TIÊu chuẩn việt nam tcvn 5060: 1990



tải về 303.83 Kb.
trang3/3
Chuyển đổi dữ liệu05.08.2016
Kích303.83 Kb.
#13597
1   2   3

Bảng 13

Nhịp (chiều rộng) của lỗ (m)

0,40

0,60

0,8

1

1,25

1,50

1,75

2

2,25

2,50

3

3,50

4

4,50

5

6

7

8

10

12

14

16

18

20

22

24

27

30

Chú thích: Nhịp của lỗ lấy theo kích thước lòng giữa các mặt bên giới hạn thẳng đứng của lỗ.

Bảng 14

Chiều cao của lỗ (m)

0,60

0,80

1

1,25

1,50

1,75

2

2,50

3

3,50

4

4,50

5

5,50

6

6,50

7

7,50

8

8,50

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

Chú thích: Chiều cao của lô được lấy như sau: với các lô trộn mặt - kích thước từ ngưỡng đến mực nước dâng bình thường; với các lô dưới sâu - kích thước từ ngưỡng đến mặt trộn của lỗ.

Chú thích:

1) Khi thiết kế các bộ phận nối tiếp với hạ lưu của công trình xả và công trình tháo (bể tiêu năng, ngưỡng, sân sau), cần dự kiến các cơ cấu nhằm đảm bảo cho toàn bộ công trình đầu mối thủy lực không bị xói nền.

2) Khi thiết kế của các công trình xả tiếp xúc ở dòng chảy có lưu tốc lớn thì cần tính toán thuận của tuyến xả, sử dụng những vật liệu phù hợp hình dạng mũi nhám, đường không khí làm vỏ bọc chống bào mòn v.v...

4.4. Kênh dẫn và đường dẫn nước vào tuốc bin của trạm thủy điện, trạm nhiệt điện, trạm bơm và công trình trên kênh.

4.4.1. Kênh dẫn và đường dẫn nước vào tuốc bin phải được thiết kế xuất phát từ điều kiện tháo đủ nước qua trạm thủy điện và trạm bơm với tất cả chỉ độ khai thác, phòng ngừa xói lở nguy hiểm, bồi lắng bùn cát trong kênh, nâng cao mực nước tính toán, bị tắc nghẽn do các vật trôi và cỏ rác, thực vật sống trong nước phát triển.

4.4.2. Khi chọn tuyến và mặt cắt dọc của đường dẫn nước có áp, cần loại trừ việc tạo ra chân không trong đường dẫn với mọi chế độ làm việc của trạm thủy điện và trạm bơm.

4.4.3. Tổn thất cột nước theo chiều dài đường dẫn, các mực nước cao nhất và thấp nhất trong đường dẫn không áp khi chuyển động không đều và không ổn định, áp lực lớn nhất và bé nhất theo chiều dài của đường dẫn có áp có xét đến nước va, phải xác định bằng tính toán thủy lực.

4.4.4. Mực nước lớn nhất tính toán trong đường hầm không áp và trong kênh phải xác định có xét đến sóng đương sinh ra khi cắt nhanh sự cố hoặc khai thác phụ tải lớn nhất của trạm thủy điện và trạm bơm mà phụ tải này có thể bị cắt đồng thời trong kênh còn phải xét đến sóng do gió và nước dềnh do gió gây ra.

4.4.5. Khi tính toán nước và thủy lực của đường dẫn vào tốc bin và đường dẫn có áp, phải tính toán như một hệ thống chịu áp thống nhất có xét đến ảnh hưởng của bể điều áp khi đó cần tiến hành kiểm tra:

- Cắt toàn bộ phụ tải của tất cả tổ máy;

- Đóng phụ tải theo khả năng lớn nhất theo điều kiện khai thác cho đến khi đạt công suất toàn bộ của trạm thủy điện và trạm bơm.

4.4.6. Cửa van sửa chữa - sự cố để đóng đường dẫn vào tuốc bin phải đặt trước cửa vào đường dẫn hoặc ở phần đầu của nó.

Chú thích: - Yêu cầu đặt cửa van sự cố khi vỡ ống không đặt ra đối với những ống nằm trong thân công trình bê tông và bê tông cốt thép đối với các đường hầm và đường ống thép có vỏ bọc bằng bê tông cốt thép.

4.4.7. Cơ cấu cửa van sửa chữa - sự cố ngoài việc điều khiển tự động phải có khả năng điều khiển từ xa và điều khiển tại chỗ.

4.4.8. Trước cửa van sửa chữa - sự cố của đường dẫn vào tuốc bin phải đặt cửa van sửa chữa.

Sau cửa van sửa chữa - sự cố phải bố trí ống dẫn không khí hoặc van không khí.

4.4.9. Khi thiết kế kênh dẫn, ngoài những quy định chủ yếu trong tiêu chuẩn này, phải tuân thủ những yêu cầu của tiêu chuẩn Việt Nam "Hệ thống kênh tưới. Tiêu chuẩn thiết kế - TCVN 4118: 1985.

4.4.10. Kênh dẫn là kênh đào, hoặc nửa đào nửa đắp, chỉ sử dụng kênh đắp ở những đoạn cá biệt và phải có luận chứng kinh tế kĩ thuật.

4.4.11. Khi thiết kế kênh, cần dùng cỏ để tách rời phần mái trên mặt nước với mặt dưới nước.

4.4.12. Độ vượt cao của đỉnh bờ kênh và cơ kênh trên mực nước lớn nhất trong kênh được xác định tùy thuộc vào lưu lượng thiết kế kênh và kết cấu áo kênh có xét đến sóng do gió. Bề rộng của đỉnh bờ kênh được quyết định theo điều kiện thi công và khai thác thực tế.

4.4.13. Khi thiết kế tuyến đi qua những đoạn sườn núi sụt lở, cần thiết kế các kết cấu đảm bảo ổn định cho sườn núi (kết cấu tiêu nước, lường chần, kết cấu gia tải, kết cấu gia cố v.v...)

4.4.14. Khi thiết kế tuyến -kênh đi qua đất lún sụt (đất có hàm lượng lớn muối dễ hòa tan, đất trương nở v.v...), cần dự kiến các biện pháp để khắc phục các hậu quả xấu do tính chất của những loại đất này gây ra khi khai thác kênh (kết cấu màng chắn, tiêu nước, thay thế, đất mới v.v...)

4.4.15. Lưu tốc trong kênh khi chuyển lưu lượng tính toán không được vượt quá vận tốc giới hạn cho phép theo điều kiện xói lòng không bọc lót và không được nhỏ hơn trị số xuất hiện bồi lắng.

Những kênh có bọc lót, trị số lưu tốc được chọn trên cơ sở tính toán kinh tế kĩ thuật.

4.4.16. Khi thiết kế kênh, cần dự kiến bọc lót phần mái kênh ở dưới nước và đáy kênh để bảo vệ cho chúng không bị xói lở và hư hỏng cơ học, để giảm hệ số nhám và giảm tổn thất thấm. Tính hợp lý của việc bọc lót phải được luận chứng bằng những tính toán kinh tế kĩ thuật.

Khi chỉ tiêu kinh tế kĩ thuật như nhau, cần ưu tiên chọn loại kênh không có bọc lót.

4.4.17. Việc chọn độ dốc mái kênh và kết cấu áo kênh (lớp bọc lót) phải ấn định cơ sở tính toán ổn định của mái dốc có xét đến áp lực thấm khi có dao động mực nước trong kênh cũng như kinh nghiệm khai thác những kênh (đang hoạt động hiện có ở trong các điều kiện khai thác và địa chất tương tự.

4.4.18. Khi thiết kế kênh, cần dự kiến lượng thoát nước mưa từ kênh ra và cách ly nước từ ngoài chảy vào kênh bằng rãnh ven sườn núi, giếng thu và công trình dẫn nước mưa.

4.4.19. Dòng bùn đất cắt ngang tuyến kênh cần được thoát theo các máng dẫn.

4.4.20. Khi thiết kế, cần dự tính bố trí đường khai thác dọc theo kênh để kiểm tra tình trạng của kênh và công trình trên kênh.

4.4.21. Khi thiết kế kênh, phải dự kiến các biện pháp phòng ngừa sự lầy hóa các vùng tiếp cận, cản dòng chảy do thực vật sống và chết.

Đường hầm thủy công

4.4.22. Khi thiết kế đường hầm thủy công, ngoài những quy định chủ yếu này, còn cần phải tuân thủ những yêu cầu của các tiêu chuẩn thiết kế đường hầm thủy công.

4.4.23. Việc lựa chọn kiểu (có áp hoặc không có áp) và tuyến cửa đường hầm, mặt cắt ngang của nó, dạng vỏ bọc (áo đường hầm) phải được tiến hành có xét đến bố trí chung của cụm đầu mối thủy lực, chiều sâu đặt đường hầm so với cao trình mặt đất tính toán, điều kiện địa chất công trình, chế độ thủy lực và chế độ làm việc tĩnh định của đường hầm và phương pháp thi công, trên cơ sở so sánh các chỉ tiêu kinh tế kĩ thuật, có xét đến ảnh hưởng tương hỗ của đường hầm và các công trình khác của cụm đầu mối liên hệ với sự làm việc của chúng.

4.4.24. Theo khả năng có thể, cần phải thiết kế tuyến đường hầm thẳng có chiều dài ngắn nhất. Được phép chọn tuyến đường hầm không thẳng bởi do các yêu cầu bố trí cụm đầu mối thủy lực, do điều kiện địa chất công trình và địa chất thủy văn (sự phá huỷ kiến tạo đáng kể và dòng chảy ngầm, trượt, castơ v.v...), do điều kiện thi công, cũng như các đoạn gãy bất lợi về mặt vệ sinh.

4.4.25. Khi thiết kế đường hầm thủy công cho mục đích khai thác lâu dài, thường tính đến khả năng thoát toàn bộ hay một phần lưu lượng thi công qua chúng.

Ống dẫn

4.4.26. Việc chọn lựa kiểu ống dẫn (ống bê tông cốt thép, ống bê tông cốt thép lót thép, ống phibrôuximăng, ống thép v.v...) cần tiến hành tùy thuộc vào nhiệm vụ của đường ống, bố trí tổng thể công trình, trị số cột nước và lưu lượng, điều kiện lắp đặt và khai thác ống dẫn. Khi các chỉ tiêu kĩ thuật như nhau, phải ưu tiên chọn đường ống bằng bê tông cốt thép.

4.4.27. Đường kính trong tính toán của đường ống dẫn thép, phải lấy theo cấp chênh lệch;

100mm đối với đường kính 1000 ÷ 3000 mm

200mm đối với đường kính 3200 ÷ 70000mm

500mm đối với đường kính 7500mm

4.4.28. Khi thiết kế ống dẫn có đường kính trong tính toán thay đổi theo chiều dài, thì phải chia ống dẫn đó ra từng đoạn, mỗi đoạn phải có cùng một đường kính.

4.4.29. Ống dẫn bê tông cốt thép và thép đặt trên nền biến dạng phải dự kiến có lớp co dãn để đảm bảo tính mềm cần thiết của ống.

4.4.30. Khi thiết kế ống dẫn bằng thép phải bảo vệ chúng khỏi rỉ và bùn cát mài mòn.

Được phép tăng bề dày ống dẫn vì những lý do khác khi có luận chứng thỏa đáng.

4.4.31. Khi thiết kế ống dẫn, cần dự kiến các cửa quan sát thiết bị làm đầy nước trong ống dẫn và trong trường hợp cần thiết, cần bố trí khớp bù nhiệt.

Thiết bị để đưa không khí vào và dẫn không khí ra phải được đặt ở những điểm cao nhất của ống dọc theo tuyến, ở những chỗ có khả năng tạo ra chân không và ống phải không dễ bị tắc rác.



Bể điều tiết ngày đêm của trạm thủy điện

4.4.32. Bể điều tiết ngày đêm của kênh dẫn cần tính đến khả năng khi không có đủ dung tích điều tiết trên đường dẫn và nằm ở thượng lưu của đập.

4.4.33. Khi thiết kế điều tiết ngày đêm, cần bố trí bể nằm ở trên tuyến đường dẫn hoặc trên các nhánh gần bể áp lực, có thể dùng lòng sông và vùng trũng tự nhiên làm dung tích chứa xét đến điều kiện thấm từ bể ra và khả năng bể bị bùn cát bồi lấp.

4.4.34. Khi thiết kế điều tiết ngày đêm cho những trạm thủy điện có chế độ làm việc đỉnh, cần phải xét đến các ảnh hưởng dao động đột ngột mực nước đến ổn định của công trình đất xung quanh.



Bể áp lực của trạm thủy điện

4.4.35. Khi thiết kế bể áp lực cần dự kiến

- Việc dẫn nước vào đường ống tuốc bin không hút theo không khí và có tổn thất cột nước nhỏ nhất.

- Ngăn ngừa vật nổi và rác trôi vào đường dẫn tuốc bin.

- Ngừng cấp nước vào đường dẫn tuốc bin khi xem xét, sửa chữa chúng cũng như trong trường hợp sự cố.

- Dẫn không khí vào đường dẫn tuốc bin khi chúng bị chống do sự cố hoặc khai thác và dẫn không khí từ đường dẫn ra ngoài khi chứa đầy ống.

- Xả nước thừa cũng như vật nổi và rác rưởi.

- Tổng bùn cát lắng đọng trong bể.

Cần dự kiến trang bị cửa van, phải sửa chữa, lưới chắn rác, thiết bị dọn rác cho bể.

4.4.36. Mực nước khai thác thấp trong khi bể áp lực cần được xác định, có xét đến sóng xuất hiện khi có chế độ chảy không ổn định lúc đóng phụ tải lớn nhất có thể xảy ra, theo điều kiện khai thác của trạm thủy điện.

4.4.37. Khi thiết kế đường dẫn không tự điều chỉnh, cần dự kiến công trình xả tự động (đập tràn không cửa, xả kiểu xiphông, xả có cửa tự động hoạt động bằng nguyên tắc thủy lực) nằm kề bể áp lực. Thông thường các công trình xả này phải đảm bảo thoát được toàn bộ lưu lượng tính toán của trạm thủy điện.

4.4.38. Khi thiết kế đường dẫn nước tự điều chỉnh, trong trường hợp cần thiết cần dự kiến công trình xả ở kề bể áp lực để cấp nước cho những hộ phía dưới trong trường hợp trạm thủy điện ngừng làm việc.

4.4.39. Khi bể áp lực ở trên nền đất, cần dự kiến biện pháp dề phòng hiện tượng trượt có thể xuất hiện do thấm nước từ bể áp lực xuống nền.

Tháp điều áp

4.4.40. Sự cần thiết bố trí tháp điều áp phải được luận chứng bằng những số liệu tính toán nước và thủy lực và phân tích điều kiện làm việc của tổ máy trong thiết kế.

4.4.41. Phải tiến hành tính toán thủy lực chế độ chuyển đổi trong tháp điều áp khi ngắt và đóng phụ tải. Phải xác định mực nước dâng cao nhất trong tháp điều áp khi cắt hoàn toàn phụ tải của toàn trạm thủy điện; Khi đó mực nước ở thượng lưu phải lấy theo mực nước lớn nhất, còn tổn thất bé nhất có thể xảy ra.

Mực nước thấp nhất phải được xác định theo điều kiện tăng phụ tải lớn nhất khi khai thác. Khi đó mực nước ở thượng lưu phải lấy bằng mực nước thấp nhất, còn tổn thất cột nước lấy theo tổn thất lớn nhất có thể xảy ra.

4.5. Nhà của trạm thủy điện và trạm bơm

4.5.1. Việc lựa chọn kiểu trạm thủy điện và trạm bơm cần phải thực hiện trên cơ sở so sánh các chỉ tiêu kinh tế kĩ thuật có xét đến sự làm việc có hiệu quả lớn nhất của thiết bị chính và phụ, tổn thất dẫn nước trong phần cấp và thoát nước, đến độ tin cậy và thuận lợi trong khai thác các thiết bị chống thấm, tiêu nước, cách nước v.v... cũng như những điều kiện thi công xây lắp.

4.5.2. Khi thiết kế trạm thủy điện kiểu lòng sông, kiểu đê đập, phải xem xét các phương án bố trí nhà trạm tách rời và kết hợp với công trình xả mặt hoặc xả sâu.

Khi có luận chứng thỏa đáng, những trạm thủy điện đặt trong khe núi hẹp có thể thiết kế bố trí máy thành hai hàng.

4.5.3. Kích thước phần dưới nước trạm thủy điện hoặc trạm bơm cần phải lấy ở mức cần thiết tối thiểu xuất phát từ kích thước phần thông nước của tổ máy và bố trí trang thiết bị. Việc bố trí các phòng sản xuất, phục vụ và phụ trợ không được làm tăng phần dưới nước của nhà trạm.

4.5.4. Để quan sát tình trạng của phần dưới nước của trạm, cần phải dự kiến bố trí các giếng và các hành lang quan sát. Trong hành lang của trạm thủy điện, trạm bơm cần dự trù hai lối ra. Các lối đó phải có cầu thang cách li khỏi các phòng và các đỉnh của chúng cần bố trí cao hơn mực nước lớn nhất ở hạ lưu 0,5m.

4.5.5. Để xem xét và sửa chữa buồng tuốc bin, ống hút, ống đẩy cần phải dự kiến hành lang tiêu, cửa công tác và lối đi riêng.

Khi bố trí chúng trong các phòng của trạm thủy điện, trạm bơm, phải dự kiến thiết bị nhằm loại trừ khả năng bị ngập phòng đó do sự cố và phá hoại sự làm việc của trạm.

4.5.6. Các hồ lấy nước phải được trang bị cửa van, lưới chắn rác, thiết bị dọn rác ở cuối ống dẫn, cấp nước cho một vài tuốc bin, trước phần dẫn vào buồng của những tuốc bin phải dự kiến bố trí sửa chữa sự cố.

Trên tất cả các lỗ dẫn vào và dẫn ra của đường xả, cần bố trí rãnh để đặt cửa van sửa chữa hoặc sửa chữa sự cố. Ở lỗ dẫn ra của ống hút cấn dự kiến rãnh để đặt cửa van sửa chữa lưu động.

Lỗ dẫn vào cửa ống hút của trạm thủy điện và trạm bơm phải có lưới chắn rác. Rãnh đặt lưới thường trùng với cửa của van sửa chữa.

4.5.7. Chiều dài sàn lắp ráp được xác định theo kích thước của diện tích cần thiết để sắp đặt các chi tiết của một tổ máy và để sửa chữa máy biến áp (nếu việc sửa chữa được dự kiến tiến hành trên sàn này). Cần xét tới khả năng sử dụng một phần diện tích gian máy để phục vụ cho công tác lắp ráp.

4.5.8. Ở những trạm thủy điện kiểu kênh dẫn, kiểu kè đập hoặc trạm bơm có đường dẫn áp lực bằng bê tông cốt thép hoặc các đường dẫn nằm trong khối bê tông của đập, mà sự phá hoại của chúng không mang tính chất nguy hiểm thì việc bảo vệ như trạm tránh dòng chảy sự cố không cần phải đặt ra.

Trường hợp ống dẫn áp lực bằng thép (hoặc gỗ), trong thiết kế phải dự kiến biện pháp bảo vệ trạm tránh hậu quả sự cố đường ống dẫn. Những biện pháp đó là:

- Bố trí nhà trạm và ống dẫn sao cho loại trừ khả năng dòng chảy sự cố chảy vào nhà trạm.

- Xây dựng tường hoặc kết cấu hướng dòng riêng để lái dòng chảy sự cố khỏi xô vào nhà trạm.

4.5.9. Khi thiết kế trạm thủy điện ở vùng núi có thể bố trí gian máy ngầm và dẫn kiểu đường hầm, nếu các chỉ tiêu kinh tế kĩ thuật của các phương án bố trí công trình hở và ngầm cùng giá trị.

4.5.10. Khi thiết kế lớp bọc lót (áo) của gian hầm ngầm thuộc đầu mối trạm, cần phải tuân thủ những yêu cầu của các tiêu chuẩn thiết kế đường hầm thủy công tương ứng.

4.5.11. Trong nhà trạm ngầm phải dự kiến hệ thống gió để đảm bảo dự khai thác bình thường của trạm.

4.5.12. Khi thiết kế các nhà trạm ngầm, phải dự kiến, những hành lang và giếng vận chuyển để có thể cơ giới hoá việc vận chuyển thiết bị, vật liệu nhân viên quản lý. Phải dự kiến đường đi bộ hoặc cầu thang để tăng lối ra bên ngoài cho các nhân viên quản lý.

4.5.13. Theo điều kiện có thể, cần thiết kế hành lang vận chuyển nằm ngang. Hành lang và giếng vận chuyển phải nối với sàn lắp ráp. Đường cáp cần kết hợp với hành lang và giếng vận chuyển.

4.5.14. Chế độ thủy lực trong đường hầm tháo với mọi mực nước ở hạ lưu phải ổn định hoặc có áp hoặc không áp. Chế độ thay đổi từ có áp sang không áp hoặc ngược lại ở trong đường hầm tháo chỉ được phép xảy ra trong thời gian ngắn, khi có luận chứng thỏa đáng.

4.5.15. Trong đường hầm tháo phải dự kiến đường không khí vào hầm với mọi chế độ làm việc.

4.5.16. Việc chọn vị trí đặt thiết bị điện ngầm dưới đất, hoặc trên mặt đất phải được luận chứng bằng cách so sánh kinh tế kĩ thuật các phương án.

4.5.17. Thiết bị phân phối điện áp của máy phát và như cầu từ dùng, cũng như trạm điều khiển trung lâm trong trường hợp bố trí chúng ngầm dưới đất, theo khả năng có thể, cần bố trí chúng trong gian nhà máy mà không làm tăng kích thước mặt bằng chính, trong những trường hợp cần thiết, thì làm ngách riêng để bố trí thiết bị và máy móc.

4.5.18. Cần bố trí các phòng sản xuất phụ trợ trên mặt đất, khi không có những yêu cầu cần đặc biệt.

4.5.19. Tất cả các phòng của hệ thống đầu trong trạm thủy điện phải bố trí trên mặt đất.

4.5.20. Khi thiết kế trạm bơm, phải dự kiến cấp đủ nước theo dung lượng yêu cầu tương ứng với biểu đồ cấp nước cho kênh, phù hợp với mọi chế độ làm việc của hệ thống bơm chuyển.

Dung lượng và biểu đồ cấp nước cho kênh, công suất của trạm bơm được xác định thông qua tính toán cân bằng thủy lợi của hệ thống bơm chuyển có xét đến.

- Dung lượng và chế độ dùng nước, tổn thất lượng nước trong hệ thống bơm chuyển, khả năng dẫn và điều chỉnh của hệ thống, sơ đồ khai thác được.

- Các thông số thủy văn của nguồn nước.

- Sự đảm bảo lưu lượng cần thiết ở nguồn cho công trình thu nước ở phía dưới hồ.

4.5.21. Các trạm bơm phải được phân loại theo cột nước và các thiết bị bơm chính. Các trạm bơm khác kiểu máy cùng đặt trên một tuyến kênh chỉ được phép khi có luận chứng thỏa đáng.

4.5.22. Khi thiết kế chế độ làm việc của các trạm bơm có công suất lớn hơn 10.000KW, tư cách là một hộ tiêu thụ điều chỉnh công suất của hệ thống năng lượng.

4.5.23. Khi bố trí động cơ điện của nhà máy bơm chính thấp hơn mực nước lớn nhất ở bể chứa, phải dự kiến thiết bị nhằm loại trừ khả năng động cơ bị ngập do nước.

4.5.24. Khi thiết kế các công trình chuyển nước của trạm bơm cần đảm bảo chế độ chảy thuận, bằng cách tản dòng chảy, bằng cách phân bố lại và giảm nhỏ lưu tốc dòng chảy và ngắt.

Trên công trình chuyển nước phải dự kiến đặt thiết bị nhằm đảm bảo ngắt từ ống dẫn nước không cho chảy vào kênh (cơlăppê ngược, cửa van sự cố, van phá chân không v.v...)

4.6. Hồ chứa

4.6.1. Tuổi thọ của hồ chứa có thể được xác định tùy thuộc vào cấp công trình (bảng 1 và 2) có tính đến đặc tính tái tạo bờ của hồ, đặc tính bùn cát, phù sa của dòng chảy, khả năng cải tạo hồ sau khi bị lấp đầy v.v... theo bảng 15.

Bảng 15

Cấp hồ chứa

Tuổi thọ (năm)

V

IV


III

II và I


75

100


150

200


4.6.2. Để giảm thiệt hại và tăng an toàn cho hồ chứa khi gặp điều kiện thời tiết bất thường, khi công trình trên tuyến áp lực có nguy cơ bị hỏng, sự cố, nên bố trí một công trình xả sâu, vừa rút bớt nước hồ khi cần thiết, vừa kết hợp xả bùn cát nhằm tăng luổi thọ cho hồ chứa hoặc tạo thuận lợi cho các cửa lấy nước kề bên hoặc dẫn dòng thi công mùa khô v.v...

4.6.3. Cần chọn lưu lượng của công trình xả sâu sao cho phù hợp với tốc độ tháo cho phép, không gây ra tình trạng sạt mái công trình đất và bờ dốc, vận tốc xói bùn cát đọng trước cống vào thời kỳ có lưu lượng thừa, lưu lượng dẫn dòng thi công v.v... và được quyết định trên cơ sở luận chứng kinh tế kĩ thuật.

4.6.4. Mực nước gia cường của hồ chứa cần phải được xác định trên cơ sở điều tiết dung tích từ mực nước dâng, bình thường trở lên (khi hồ có đặt dung tích phòng lũ thì xét từ mực nước phòng lũ trở lên) và lượng nước xả và tháo qua các công trình trong tuyến áp lực của hồ chứa nước theo mô hình lũ bất lợi nhất về phương diện đỉnh lũ hoặc tổng lượng lũ có xét đến khả năng xẩy ra lũ kép do ảnh hưởng của mua bão.

4.6.5. Trong đồ án thiết kế, cần dự kiến đầy đủ việc khai thác tài nguyên lòng hồ (khoáng sản, lâm sản v.v...) trước khi ngập nước và các vùng đất bán ngập nước và các vùng đất bán ngập trong từng chu kỳ điều tiết hồ chứa.

4.7. Công trình bảo vệ ở hồ chứa và hạ lưu đầu mối.

4.7.1. Các công trình bảo vệ ở hồ chứa nước và ở hạ lưu đầu mối (đê bao, công trình gia cố bờ v.v...) phải được dự kiến nhằm bảo vệ các vùng đất thuộc các đối tượng kinh lế quốc dân thành phố, xí nghiệp công nghiệp, đất nông nghiệp để cải thiện để cải thiện điều kiện vệ sinh của ao hồ v.v...) khỏi bị úng ngập và xói lở bờ.

4.7.2. Cấp của công trình bảo vệ (đê bao) được xác định theo tiêu chuẩn Việt Nam “Đê. Tiêu chuẩn phân cấp”.

4.7.3. Việc tính toán và cấu tạo đê bao cần tiến hành theo những tiêu chuẩn thiết kế loại công trình này.

Khi xác định cao trình của đỉnh đê cần tính đến khả năng dâng cao mực nước mặt chảy vào vùng được bảo vệ thu hẹp dòng chảy.

4.7.4. Chiều rộng của đê được chọn là tối thiểu xuất phát từ điều kiện thi công và khai thác. Trong trường hợp sử dụng đỉnh đê làm đường ôtô thì bề rộng của đỉnh lấy theo tiêu chuẩn đường giao thông hiện hành.

4.7.5. Trong tính toán chọn công suất của trạm bơm dùng để bơm nước mặt chảy vào vùng được bảo vệ, cần phải tính đến khả năng tích lại một phần của dòng chảy đó.

4.7.6. Thiết kế gia cố bờ phải được nghiên cứu có xét đến việc dự báo tái tạo bờ và sự đảm bảo ổn định chung của đoạn bờ phải bảo vệ.



4.7.7. Nếu vùng đất bảo vệ bị ngập úng, cần phải dự kiến thiết lập mạng lưới hố khoan trắc diễn biến của nước ngầm.

tải về 303.83 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương