền nói cho chàng biết: nàng rất vui mừng vì đã bố thí cho ngài Trưởng Lão và mong rằng điều nàng làm sẽ không trở thành vô ích. Rồi nàng tiếp tục nói, “Thực tế nàng đã sửa soạn đồ ăn cho chàng ngay từ buổi sáng, nhưng khi gặp Trưởng Lão Xá-Lợi Phật (Sārīputta) trên đường đưa cơm cho chàng, nàng đã quyết định dâng cho Trưởng Lão toàn bộ số đồ ăn đó và quay trở về nhà nấu đồ ăn khác cho chàng đây. Đó chính là lý do nàng đã chậm trễ. Nàng muốn chàng hãy vui mừng vì hành vi chậm trễ của nàng”.

Nghe thấy vậy, người chồng không tin nổi vào tai của mình và yêu cầu nàng nhắc lại một lần nữa. Sau khi đã kể câu chuyện bố thí cho vị Trưởng Lão một lần nữa, chàng nói với vợ, nàng đã làm một điều thật là tuyệt vời đến nhường nào; còn đối với chàng, chàng cũng đã dâng cho ngài một vài nhánh cây nhỏ để làm tăm sỉa răng cùng với một ít nước. Chuyện kể của vợ đã khiến cho chàng vô cùng sung sướng, nhưng vì phải nhịn đói trong một thời gian dài nên chàng mệt lả và nằm ngả vào lòng vợ và ngủ thiếp đi.

Việc bố thí của hai vợ chồng Puṇṇa đã đem lại kết quả ngay hôm đó

Vào sáng sớm hôm sau, toàn bộ vùng đất người nghèo khổ cầy ngày hôm trước đã trở thành vàng ròng hết. Ngay cả bụi đất cũng vậy, chất đống cao cả thước 20, trông giống như một đống hoa rất đẹp. Sau khi tỉnh giấc, chàng nhìn thấy toàn bộ cánh đồng của mình đã biến thành vàng, chàng liền nói với vợ trong kinh ngạc, “Tại sao anh nhìn thấy đất đã trở thành vàng? Có phải vì anh đã dùng bữa quá trễ khiến mắt hoa lên chăng?”

Nhưng vợ chàng trả lời nàng cũng đang nhìn thấy y hệt như chàng vậy. Puṇṇa đứng dậy và nhặt lên một cục vàng, chàng cho là phải là cục đất thì phải. Chàng đập vào tay cầm của cầy xem cục đất có vỡ tan ra từng mảnh không. Nhưng quả thật đó vẫn là cục vàng nguyên vẹn. Chàng nghĩ “Ôi thật tuyệt vời làm sao: việc bố thí của chúng ta cho Trưởng Lão Tướng Soái đã đem lại kết quả tốt. Nhưng làm sao chúng ta có thể giữ được số vàng to lớn này? Chàng lấy đầy một mâm vàng và đến xin được tiếp kiến hoàng thượng. Sau khi được phép triều yết, chàng quì lạy nhà vua và dâng cho ngài một mâm đầy vàng. Khi Đức vua hỏi sao chàng lại có nhiều vàng đến thế, để trả lời chàng kể lại làm thế nào khu đất chàng cầy ngay hôm trước đã biến thành vàng. Rồi chàng yêu cầu nhà vua sai quân lính thu gom số vàng đó đem về cung. Điều này xảy ra là vì cả chàng cùng với vợ đã dâng một ít đồ dùng và thức ăn cho Trưởng Lão Thống Soái của đoàn Phật Pháp.

Nghe thấy vậy nhà vua hết sức vui mừng, ngài vô cùng thấm thía và hỏi Puṇṇa xem chàng muốn làm gì với số vàng nhiều đến như vậy. Puṇṇa lên tiếng tâu đức vua, chàng muốn nhà vua ra lệnh cho quân lính đem xe ra và thu hết số vàng đó đem vào hoàng cung. Nhà vua làm y như lời chàng. Nhưng khi các vị cận thần đang thu lượm vàng chất lên xe, họ nói với nhau, “Đây là vàng của nhà vua.” Ngay tức khắc vàng đã biến thành đất. Không biết làm thế nào, họ chạy về báo cho nhà vua và tường trình công việc lại cho ngài nghe. Nhà vua nói ‘Đến nước này, các ngươi đã nói gì khi thu gom vàng chất lên xe?” họ bảo, “Chúng thần nói số vàng này thuộc về hoàng Thượng.” Nhà vua chỉ cho họ biết lỗi của họ, rồi bảo họ hãy quay trở lại và lượm vàng chết lên xe thì nói rằng, “Vàng này thuộc một người tên là Puṇṇa ”.

Họ làm y như vậy và tất cả đều diễn ra rất tốt đẹp. Họ quay trở lại hoàng cung với toàn bộ số vàng chất đống bên ngoài sân hoàng cung.

Puṇṇa được chỉ định làm nhà triệu phú thành phố

Nhà vua hạ chiếu cho toàn dân thu gom vàng về hoàng cung, rồi hỏi xem trong thành phố này họ biết ai sở hữu nhiều vàng bằng Puṇṇa hay không. Khi nghe họ trả lời phủ định. Nhà vua liền hỏi họ, “Thế các khanh nói cho trẫm biết phải ban tặng điều gì cho Puṇṇa đây?” Dân chúng trả lời trong trường hợp như vậy hoàng thượng nên ban tặng cho ông ấy một tước vị cao nhất trong hoàng cung. Nhà vua đồng ý và ban tặng cho Punna tước vị Bahudhana, tức là trưởng kho bạc (setthi), nhà triệu phú có nhiều tiền của. Hoàng thượng còn ban tặng cho ông một chiếc lọng hoàng gia cùng với nhiều châu báu khác. Đến đây người dân cày nghèo khổ mới thưa với hoàng thượng “Xưa rầy tôi vẫn ở nhờ nhà của người khác, mong rằng hoàng thượng ban cho tôi một nơi ở khác để sống về hướng nam hoàng cung”. Tại đó Đức vua đã ra lệnh xây cho chàng một toà biệt thự. Khi ngôi nhà hoàn tất, chàng đã ban của bố thí và các đồ dâng cúng khác cho Đức Phật và các vị tỳ khưu của ngài trong vòng bảy ngày. Đức Phật rất khen ngợi lòng từ bi của chàng và thuyết pháp cho chàng về Anupubbīkathā, có nghĩa là năm pháp tuần tự liên quan đến việc tiến bộ là quan trọng đến nhường nào. Sau đó Punna cùng với vợ và con gái là Uttarā đều đạt đến Quả Nhập Lưu.

Con Gái Puṇṇa cưới con trai Sumana làm chồng

Sau này nhà triệu phú Sumana (đã có thời làm thầy dạy cho Puṇṇa) liền hỏi con gái của Puṇṇa làm vợ cho con trai mình, nhưng Puṇṇa đã từ chối. Khi Sumana nhớ lại công chăm sóc của ông một thời đã dành cho ông.Puṇṇa trả lời, nói rằng, “Tôi đã dâng con gái mình cho Tam Bảo rồi, trong khi đó thì con trai của ngài lại đi theo một niềm tin khác, điều này chính là lý do tôi không thể gả con gái cho Sumana, con trai của ngài được.”

Tuy nhiên, sau này với lời khuyên răn và nhiều nhà triệu phú trong thành phố đã khuyên răn, tất cả đều thúc dục chàng đừng có cắt đứt liên lạc và phụ lòng tốt của Sumana. Trước lời khuyên của họ Puṇṇa đã đồng ý và gả con gái cho con trai Sumana vào ngày rằm tháng Rằm Tháng Bảy (Asālha) âm lịch.

Còn đối với Uttarā , con gái Puṇṇa, sau khi rời khỏi nhà cha mẹ đến sống với chồng, nàng đã hoàn toàn cắt đứt liên lạc với các tỳ khưu và tỳ khưu ni trong Phật giáo; và chỉ khi nào có cơ hội để bố thí và nghe thuyết pháp, nàng mới cơ hội gặp lại được họ. Sau khi đã dọn đến ở nhà chồng được hai tháng rưỡi, biết rằng chỉ còn nửa tháng nữa là mùa An Cư Kiết Hạ sẽ kết thúc, nàng đã gửi tin đến cho cha nàng, phàn nàn là tại sao cha lại giam tù nàng như vậy. Nàng nói, “Tốt hơn hết cha nên làm cho nàng xấu đi và tìm cách biến khuôn mặt của nàng trở thành dị dạng và để cho nàng hầu hạ người khác còn hơn để cho nàng ở trong gia đình một người theo tà kiến như vậy. Nàng cho biết, kể từ khi nàng dọn về nhà chồng, nàng chưa bao giờ có dịp làm điều công đức, ngay cả việc gặp gỡ với các vị tỳ khưu cũng chẳng được.

Tuy nhiên, Puṇṇa rất khó chịu khi nghe hoàn cảnh khổ sở của con gái mình, liền nghĩ cách làm sao để làm giảm nỗi thống khổ không đáng con gái mình đang phải gánh chịu. Ông sai đem đến cho con gái một món tiền trị giá 15.000 Kāhapaṇa, nói cho nàng là hãy thuê một gái điếm nổi tiếng tên là Sirimā để phục vụ cho chồng, để nàng có cơ hội tích lũy nhiều việc công đức trong Phật giáo.

Uttara đã thực hiện y như lời cha nói. Còn Sirimā cũng sẵn lòng đồng ý như vậy. Uttarā liền dẫn Sirimā đến cho chồng và cho chàng biết ý định của mình. Còn con trai Sumana, nhìn thấy Sirimā , một cô gái rất đẹp, đã sẵn lòng chấp nhận lời đề nghị đó.



Uttarā có cơ hội thực hiện các việc công đức

Với sự đồng ý của chồng nàng như vậy, Uttara sai người đi mời Đức Phật, nói rằng nàng mong muốn Đức Phật và các vị tỳ khưu đến cư ngụ nơi nhà nàng trong mười lăm ngày trước khi mùa An Cư Kiết Hạ kết thúc. Đức Phật đồng ý. Nghe biết điều đó đã khiến cho Uttarā hết sức vui mừng và từ thời gian đó trở đi nàng luôn bận bịu sửa soạn đồ ăn cho Đức Phật và các vị tỳ khưu của ngài.

Một ngày kia, chồng của Uttarā muốn biết vợ mình đang làm gì vào ngày Mahāpavāraṇā (tức là ngày cuối của ba tháng An cư Kiết hạ). Liền đứng ở cửa sổ và nhìn vào nhà bếp, chàng thấy vợ mình nhễ nhãi mồ hôi, than bụi bám đầy và lấm lem với than và bồ hóng chạy tới chạy lui ra lệnh cho các đầy tớ. Chàng nghĩ, vợ mình thật điên mất rồi. Với một gia tài to lớn đến như vậy mà lại lánh xa và còn vui vẻ đi hầu hạ cho mấy nhà sư. Lúc này còn bị lấm lem bồ hóng và bụi bậm như thế nữa.” Chàng cười toáng lên rồi bỏ đi.

 Lúc đó Sirimā đứng gần con trai của nhà triệu phú, rất ngạc nhiên thấy chàng đứng đó và cười rất tươi. Nàng nhìn thấy từ phía cửa sổ và nhìn thấy Uttarā, nhận ra điều gì làm cho chàng cười vui vẻ đến thế. Nàng đã nổi cơn ghen, vì từ hai tuần lễ được sống trong sự giàu sang huy hoàng của căn nhà này, nàng đã siêu lòng và quên mất nàng được thuê đến ở đó như là một tình nhân cho chồng nàng Uttarā. Nhưng lại bị cảnh giàu sang phú quí thôi miên và kết quả là nàng muốn trở thành bà chủ căn nhà này. Nàng đã nghĩ ra một kế hoạch làm cho Uttarā đau khổ.

Rời khỏi chỗ đang đứng, nàng xuống bếp và nhìn thấy có một nồi sữa đang sôi trên bếp. Sau đó nàng tiến thẳng đến Uttarā. Nhìn thấy con hầu tiến lại, nàng biết điều gì sẽ xẩy đến cho nàng, nhưng nàng đã tỏ lòng từ tâm ngay lập tức đối với Sirimā. Nghĩ rằng Sirimā lâu nay nàng hầu cho chồng mình đã làm điều tốt cho nàng. Như vậy một công việc mà cả vũ trụ đều vui mừng và cõi Phạm Thiên cũng trở nên vui mừng không gì sánh nổi, thông qua công việc của Sirimā nàng có cơ hội thực thi bố thí và nghe thuyết pháp. Chính vì vậy mà nàng hết sức vui mừng không cảm thấy sân hận điều gì cả. Còn Sirima, nàng đã dùng nguyên một nồi sữa sôi đổ lên đầu nàng vì muốn làm cho nàng bị phỏng nặng. Nhưng liệu nàng có suy nghĩ đó hay không, mong rằng nồi sữa sôi đó không khiến cho nàng có mảy may làm hại đến cho người khác. Với quyết tâm đó, thì lượng sữa sôi tưới lên đầu nàng đã biến thành những giọt nước lạnh làm cho nàng thêm tươi mát.

Nhìn thấy Uttarā không hề hấn gì, Sirimā nghĩ nồi sữa không đủ nóng, chính vì thế nàng quay lại bếp một lần nữa. Nhưng lần này thì những người bầy tôi của Uttara đã nhìn thấy những gì đã xảy ra trước đó, liền chạy lại với một người đàn ông. Hô toáng lên, “Biến đi, nhà ngươi không thể làm hại mẹ đỡ đầu của chúng ta được.” Bọn đầy tớ của Uttarā đã đánh gục Sirima nằm sóng soài trên sàn nhà. Cuối cùng chỉ đến lúc nàng Uttaraã có thể thuyết phục được đám đầy tớ thì họ mới dừng tay và nàng liền hỏi xem Sirimā , nàng đã gây ra những hành vi xấu xa như vậy với mục đích gì. Nhìn thấy Sirimā vẫn giữ thinh lặng, nàng truyền đem nước ấm tắm cho Sirima nước và xức loại dầu thơm hảo hạng cho nàng “khiến cho nàng được thanh tịnh cả trăm lần khá hơn.”



Sirimā xin lỗi Uttarā

Lòng nhân ái từ mẫu của Uttarā đã khiến cho Sirimā suy nghĩ lại. Nàng nhận ra mình chẳng là gì cả ngoại trừ chỉ là một người ngoài ‘được thuê để tạm thời chăm sóc cho chồng nàng Uttarā. Mình đã bất đồng thực hiện những hành vi sai quấy chống lại Uttarā, ngoài việc đã cứu nàng khỏi bọn đầy tớ hành hung đánh đập, lại vẫn còn tỏ ra hết sức khoan nhượng đối với nàng. Sirimā nghĩ trong tâm “Liệu tôi có nên xin lỗi nàng hay không?. Đầu tôi như thể tan ra từng mảnh” Nghĩ vậy nàng liền quì gối trước mặt Uttarā và nói” Hỡi người mẹ thánh thiện, mong rằng mẹ tha thứ cho tôi những gì tôi đã gây ra cho mẹ.”

Nghe nói vậy, Uttarā nói nàng còn có người cha và nếu cha nàng cũng tha cho nàng thì nàng rất hoan hỷ cũng làm như vậy. Vì không biết ai là người Uttarā muốn ám chỉ, khi nàng nói đến người cha của nàng, Sirimā nói nàng sẽ chạy lại gặp Puṇṇa người triệu phú ngay lập tức, vì ông là người cha của nàng và sẽ xin lỗi ngài. Nhưng Uttarā đã chỉnh nàng nói rằng, “Puṇṇa là cha ruột của tôi trong vòng luân hồi sinh tử. Điều này sẽ còn tồn lại nơi “cha tôi” trong cõi biến đổi luân hồi xấu xa. Nếu cha tôi tha thứ cho cô thì tôi cũng sẽ làm như vậy.

Được hỏi ai là người cha của nàng theo nghĩa thứ hai này. Uttarā nói ngài chính là Đức Phật Toàn Giác. Khi Sirimā nói nàng không quen với người đó. Uttarā an ủi nàng cho biết chính nàng sẽ giới thiệu với ngài. Khi Đức Phật đến đây vào ngày hôm sau. Rồi nàng còn khuyên Sirimā sửa soạn bất kỳ của bố thí nào nàng muốn dâng theo như ý muốn của nàng.



Sirimā xin lỗi Đức Phật 

 Sirimā đồng ý tất cả những điều kiện Uttarā đề ra và trở về soạn đồ cúng cho Đức Phật và các vị tỳ khưu của ngài. Ngày hôm sau, khi Đức Phật đến nhà Uttarā , Sirimā đã phủ phục dưới chân Đức Phật. Ngài liền hỏi nàng điều gì diễn ra thế, nàng kể lại tất cả những nghiệp chướng xấu xa nàng đã làm và nói ra hết những điều kiện Uttarā yêu cầu để được nàng tha thứ đó là: nếu Đức Phật cũng đồng ý tha thứ cho nàng thì Uttarā cũng sẽ làm như vậy.

Quay lại với Uttarā, Đức Phật hỏi xem điều Sirimā nói có đúng hay không. Khi Uttarā trả lời là đúng, Đức Phật liền hỏi thế nàng nghĩ như thế nào đang khi Sirima đổ sữa nóng lên đầu. Uttarā trả lời Đức Phật cho biết, nàng nghĩ đến việc làm lớn lao Sirimā đã làm thay cho nàng trong hai tuần qua, nhờ Sirimā mà nàng mới cho cơ hội và điều kiện được bố thí và nghe những lời dạy của Đức Phật. Rồi nàng quyết tâm dựa trên lòng “Từ Tâm trung kiên” của nàng. Chính vì điều này mà nàng đã không bị hề hấn gì cho dù Sirimā có đổ sữa đang sôi lên đầu nàng.

Nghe thấy vậy Đức Phật hết sức ca ngợi Uttarā, nói rằng “Con đã làm rất tốt, Uttara, con đã hành động thật là tuyệt vời, chính do Vô Sân Hận con người ta có thể chiến thắng Sân Hận của người khác. Cũng vậy trong trường hợp người khác xúc phạm đến mình, con cũng có thể chiến thắng người đó bằng không lăng mạ người đó, rồi trong trường hợp một người khốn khổ thì bạn cũng chỉ chiến thắng họ bằng của bố thí mà thôi, còn đối với một người nói dối, thì bạn cũng chỉ chiến thắng họ bằng cách nói thật mà thôi. Nói đoạn, Đức Phật thốt lên một bài kệ sau đây.

Akkhodhena jine kodhaṃ Asādhuṃ sādhunā jine 
Jine kadariyaṃ dānena Saccenālikavādinaṃ

“Chiến thắng sân hận bằng vô sân hận; chiến thắng điều xấu bằng điều tốt; chiến thắng bỏn xẻn bằng bố thí, và sai lạc bằng lời chân thật.”

Vào cuối bài thuyết pháp Sirimā và toàn bộ đoàn tùy tùng gồm năm trăm tớ gái đã đạt Quả Nhập lưu.

Đây chính là chuyện kể về bà Uttarā như được thuật lại trong Pháp Cú Kinh (Dhammapada). Hình như có một số đoạn xem ra không thể tin nổi. Đặc biệt là một vài con số. Những điểm này sẽ được thảo luận đến sau này cùng với việc giải thích những điều khác. Trong lúc này một số bài tường thuật khác liên quan đến phép lạ (thần thông) được nói đến trong Kinh Phật sẽ được giới thiệu.



Sức mạnh thiền định bảo vệ cho hoàng hậu Samāvatī

Samāvatī là một trong số hai hoàng hậu của nhà vua Udena, hoàng hậu còn lại tên là Māgandiyā. Lúc này vì cha của Māgandiyā muốn cho con gái của ông trở thành hoàng hậu nhiếp chính duy nhất, nên ông đã bịa ra một âm mưu để thực hiện mục tiêu này. Ông đã lệnh cho con gái phải kiên trì để một con rắn độc vào đàn Hạp của nhà vua và nói “ Tâu bệ hạ, thần nghe biết Samāvatī đang cố tâm giết hại bệ hạ, bằng cách để một con rắn độc vào đàn Hạp của ngài.” Để chứng minh lời nói của nàng, nhà vua liền đi kiểm tra cây đàn Hạp của ngài và phát hiện ra có con rắn độc trong đó – ngài nổi giận đùng đùng. Nghĩ đây là âm mưu của Samāvatī muốn hãm hại nhà vua. Ngài liền ra lệnh cho Samāvatī, cùng với đoàn tuỳ tùng, đứng ra vùng đất trống rồi bắn tên có tẩm thuốc độc giết hết. Trong khi đó nàng Samāvatī cùng với đoàn tuỳ tùng của nàng lại rất nổi tiếng vì lòng từ tâm đối với nhà vua. Thình lình đã tạo ra một phép lạ (thần thông) khiến cho nhà vua không thể bắn cung tẩm thuốc độc của mình, và cũng không thể bỏ cung xuống. Chính vì thế nhà vua cứ đứng yên, run rẩy vì sợ. Samāvatī hỏi xem nhà vua có đau khổ không. Khi nhà vua trả lời là có, nàng liền nói cho nhà vua đặt cây cung xuống đất ngay dưới chân của mình. Rồi Samāvatī giảng giải cho nhà vua mà rằng, “một người không thể làm hại ai mà không thể bị hại.”

Nhà vua không thể bắn cung ra khỏi cây nỏ được coi như là một phép lạ (thần thông) về sức mạnh bảo vệ thiền Định (samādhi) đem lại. Đây chính là câu chuyện của nàng Samāvatī được kể ngắn gọn trong Thanh Tịnh Đạo (Visuddhimagga). Nhiều chi tiết khác nữa có thể được tìm thấy trong phần thứ hai Pháp Cú Kinh (Dhammapada) trong đó người ta tìm thấy một số ít khác biệt liên quan đến một số chi tiết nhỏ. Những ai muốn biết các chi tiết đó có thể tham khảo nguồn tư liệu trên.

Phép thần thông bậc thánh (Ariya thần thông - iddhi)

 Tức là phép lạ (thần thông) của các bậc thánh. Theo Thanh Tịnh Đạo (Visuddhimagga) các phép thần thông hay phép lạ (thần thông) này thuộc các thiền sinh muốn tự luyện tâm của mình để thể hiện được lòng ghê tởm các sự vật (được coi như là) không ghê tởm; và cũng thể hiện được tính không ghê tởm các sự vật đó được coi như là đáng ghê tởm.

Thêm vào đó, có các trích đoạn trong Vô Ngại Giải Đạo (Paṭisambhidāmagga) được kể lại sau đây:

“Phép thần thông thánh đệ tử gì? Nếu một vị tỳ khưu trong tăng già muốn thực hiện một lời ước, “Mong rằng tôi quyết tâm không ghê tởm điều đáng ghê tởm” người đó có thể làm được như vậy v.v... được chánh niệm và tự chủ, diệt khỏi những điều ghê tởm.” (khu. Pa. 31/599)

Đây là một đoạn ngắn được trích trong Thanh Tịnh Đạo (Visuddhimagga) trong khi đó còn được mô tả trong Kinh Phật lại gồm nhiều, có nhiều chi tiết hơn. Nói tóm lại, người ta có thể nói rằng một khi có liên quan đến cảnh sắc, cảnh thinh cảnh khí, cảnh vị và xúc cảm, một vị cảnh sắc có thể thấy ghê tởm như là điều không ghê tởm và ngược lại. Điều này có thực trong mọi hoàn cảnh, mọi nơi và mọi lúc.

Trong Vô Ngại Giải Đạo (Paṭisambhidamagga) từ ‘Paṭikūla’được giải thích có ý nghĩa là “điều không ai ưa thích” trong khi đó điều gì không phải là ‘Paṭikūlalại là điều được mọi người ưa thích. Những đoạn sau đây được trích dẫn nhằm phục vụ những ai hiểu được Pali:

Katamā ariyā iddhi? Idha Bhikkhu sace ākankhati paṭikūle appaṭikūasaññī vihareyyanti appaṭikūlasaññī tattha viharati. Sace ākankhati appaṭikūla paṭikūlasaññī vihareyyanti paṭikūlasaññī tattha viharati.

Sace ākankhati paṭikūle ca appaṭikūle ca appaṭikūlasaññī vihareyyanti appaṭikū – lasanni tattha viharatiṣace akankhati appatikule ca patikule ca appatikulasanni vihareyyanti patikulasanni tattha viharati.

Sace ākankhati paṭikūle ca appaṭikūle ca tadubhayaṃ abhinivajjetvā upekkhake vihareyyaṃ sato sampajāneti upekkhale tattha viharati sato sampajano.

Kathaṃ paṭikūle appaṭikūlassaññī viharati Itthasmiṃ vatthusmiṃ asubhāya vā pharati aniccate vā upasanharati evaṃ appaṭikūle paṭikūlasaññī viharati etc…

Kathaṃ appaṭikūle paṭikūlasaññī viharati, Itthasmiṃ vatthusmiṃ asubhāya vā pharati aniccato vā upasaṃharati evaṃ appaṭikūle paṭikūlasaññī viharati etc…

Từ những đoạn trên, chúng ta có thể học biết được một thánh đệ tử, nhìn thấy một cô gái đẹp, có thể nhận ra pháp ghê tởm nơi cô gái đó. Mặt khác, khi nhìn thấy một bà cụ già với da dẻ nhăn nheo – cảnh tượng đó thường được coi như là ghê tởm. Ngài có thể một lần nữa thể hiện được lòng không ghê tởm trước một cảnh tượng như thế (có nghĩa là không bị lôi cuốn tới cảm nghĩ ghê tởm vì cảnh tượng đó.). Điều này cũng đúng trong trường hợp về thức ăn hay bất kỳ điều gì khác. Trong đó thánh đệ tử không bao giờ cảm thấy thích thú hay gớm ghét bất luận điều gì mình nhìn thấy hay cảm nghiệm thấy do bất kỳ giác quan nào của người đó. Chính vì thế Phép Thần Thông bậc thánh, là sức mạnh kỳ diệu là đặc tính của một vị tôn giả vậy.

Còn ngược lại sức mạnh đặc biệt hay ngoại lệ này, chúng ta nên lưu ý đến một điều đối với người đời bình thường đây là điều khó lòng thực hiện được. Ngay cả trong những vấn đề đơn giản như thức ăn, phải khó khăn biết mấy lúc phải đem lại những cảm nghĩ sảng khoái hay ngay cả cảm nghĩ không sướng, không khổ từ thực phẩm người đó thường không thích. Một ví dụ khác cho thấy có nhiều người phải ngủ ở một nơi xa lạ hay không quen, họ đều cảm thấy khó ngủ hay ngay cả không tài nào ngủ được. Để ngủ được ở đó cho dù thật sự là không có gì khó chịu cả. Cũng như vậy, quần áo không có gì gây khó chịu cả, nhưng cũng có thể trở thành không thể chịu nổi đối với một số người đã dính mắc mạnh mẽ với một vật mà họ thích. Đây là những ví dụ đối với những người không thể kiềm chế được tâm, làm nô lệ cho những tham lam và ước muốn của mình. Một thái độ tâm như vậy không bao giờ xảy ra nơi các vị thánh đệ tử của Đức Phật, có thể biết, nghĩa là họ biết cách để có thể rút ra được lợi ích từ bất kỳ điều gì xảy ra. So với những người đời thường với một tâm bị nô dịch, đây thực sự là một phép lạ (thần thông) hay là thành công ngoạn mục vậy.

Còn nhiều lời giải thích trích từ trong Vô Ngại Giải Đạo (Paṭisambhidāmagga) cần được lưu ý đến như sau.

Trước bất kỳ điều gì dễ chịu hay khó chịu (có nghĩa là ghê tởm hay hấp dẫn) vị thánh đệ tử vẫn luôn có thể tỏ thái độ dửng dưng (không sướng không khổ), vẫn thản nhiên như không (upekkhā hay là xả, không cảm thấy bị xáo trộn gì cả hay mất bình thản do sự ghê tởm hay những điều gì khác. Một ví dụ được ghi lại về điểm này như sau:

“Nếu một vị tỳ khưu trong tăng già này muốn loại bỏ cả hai (khía cạnh cảm xúc và tình cảm.) tức là cảm nghĩ ghê tởm hay hấp dẫn. Do đó mà được phú cho đặc tính phi lạc, phi khổ dựa trên niệm và tự kiềm chế, vị đó cần phải làm gì?”

“Một vị tỳ khưu trong tăng già này, mắt thấy, tai nghe, mũi ngửi, lưỡi nếm, thân tiếp xúc và cảm nghiệm được cảm thọ hay ý nghĩ bằng tâm. Không bị xáo trộn do tham dục và ác cảm, cảm giác phi lạc phi khổ để ghép lại với niệm và kiềm chế (điều này thấy từ bỏ được cả hai khía cạnh cảm xúc và tình cảm.)

Đoạn Pali viết về những vấn đề này như sau: Idha Bhikkhu cakkhunā rūpaṃ disvā etc. Manasā dhammāram maṇaṃ viññāya neva sumano hoti na dummano upkkhako viharati sato sampajāno. Evam Paṭikūle ca appaṭikūle ca tadubhayaṃ abhivi vajjetvā upekkhako viharati sato sampajāno. Ayaṃ ariyā iddhi” (Khu. Pa. 13/600)

Điều đáng lưu ý ở đây chính là sự kiện IDDHI, trong tiếng Thái thường được dịch bằng cách ám chỉ đến các phép lạ (thần thông) hay là những Thần Túc Thông, nói một cách chính xác, được dùng trong tiếng Pali để ám chỉ từ Ijjhana có nghĩa là thành công. Các vị thánh đệ tử thường đạt đến thành công trong lãnh vực này. Trong khi đó người đời thì không làm được điều đó. Chính vì thế, dưới mắt người đời điều đó được coi như là một ‘phép lạ (thần thông)’ hay là ‘một điều tuyệt vời’ là bản chất của vị thánh đệ tử.

Kammavipākajā Iddhi: Đây là phép thần thông (iddhi) do kết quả của những hậu quả nghiệp chướng hay (quả báo) ở đây điều này được giải thích bằng cách đưa ra ví dụ như chim có thể bay trong không gian nhờ vào những đôi cánh. Đó chính là vì hậu quả nghiệp chướng của loài chim. Trong việc xác định sự thật này, các đoạn trích từ trong Vô Ngại Giải Đạo (Paṭisambhidāmagga) lại được trích như sau: “Thần thông của loài chim, các chúng sanh thần tiên, một số người và một số ma đói (vinipātika) (Ma đói là các thần thông như là kết quả của nghiệp chướng “- Khu, Pa, 31/600 (Katamā kammavipākajā iddhi? Sabbesam pakkhīnaṃ sebbesaṃ devānaṃ ekaccānaṃ manussānaṃ ekaccānaṃ vinipātikānaṃ ayaṃ kammavipākajā iddhi).

Cũng nên chú ý la, chim có thể bay trên không nhờ đôi cánh – vẫn thường đuợc coi là bản chất của loài chim. Ơ đây lại được coi như là một loại thần thông. Còn đối với Chư thiên (Devata) hay các chúng sanh thần tiên. Điều này lại được thấy có các loài gọi là Akāsaṭṭhā devatā, cũng có khả năng bay như là loài chim. Tuy nhiên, còn có một số khác được gọi là Rukkha devata, theo nghĩa đen có nghĩa là devatā sống ở các cây và Bhumma devatā, nghĩa đen là các devatā sống ở đất. Điều đó không trực tiếp được nói đến như có thể bay được. Nhưng xét các từ Sabbesaṃ ở tiếng Pali có nghĩa là ‘tất cả’điều này có thể phỏng đoán được là các loại Chư thiên (Devatā) cũng có thể làm được cùng những điều đó. Đây là điều được đề cập đến như là thần thông (iddhi) là kết quả của nghiệp chướng mà ra.

Khi ta nói rằng một số người có khả năng bay trong không gian muốn ám chỉ những ai ngay từ đầu của kiếp người này hay từ đầu đại kiếp này, Khi họ vẫn mới đạt được có một nửa qui trình biến hoá từ thân xác tinh tế sang thân xác thô thiển. Những chi tiết về điều này được đề cập đến trong Kinh Aggañña (Di. Pa. 11/51).Từ ‘vinipātika’ có thể ám chỉ một số Ma Đói (peta) được gọi là Nữ Dạ-xoa (yakkha) có tên là Piyaṇkaramātā, Uttaramātā, Pussamittā vā Dhammaguttā hay một số loại khác. Tuy nhiên, còn có một số chi tiết khác được nêu lên, ngay cả trong Thanh Tịnh Đạo (Visuddhimagga) và cho đến giờ vẫn chưa thể khám phá ra hết. Nhưng nhờ những giải thích đó cho thấy rằng số Dạ-xoa (yakkha) hay ma quỉ có thể được liệt lê vào loại ‘vinipātaka” này, thường được ám chỉ các ma đói hay là Peta ngạ quĩ.

Có một số điểm tôi muốn nêu ra đây thuộc quan điểm của một số học giả như sau:

1. Ta có thể coi như là phép thần thông hay không trong trường hợp liên quan đến hiện tượng do hậu quả nghiệp chướng mà Đức Phật đã biết nói và biết đi ngay từ ngày đầu tiên mới sinh ra?

2. Và liệu cũng giống như vậy khi đề cập đến hồi Đức Phật có thể nhập vào hiện trạng thiền Jhana ở tuổi lên bảy không? Vào lúc cha ngài làm nghi thức cầy ruộng, Ngài đã biến thành một bóng mát, rồi ngồi thiền dưới bóng cây đó, bất động không biết gì đến dòng thời gian đang trôi qua.

Trong lúc đó vẫn còn những điểm được đệ trình về quan điểm của các vị học giả. Tôi sẽ thảo luận đến trong những thời gian tới đây.

Puññavato Iddhi: các phép lạ (thần thông) nhờ sức mạnh các việc công đức. Được giải thích như sau: Những ai đã tích luỹ được nhiều việc công đức như Chuyển Luân Vương (cakkavatti) có thể bay trên không được liệt kê vào những phép thần thông thuộc loại này. Vẫn còn nhiều đoạn khác nữa được trích từ Vô Ngại Giải Đạo (Paṭisambhidāmagga) như sau: “Phép Thần thông thuộc những ai tích tụ được nhiều việc công đức là gì? Một vị Chuyển Luân Vương có thể bay trên không, cùng với bốn hạng binh lính. Ngay cả người chăn bò và người giữ ngựa cũng có khả năng di chuyển trên không. Thần thông của những chủ gia nhân tên là Jotika, Joṭila Ghosaka và Meṇḍaka cũng thuộc cùng loại này --- (Khu. Pa, 31/ 600). Những đoạn Pali được ghi lại như sau: Katamā puññavato iddhi? Rājā cakkavatti vehāsaṃ gacchati saddhim cāturañginīyā senāya antamaso assabandhagobandhapurrise upādāya Jotikassa Gahapattissa puññavato iddhi. Jaoṭilassa gahapatissa Puññavato idddhi. Meṇḍakassa gahapatissa paññavato iddhi. Ghosakassa gahapatissa Puññavato iddhi. Pañcaññaṃ, mahāpuññānaṃ puññavato iddhi. Ayaṃ puññavato iddhi.

Còn có nhiều giải thích thêm nữa do Trưởng Lão Buddhaghosa viết về hiệu quả những hiệu quả tối thượng, đối với kết quả của việc trưởng thành trong các việc công đức sau khi đã tích luỹ được gọi là các phép lạ (thần thông) thông qua sức mạnh những việc công đức đó (Sañkhepato pana paripākaṃ gate puññasambhare ijjhanakaviseso puññavato iddhi Vi. 2/213)

Sau đây là tiểu sử ngắn của các chủ gia kể trên và những việc công đức của họ mạnh mẽ đến nhường nào.

a. Jotika có một lâu đài bằng đá quý và 64 cây như ý (kapparukkha)từ đất nẩy sinh ra.

b. Sa môn Tóc Rối (Jaṭila), có một núi bằng vàng cao khoảng ….mét thình lình xuất hiện.

c. Ghosaka đã sống sót sau bảy lần bị hại, cả bảy lần đều không bị hề hấn gì. Cuối cùng ông đã trở thành một nhà triệu phú.

d. Meṇḍaka được giáng phúc với một con dê có bảy viên ngọc quý xuất hiện ngay luống cầy đầu tiên trên cánh đồng của ông.

Năm nhân vật thực hiện công đức siêu phàm

Vô Ngại Giải Đạo (Paṭisambhidāmagga) chỉ ra năm nhân vật có được kho tàng công đức siêu phàm. Tên của họ được ghi lại trong Thanh Tịnh Đạo (Visuddhimagga) như là những thành viên thuộc nhóm triệu phú Meṇḍaka tức là, nhà triệu phú Meṇḍaka, vợ của ông là Candapadumasiri, nhà triệu phú Dhanañjaya con trai của ông, Sumanadevi, con dâu của ông và Puṇṇa là tên đầy tớ của ngài nữa.

Lý do họ trở thành triệu phú được ghi lại như sau:

1. Meṇḍaka. Một lần kia ông đang đang ngồi gội đầu và ngước mắt nhìn lên trời bỗng xuất hiện trong 1.250 kho thóc nhà ông một lượng lúa mì đỏ rơi từ trời xuống làm đầy ấp tất cả các kho lẫm đó (Tesu pañcasu seṭṭhissa sīnsanahātissa ākāsaṃ ullokanakāle aḍḍhaterasakoṭṭhasa hassāni ākāsato rattasālīnaṃ pūrenti – vi. 2/ 213)

2. Candapadumasiri, vợ của ông có thể nuôi sống toàn bộ dân chúng cõi Diêm Phù Đề (Jambūdīpa) chỉ có một nồi cháo trắng duy nhất mà thôi. . . . thực phẩm trong nồi đó không bao giờ cạn kiệt

3. Dhanañjaya. con trai của ông, có thể phân phát miễn phí cho toàn bộ dân chúng thuộc Diêm Phù Đề (Jambūdīpa) với một túi tiền 1000 kahāpaṇa, tiền trong túi của ông không bao giờ hết.

4. Sumanādevī, con dâu của ông có thể phân phát cùng một cách như vậy cho dân chúng thuộc cõi Diêm Phù Đề (Jambūdīpa) với chỉ một nồi cơm nấu chưa sôi.

5. Puṇṇa, người đầy tớ của ông, đã cầy thửa ruộng với chỉ một luống cầy duy nhất, rồi sau đó đã mở rộng thành mười bốn luống, với bảy luống cầy mỗi bên.

Đây là những bài tường thuật ngắn về những người đã đọc được kho lẫm công đức siêu phàm, đang khi đó còn nhiều chi tiết khác nữa có thể tìm thấy trong Pháp Cú Kinh (Dhammapada). Bài tường thuật liên quan đến Sa môn Tóc Rối (Jaṭila), và Jotika nhà triệu phú là những cốt chuyện dài tới tám chương. Tuy nhiên nhiều bài tường thuật xem ra không thể tin được. Tôi sẽ nói đến vấn đề này sau, với những bài tường thuật khó tin như vậy trích từ nhiều nguồn khác nhau cần phải được thảo luận cách tự do thoải mái và kỹ lướng hơn.

Vijjāmayā iddhi: các phép lạ (thần thông) được thực hiện bằng bùa mê hay hiện thân (incarnations). Thanh Tịnh Đạo (Visuddhimagga) có kể lại phép thần thông này thuộc về những người có học thức cao về sức mạnh cầu kinh, bùa mê ,về lên đồng. Như là ‘Vidyādhara’. Tiếp theo sau đây tôi xin trích một đoạn trong Vô Ngại Giải Đạo (Patisambhidāmagga) bàn về hậu quả cho là điều này nói về một loại người được gọi là Vidyādhara họ có thể đọc các lời bùa chú, có thể di chuyển trên không, hay tạo ra được hình ảnh những con voi trên không v.v… (Katamā vijjāmayā gacchanti ākāse iddhi? Vijjādharrā vijjaṃ parijapetyvā vehāsaṃ antalijhe hatthimpi dassenti ratthaimpi dassenti vividdhampi senābyūhaṃ dassenti. Ayaṃ vijjāmayā iddhi (Khu. Pa. 31/161).

Thật đáng tiếc ta chưa bao giờ đề cập đến điều này, cho dù trong Thanh Tịnh Đạo (Visuddhimagga) hay là trong Paramatthamañjusā. Loại con người nào được gọi là Vidyādhara. Chính vì thế chúng ta không thể biết được họ là con người hay là vật vô hình được gọi chung là Hóa Sinh (Opapātika). Một sự kiện không may mắn hơn nữa trong các tập Chú Giải về Vô Ngại Giải Đạo (Paṭisambhidāmagga) không thấy in sang tiếng Thái. Cho đến giờ tôi chưa có thì giờ để tham khảo các chú giải bằng tiếng Miến Điện. Trong khi đó vấn đề vẫn còn bỏ ngỏ chưa được giải thích cho đến khi tôi có được cơ hội thuận tiên hơn.

Tattha tattha ijjanatthena iddhi: Không giống các loại thần thông (iddhi) gây ấn tượng mạnh như ở trên, thần thông (iddhi) này bao hàm thành công trong bất kỳ loại công việc nào đó được thực hiện một cách chính đáng.(tena tena pana sammāpayogena tassa tassa kammassa ijjhanaṃ tattha tattha sammāpayogapaccayā ijjhanatthen iddhi). Điều này bao gồm một diện rộng về ý nghĩa, ám chỉ thành công người nào đó thực hiện một cách bền bỉ và chính đáng. Các đoạn trong Vô Ngại Giải Đạo (Paṭisambhidāmagga) được trích cho thấy hiệu quả như sau:

Việc khước từ mọi cảm khoái dục lạc (thí dụ thế) được hoàn thành do việc tu luyện Nekkhamma, điều này phải được theo đuổi một cách chính đáng. Thành công trong lãnh vực này cũng được coi như là một loại thần thông (iddhi). Từ Pali ‘iddhi’ có ý nghĩa tương đương với từ tiếng Phạn “Riddhi” có nghĩa là ‘thành công’

Giống như vậy, việc loại bỏ sân hận cũng được đạt đến qua vô sân, loại bỏ được thuỵ miên và hôn trầm lại thông qua tu luyện tưởng ánh sáng v.v… và loại bỏ được toàn bộ những phiền não là điều chỉ đạt đến được thông qua thánh đạo của một vị A-la-hán. Toàn bộ những vịêc này đều phải được thực hiện một cách chính trực. Mỗi thành tích trong lãnh vực này chính vì thế được coi như là thành công, từ ‘thần thông (iddhi)’ theo nghĩa đen được dịch là ‘thành công.’

Như vậy đây là cách dịch thoáng từ các đoạn trong tiếng Pali chứ không phải dịch sát nghĩa từng chữ. Điều này chắc chắn sẽ làm cho độc giả lẫn lộn cho là không quen với cấu trúc và văn phong Pali. Tuy nhiên, đối với những ai muốn tham khảo bản văn nguyên thuỷ toàn khối tôi xin trích đoạn sau đây bằng tiếng Pali:

 Kathaṃ tattha tattha sammappayogapaccayā ijjhanaṭṭhena iddhi? Nekkammna kāmchandassa pahānaṭṭho ijjhatīti. Tattha tattha sammappayogapaccayā jijjhanaṭṭhena iddhi. Abyāpādena byāpādassa pahānaṭṭho ijhatīti ect…. Alokasaññāya thīnamiddhassa ect,,, arahattamaggena sabbakilesānaṃ pahānaṭṭho ijjhatīti. Tattha tattha sammappayogapaccayā ijjhanaṭṭhena iddhi Imā dasa iddhiyo (Khu. Pa. 31/601)

Từ những gì chúng ta đã thảo luận cho đến giờ. Chúng ta có thể kết luận là thần thông (iddhi) mang ý nghĩa nào đã dần được hiểu như là sức mạnh lạ kỳ và ấn tượng, còn mang một ý nghĩa khác nữa đó là một thành công nơi bất kỳ một lãnh vực nào, gồm cả khía cạnh trong đời (đối lại với lãnh vực tu trì) và hiện thế. Thể hiện những khả năng không mang tính cách lạ lùng và gây ấn tượng mạnh gì cả. Thí dụ như khả năng bay nơi loài chim. Cũng được coi như là một loại thần thông (iddhi) các chúng sanh chư thiên xuất phát từ chính bản chất của nó có thể di chuyển trên không cũng được coi như là có được iddhi, được gọi là Kammavipākajā --- một điều được coi như là kết quả của các thành quả nghiệp chướng. Một ví dụ khác nữa, một số người lại có những người đuợc sinh ra trong một gia đình giàu có, dùng bữa bằng thìa vàng thìa bạc, như một số người thường gọi như vậy. Đây cũng là kết quả của puññaiddhi iddhi, tức là sức mạnh do các việc công đức đem lại. Điều cuối cùng, bất kỳ ai thực hiện bất kỳ điều gì cũng được coi như là đắc được thần thông (iddhi).

Với toàn bộ những trường hợp kể trên, ta thấy rằng điều được coi là “sức mạnh kỳ diệu’ lại là những điều hết sức siêu nhiên và không thể thực hiện được một cách bình thường. Đây chính là một tiến trình bình thường của luật nhân quả. Chim bay được là do một vài hiệu quả nơi một số nguyên nhân nào đó trong quá khứ. Một số người có thể thực hiện được một vài việc thần túc thông (psychic feats) như tự biến mất, biến đổi được thân xác của mình thành những hình dạng nào đó, bay bổng lên trên không, đi trên nước cũng vậy là do những “hậu quả tự nhiên” của một số nguyên nhân họ thường tu luyện được trong quá khứ mà chẳng ai biết được trong một quá khứ xa xưa, mà nhiều người khác không thể thực hiện được hay không thể có được như thế. 

Tóm lại, khả năng vẫn tồn tại ở đó, cho dù những điển hình thì hơi hiếm, trừ một vài trường hợp như nhà triệu phú Jaṭila và Meṇḍaka , số lượng nơi một số trường hợp được đề cập đến có thể hơi phóng đại. Nhưng xét cho cùng, toàn bộ câu chuyện không thể được coi là bịa đặt một cách thẳng thừng hay là điều bịa đặt một cách tuyệt vời cũng vậy. 

Vì liên quan đến đề mục thứ mười kể trên, hình như là điều thường xảy ra nhất, trong khi đó Vô Ngại Giải Đạo (Paṭisambhidāmagga) lại chỉ trưng ra việc loại bỏ được các phiền não, thì tập Chú Giải tác phẩm này hình như xuất hiện trước thời Trưởng Lão Buddhaghosa và cũng được ngài trưng ra sau này. Ý nghĩa lại ám chỉ những công việc ngoài đời thông thường nhất, kể cả nghề thủ công như là tổ chức thành lập trại lính chẳng hạn, biến chúng giống như một đoàn du mục gồm nhiều chiến xa hay thực hành chữa trị bệnh tật, nghiên cứu Kinh Vệ Đà, hay Kinh Tạng, hoặc ngay cả các công việc nhà nông như cầy bừa, gieo hạt. Thành công trong bất kỳ công việc nào như vậy cũng được coi như là thần thông (iddhi) vậy.—(Vi. 2/214)

Hơn thế nữa, theo tác giả Thanh Tịnh Đạo (Visuddhimagga) thì mười tiết mục thần thông (iddhi) kể trên, chỉ có thần thông (iddhi) Adhiṭṭhāna (tức là các phép lạ (thần thông) thực hiện được qua quyết tâm) mang đúng ý nghĩa của từ Pali Iddhividhāya mà thôi. Nhưng theo nghĩa trên, phép biến đổi thân (Vikubbanā Iddhi) và Phép Ý Sinh Thân (Manomaya iddhi cũng phải được kể trong đó (Iti imāsu dasasu Iddhīsu iddhividhāyāti imasmiṃ pade adhiṭṭhānā iddhi yeva āgatā, Imasmiṃ panatthe vikubbanā-iddhi. Phép Ý Sinh Thân (Manomayā iddhi-yo icchitabbā eva.—Vi, 2/214)

Từ IDDHIVIDHĀYA, vì trong Tam Tạng (Tipiṭaka) ám chỉ điều Đức Phật đã nói trong đoạn mở đầu về hậu quả cho là khi một chư vị tỳ khưu đã có tâm ổn định, và được thanh tịnh v.v… vị đó có thể hướng tâm tới phép thần thông Vidhāya để có thể sản sinh ra nhiều phép lạ (thần thông), được xếp thành mười loại như đã nói ở trên.

 Mười mục phép lạ (thần thông) này được nói tới ở trên chính là sản phẩm của phép quyết định (Addhiṭṭhāna), có nghĩa là do Quyết tâm mà ra. Những phẩm chất không thể thiếu để thực hiện các phép thần thông này cũng đã được nhắc đến ở trên. Một thiền sinh thiếu mười mục tiên quyết đó sẽ không bao giờ có khả năng này. Ngoài mười đề mục đó còn có hai mục: phép biến đổi thân (Vikubbanā Iddhi) có nghĩa là biến đổi thành thân thể và Phép Ý Sinh Thân (Manomaya iddhi) nghĩa là chiếu rọi ra tỏ bầy ra thân xác cõi trời (astral body) cũng phải được liệt kê vào phạm trù này. Chính vì vậy người ta nói rằng các phép thần thông (iddhi) được nói đến trong Kinh Pali nằm trong nhóm mười đầu tiên, cộng với hai phép thần thông khác nữa được nhắc đến ở trên.

Còn bảy loại thần thông (iddhi) khác đó là Samādhi Vipphārā có nghĩa là sức mạnh bảo vệ Thiền Định và Ñāṇavipphārā có nghĩa là sức mạnh bảo vệ do tuệ giác lại không đòi hỏi bất kỳ thành tích nào thuộc tám Thiền Chứng (samāpatti) vá tám đề mục (Kasinā) nào; cũng không cần phải tiến hành mười bốn bước như đã mô tả ở trên. Đối với những Vô Ngại Giải Đạo (paṭisambhidā) liên quan đến thiền định.

Tuy nhiên, thành tích thuộc do nhóm thần thông (iddhi) trên vẫn đòi hỏi phải tích luỹ được những công đức để tạo ra những tiềm năng to lớn đó. Sẵn sàng cho giây phút trưởng thành trong cuộc sống hiện tại. Một ví dụ điển hình nổi bật nhất có thể thấy được nơi Trưởng Lão Xá-Lợi Phất (Sārīputta.) ngài không cần đến bất kỳ luyện tập gian khổ nào và việc kiên định liên quan đến thiền định trong cuộc sống của ngài. Sau khi đã nghe lời Đức Phật dạy và đạt đến bậc A-la-hán thì ngài đã có thể thực hiện được những phép lạ (thần thông), đồng thời cũng như là một ân huệ ngài có được. Trưởng Lão Bākula lẽ ra phải chết ngay từ khi bị nuốt vào trong bụng cá. Và thầy Sa-di Saṇkicca (Samanera) cũng phải chết trong bụng mẹ. Trong những trường hợp kể trên, chính do những công đức được tích lũy từ trước thuộc hạng siêu đẳng đã dành cho các ngài sức mạnh bảo vệ chống lại mọi hiểm nguy ngài gặp phải đang khi tiến tới bậc A-la-hán. Ta cần lưu ý một điều là những công đức đó gồm sự tích lũy mười Đáo Bỉ Ngạn (pāramī) hay là những Ba la mật. Mỗi thứ đó đều kèm theo với mức độ cao nhất được gọi là Paramattha, có nghĩa là điều tuyệt hảo, không loại trừ khi cần thiết ngay cả phải hy sinh đến tính mạng mình.

---o0o---

Mười Đáo Bỉ Ngạn (pāramī) hay mười pháp Ba la mật

Mười Đáo Bỉ Ngạn (pāramī) hay mười pháp Ba la mật gồm: Bố thí (Dāna),trì Trí giới (Sila), Xuất gia (Nekkhamma) Trí Tuệ (Paññā) Tinh Tiến (viriya), Nhẫn nại (khanti) chân thật (Sacca) quyết định (Adhiṭṭhāno), tâm từ (metta) và xả (Upekkhā). Thiếu một số lượng cần thiết và cường độ nhất định trong số mười điều trên, một thiền sinh không hy vọng có thể đạt đến thánh đạo và thánh quả. Liên quan đến xuất gia Ba la mật (Nekkhamma) hay là Lánh Tục. Cần lưu ý một điều là từ đó ám chỉ việc thực hiện cuộc sống vô gia cư, đạt được thiền Jhana và Thiền Chứng (samāpatti) ; gồm cả việc đạt đến những phép lạ (thần thông) hay là Thần thông (Abhiññā) trên bình diện hiệp thế. Để làm được điều này cần phải tích luỹ được nhiều công đức ở hàng trăm hàng ngàn kiếp trước. Còn đối với Trí Tuệ Ba-la-mật (parami) Tuệ (Paññā) hay tuệ giác, ngoài ý nghĩa là kinh qua được những tài khéo và kiến thức khoa học ở các tiền kiếp, cũng còn ám chỉ việc học tập và nghiên cứu những lời dạy của Đức Phật trong quá khứ, với điều kiện là đạt đến được thánh đạo và thánh quả thuộc bậc A-la-hán nếu không bị chết trước khi đạt đến những thành tích đó. Đó chính là lý do tại sao trong cuộc đời cuối cùng này chỉ cần học tập ngắn ngủi và tóm lược cũng đủ để người đó đạt đến bậc A-la-hán. Đây chính là trường hợp một số người hay nhiều thiền sinh, cho dù họ rất thông thạo những lời dạy của Đức Phật liên quan đến đa văn và trí tuệ, nhưng không thể đạt đến bậc A-la-hán cách này cách khác. Cho dù họ có bận bịu cố tâm tập luyện trong cuộc sống này và vẫn không đạt đến kết quả gì. Tuy nhiên những điều đó không thể mất đi được. Những hậu quả do toàn bộ những tu luyện đó vẫn còn đó chờ cho đến ngày trưởng thành, khi thời gian chín mùi để cho mười Đáo Bỉ Ngạn (pāramī) đó được cân bằng và vững chắc trong việc tu luyện và phát triển. Đây chính là lý do tại sao các thiền sinh đã thực hiện được những hành vi công đức cùng lúc và cùng mục tiêu mà vẫn không thể đạt đến được những loại thành quả khác nhau.

Tóm lại, có sáu loại Thần thông (Abhinna) được Đức Phật mô tả như sau:

1. Thần Túc Thông (Iddhividhi): tức là thực hiện được những phép lạ (thần thông) và những việc phi thường.

2. Thiên Nhĩ Thông (Dibbasota)

3. Tha Tâm Thông hay là đọc được suy nghĩ của người khác (cetopariyañāṇa)

4. Nhớ Lại Tiền Kiếp (Pubbenivāsānussatiñāṇa)

5. Thiên Nhãn thông, hay là nhìn thấy các chúng sanh sinh và diệt.(cutūpapātañāṇa)

6. Tuệ giác nhờ đó toàn bộ những lậu hoặc hay những thụy miên phiền não đều bị tận diệt đến tận gốc rễ. (Asavakkhaytañāña) - Lậu Tận Thông.

Về sáu điều đề cập đến ở trên, từ mục một đến mục năm được sắp vào loại vẫn còn thuộc góc độ hiệp thế, trong khi đó mục thứ sáu lại được coi như là siêu nhiên hay là siêu thế (Lokuttara). Lý do là vì các thầy Rishi hay là các vị sa môn khổ hạnh trước thời Đức Phật cũng được biết đến là đã đạt đến thành quả thực hiện được một số phép Thần Thông (Abhiññā) thuộc năm mục kể trên, cho dù sự thật là họ vẫn chưa đạt Thánh Đạo và Thánh Quả thuộc bất kỳ loại nào. Thực vậy các “vị thánh” thuộc các tôn giáo khác với Phật giáo cũng đã thành công trong việc thực hiện được một số hay rất nhiều phép lạ (thần thông) như vậy. Điều chúng ta còn phải chấp nhận là ở vào thời điểm khi thế giới này vẫn chưa có được giáo lý của Đức Phật, thì vẫn có khả năng cho một số thiền sinh có quyết tâm cao hay ý chí mạnh mẽ đạt được thành công trong năm Thần thông (Abhiññā) thuộc góc độ hiệp thế trên.

Điều đã được thảo luận kỹ cho đến giờ phút này chính là Phép Thần Thông (Abhiññā) Nhớ Lại Tiền Kiếp; Phép Thiên Nhãn, Phép tự phát ra thân xác cõi trời. Đề tài lúc này ta đang đã nghiêm cứu, nghĩa là Thần Túc Thông (Iddhividhi) tức khả năng thực hiện được một số phép lạ (thần thông) hay những việc phi thường (thần túc thông) (psychic feats). Tôi sẽ đề cập đến nhiều hơn trong tập tới đây viết về Thiên Nhĩ Thông (Dibbasita), tâm thông và tuệ giác nhờ đó có thể tận diệt được toàn bộ những lậu hoặc hay những thụy miên phiền não. Như những gì đã được bàn đến. Lại còn có đề tài Phép hóa tâm thông (Phép ý sinh thân - Manomaya iddhi) tức là toát ra được thân xác cõi trời cũng được thêm vào để làm trọn con số sau đề mục. Chính vì thế trong sáu đề mục Thần thông (Abhiññā) ta không thấy đề cập chi đến việc toát ra được thân xác cõi trời (astral body).

---o0o---



Tại sao Nhớ Lại Tiền Kiếp lại xuất hiện đầu tiên?

Lý do vì sao tôi bắt đầu với loạt bài Nhớ Lại Tiền Kiếp. Chính là vì tôi đã thu thập được một số dữ liệu đủ để bắt đầu với Phép Thần thông (Abhiññā) này đầu tiên. Còn có một số công trình khác thuộc loại này đã được biên soạn, hay trích dịch từ Giới luật và Kinh Phật, trong khi đó cho đến giờ vẫn chưa có được những sự kiện và dữ liệu đủ để xác định được pháp của Đức Phật. Điều này khẳng định những gì tôi đã thấy và biết được cho đến giờ. Chính vào năm Phật Lịch 2522 khi tôi có dịp hành hương đến các ngôi chùa Phật giáo tại Ấn độ cùng với Cô Sriphen và đã thu được một số dữ liệu. Thế nên tôi đã quyết định viết Tập sách Abhiññā này trước.(chi tiết về cuốn sách này đã được biên soạn trong tác phẩm về Ngôi nhà của các phép lạ (thần thông) này có tựa đề là “ĐẾN VÙNG ĐẤT PHẬT” (TO THE LAND OF THE BUDDHA) hiện đã được dịch sang tiếng Anh).

---o0o---



tải về 1.59 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   35   36   37   38   39   40   41   42   43




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương