Tôi xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn, giúp đỡ của cô giáo Lê Thị Thanh trong thời gian tôi thực hiện khoá luận



tải về 394.39 Kb.
trang2/5
Chuyển đổi dữ liệu19.08.2016
Kích394.39 Kb.
#23022
1   2   3   4   5

3. Các quy định của Nhà nước
Nhà nước đóng vai trò thiết lập "luật chơi". Do vậy, việc tạo ra một môi trường canh tranh lành mạnh, một hàng lang pháp lý và các quy định khung có ảnh hưởng lớn tới các thành viên tham gia dịch vụ này, từ đó quyết định sự phát triển nhanh và đúng hướng của dịch vụ "Ngân hàng điện tử".
"Ngân hàng điện tử" chỉ có thể thành công rực rỡ khi giới cần quyền ở tất cả các quốc gia đồng ý cho phép tạo điều kiện và bảo vệ loại hình dịch vụ này
Trước hết chính phủ phải quyết định xem xét thương mại điện tử nói chung và "Ngân hàng điện tử" nói riêng là cơ hội hay hiểm họa. Điều đó không dễ vì không phải quốc gia nào cũng đồng ý với ý tưởng " toàn cầu hoá". Ngay một nước hiện đại như Pháp cũng phải tới năm 97-98 mới quyết định tuyên bố Internet là một cơ hội.
Còn ở Việt Nam, do một số lý do chính trị mà nền kinh tế nước ta chưa thực sự "mở". Để bảo hộ nền công nghiệp còn quá non trẻ trước sự cạnh tranh khốc liệt, để duy trì một môi trường tài chính ổn định, Chính phủ nước ta đã phải đưa ra các quy định về quản lý ngoại hối. Mà các quy định này cũng ảnh hưởng không nhỏ tới "Ngân hàng điện tử" nơi diễn ra các hoạt động tài chính qua biên giới.
Việc đầu tiên phải làm của Chính phủ đối với "Ngân hàng điện tử" là:


  • Thừa nhận tính pháp lý của các giao dịch "Ngân hàng điện tử"

- Thừa nhận tính pháp lý của chữ ký điện tử (tức chữ ký dưới dạng số đặt vào một thông điệp dữ liệu), chữ ký số hoá ( tức biện pháp biến đổi nội dung một thông điệp dữ liệu, khi dùng mã khoá để giải mới thu được nội dung thật của thông điệp dữ liệu) và có các thiết chế pháp lý, cơ quan pháp lý thích hợp cho việc xác nhận chữ ký điện tử và chữ ký số hoá.

- Bảo vệ pháp lý các thanh toán điện tử (bao gồm cả pháp chế hoá các tổ chức phát hành và chấp nhận các loại thẻ thanh toán).

- Bảo vệ pháp lý đối với mạng thông tin, chống tội phạm, chống gian lận.

Nhà nước sẽ phải định hình một chiến lược chung về hình thành phát triển "Ngân hàng điện tử", tiếp đó là các chính sách, đạo luật và các quy định cụ thể tương ứng được phản ảnh trong toàn bộ chỉnh thể của hệ thống luật.



III. Xu hướng và kinh nghiệm phát triển của dịch vụ ngân hàng điện tử trên thế giới
1. "Ngân hàng điện tử " trên thế giới
Sự phát triển nhanh chóng của công nghệ thông tin và khoa học viễn thông cùng với tiến trình toàn cầu hoá đã gây một ảnh hưởng lớn trong ngành tài chính ngân hàng. Ngành ngân hàng đã đóng một vai trò quan trọng trong việc cho ra đời một loạt các dịch vụ sản phẩm mới như tiền điện tử, "ví điện tử". Đến lượt "Ngân hàng điện tử" lại giúp cho ngành ngân hàng vượt qua những hạn chế mà hình thức dịch vụ ngân hàng truyền thống không thể làm được. "Ngân hàng điện tử" là một xu hướng tất yếu nhằm tạo ra cho các ngân hàng một sức cạnh tranh trong kỷ nguyên bùng nổ công nghệ thông tin này. "Ngân hàng điện tử" chính là cuộc cách mạng trong ngành ngân hàng.
"Ngân hàng điện tử", đặc biệt là Internet banking, sản phẩm mới nhất gần đây được tung ra sẽ gây một ảnh hưởng đáng kể trong thị trường tài chính ngân hàng.
Internet là một công nghệ phát triển nhanh. Nó làm thay đổi hoàn toàn Cách sống và làm việc của tất cả mọi người. Năm 1991 mới có 31 nước nối mạng Internet, tới năm 1997 đã có 171 nước; số trang Web vào giữa năm 1993 là 130, tới cuối năm 1998 đã lên tới 3,69 triệu; giữa năm 1996 có 12,9 triệu địa chỉ Internet với khoảng 67,5 triệu người sử dụng, giữa năm 1998 đã có 36,7 triệu địa chỉ Internet với khoảng 100 triệu người sử dụng. Theo dự báo , số người sử dụng Internet trên toàn thế giới năm 2005 sẽ lên tới 1 tỷ người. Dịch vụ ngân hàng qua Internet bắt đầu xuất hiện vào cuối những năm 90. Tới nay, chủ yếu các giao dịch ngân hàng là qua Internet.
"Ngân hàng điện tử" đã tìm ra thị trường đầy tiềm năng và tương lai rực rỡ của nó. Dĩ nhiên là bởi những tiến bộ của nó mang lại. Ngày nay, mỗi người mua hàng hoá hay dịch vụ, nhận tiền lương thưởng chỉ cần ghi lại trong tài khoản của họ. Đồng tiền ngày nay đơn giản chỉ là những thông tin được truyền tự động. Sự thống trị của đồng tiền điện tử trên thị trường thương mại điện tử thế giới chính là bằng chứng của sự phát triển "Ngân hàng điện tử".
Theo thống kê của International Data Corp (IDC), có tới 10 triệu người sử dụng "Ngân hàng điện tử". Con số này dự tính lên tới 30 triệu người trong vòng vài năm tới. Doanh số trung bình dịch vụ "Ngân hàng điện tử" vào năm 1997 là USD 8 tỷ, 1998 là USD 14 tỷ, 1999 là USD 31 tỷ và tới 2002 là USD 90 tỷ.
Tuy nhiên, do hoàn cảnh đặc thù về chính trị xã hội, một số nước vẫn còn có các hoạt động kiểm soát Internet. Do vậy làm hạn chế sự phát triển của "Ngân hàng điện tử".
2. Dịch vụ "Ngân hàng điện tử" ở một số nước
2.1 Trung Quốc
Nỗ lực của Trung Quốc tập trung chủ yếu vào xây dựng hạ tầng cơ sở cho công nghệ thông tin. Công suất sản xuất máy tính điện tử cá nhân năm 1998 đạt tới 8,5 triệu cái/năm. 4 công ty máy tính điện tử hàng đầu của Trung Quốc đều có sức cạnh tranh với IBM, COMPAQ, HP, trên thị trường nội địa. Công nghệ phần cứng đạt tốc độ tăng khoảng 45%/năm. Công nghệ phần mềm tăng 20%/năm.
Tuy vậy, Trung Quốc bước vào "Ngân hàng điện tử" rất chậm. Cuối năm 1997 mới chính thức ra nhập Internet. Trung Quốc đòi hỏi người sử dụng Internet phải đăng ký với công an.
Do chính sách bảo hộ công nghiệp và kiểm soát ngoại tệ, các dịch vụ phát hành và thanh toán thẻ ở Trung Quốc cũn bị hạn chế. Tỷ lệ thanh toán thẻ tăng 7,8%/năm.
2.2 Các nước ASEAN
"Ngân hàng điện tử" ở các nước A SEAN phát triển hơn.
2.2.1. Singapore
Singapore, là một trong những nước áp dụng thanh toán điện tử đầu tiên trên thế giới. Tháng 12/1996, nhân phiên họp khai mạc cấp bộ trưởng WTO tổ chức ở Singapore, Singapore đã chính thức khai trương việc ứng dụng toàn diện các loại thẻ, thẻ ghi nợ, thẻ tiền mặt internet, thẻ thông minh, thẻ mua hàng diện tử, túi tiền điện tử. Hệ thống giao dịch điện tử an toàn manh tính quốc tế (Network for Electronic Transfers) thành lập tháng 4/1997 đã được đưa vào sử dụng toàn diện cuối năm 1998. Singapore đã đưa lên internet 30 chương trình phần mềm ứng dụng chuyên phục vụ thương mại điện tử.
Có tới hơn 10,000 điểm bán hàng trên hòn đảo này được lắp đặt thiết bị thanh toán thẻ ghi nợ.
Tuy nhiên, phát hành thẻ tín dụng lại hạn chế. Chính sách quản lý tiền tệ ở Singapore quy định cá nhân từ 21 tuổi trở lên và có thu nhập SGD 30,000 /năm mới được mua thẻ tín dụng. Hạn mức tín dụng tối đa là 2 tháng lương. Cho tới năm 2000, số lượng thẻ tín dụng phát hành là 2,5 triệu thẻ. Ngoài ra còn có các thẻ khác như thẻ thông minh, thẻ mua hàng…Thanh toán điện tử là một phần nằm trong "kế hoạch tổng thể về thương mại điện tử ở Singapore. Một loạt các văn kiện quan trọng có liên quan đã ra đời nhằm điều chỉnh hoạt động này như "Luật giao dịch điện tử, "luật chống lạm dụng máy tính điện tử... Luật bản quyền cũng được sửa đổi lại.
2.2.2. Malaysia
Thanh toán điện tử ở nước này rất phát triển. Đặc biệt là thanh toán thẻ. 3,5 triệu thẻ tín dụng dược phát hành. Ngân hàng có vốn đầu tư nước ngoài chiếm 55% thị phần. Nhưng hệ thống dày đặc máy rút tiền tự động là của các ngân hàng trong nước.
Tuy nhiên, tỷ lệ gian lận trong thanh toán thẻ ở nước này được xếp vào lại cao trong khu vực Asia Pacific.

2.2.3. Philippin
Internet thâm nhập vào Philippin khá sớm: năm 1996, ở Philippin có 53,000 người sử dụng Internet, năm 1997 đã lên tới 85,000 người và 2001 có tới 0,7 triệu người sử dụng Internet.
Các phương tiện truyền thông khác cũng phát triển.Ví dụ 1996 toàn quốc có 1,35 triệu thuê bao điện thoại, năm 1998 đã lên tới 5,49 triệu. Tỷ trọng người mua hàng bán lẻ qua Internet chiếm 1,8% với tổng giá trị USD 151 triệu. 17 triệu thẻ được phát hành bao gồm thẻ tín dụng, thẻ ghi nợ...Hệ thống ATM và thiết bị chấp nhận thẻ rất phổ biến. Tuy nhiên hệ thống luật và một chiến lược đặc thù về ngân hàng điện tử thì chưa có một cách rõ ràng.
"Ngân hàng điện tử" ở các nước ASEAN bắt đầu xuất hiện. Nhưng chỉ phát triển mạnh ở một số nước và chủ yếu vẫn còn trong lĩnh vực nội địa. Nhìn chung các nước thành viên còn đang đứng trước tìng trạng yếu kém về cơ sở hạ tầng thông tin, cơ sở hạ tầng pháp lý tài chính. "Ngân hàng điện tử" của ASEAN đang còn trong giai đoạn "nghiên cứu" để tìm đường phối hợp chuyển giao công nghệ và hợp tác kỹ thuật với nhau, thực sự tham gia thanh toán điện tử với nhau và với các nước khác.

Chương II: Năng lực của hệ thống ngân hàng Việt Nam trong việc triển khai dịch vụ ngân hàng điện tử
I. Sơ lược hệ thống các ngân hàng Việt Nam

1. Cơ cấu và tổ chức của các ngân hàng Việt Nam
Vào cuối những năm 80, trước khi có các chính sách "đổi mới", ngân hàng nhà nước chiếm vai trò chủ đạo. Mọi giao dịch tài chính ngân hàng đều thực hiện bởi ngân hàng nhà nước. Qua quá trình "đổi mới", nhằm thúc đẩy đầu tư trong nước và nước ngoài, hệ thống ngân hàng Việt Nam đã dần dần phát triển đi đôi với việc hình thành các quy định khung về tài chính ngân hàng.
Năm 1988, hệ thống ngân hàng Việt Nam chia thành hai cấp: Ngân hàng Trung ương và các ngân hàng thương mại. Năm 1990, Chính phủ đã tiến hành nhiều các chính sách cải cách ngân hàng nhằm mở rộng cơ cấu hệ thống và nâng cao hoạt động hiệu quả của hệ thống ngân hàng Việt Nam. Cho tới nay, đã có 4 ngân hàng thương mại quốc doanh, 43 ngân hàng thương mại cổ phần, 4 ngân hàng liên doanh, 27 chi nhánh ngân hàng nước ngoài, 53 văn phòng đại diện các ngân hàng nước ngoài và 153 quỹ tín dụng nhân dân đang hoạt động.
Bốn ngân hàng quốc doanh đóng vai trò chủ đạo trong ngành ngân hàng, chiếm 74 % thị trường cho vay ( chủ yếu là cho các doanh nghiệp nhà nước vay). Các ngân hàng cổ phần, sau 3 năm hợp lý hoá theo hướng của ngân hàng nhà nước chiếm 15% thị trường cho vay ( chủ yếu là các doanh nghiệp tư nhân). Các ngân hàng khác và quỹ tín dụng nhân dân chỉ chiếm một thị phần nhỏ.

Hệ thống ngân hàng quốc doanh chiếm ưu thế trên thị trường không chỉ bởi quy mô lớn mà còn bởi họ có những đặc quyền do chính phủ phân định. Họ được hưởng nhiều các chính sách ưu đãi, được sự đầu tư hỗ trợ của chính phủ. Điều này dẫn đến cơ cấu hiện nay là họ nắm giữ phần lớn vốn đầu tư và các khoản tiền gửi lớn của doanh ngiệp nhà nước và các doanh nghiệp tư nhân.


Năm 1992, Các ngân hàng nước ngoài được phép mở chi nhánh hoạt động tại Việt Nam. Mặc dù vậy, sự tham gia của ngân hàng nước ngoài vào thị trường tài chính Việt Nam còn bị hạn chế rất nhiều do các chính sách bảo hộ ngân hàng trong nước của chính phủ Việt Nam. Phần lớn các khoản vay đều dành cho các doanh nghiệp quốc doanh và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Thời hạn đăng ký hoạt động tại Việt Nam của các ngân hàng nước ngoài là 20 năm, của các ngân hàng liên doanh (vốn đầu tư nước ngoài chiếm tối đa là 50%) là 30 năm. Việc gia hạn giấy phép hoạt động kinh doanh sẽ do chính phủ xét duyệt trong từng trường hợp. Hiện nay, các chi nhánh ngân hàng nước ngòai không được phép huy động tiền gửi ngoại tệ từ cá nhân người Việt Nam. Kể từ tháng 11 năm 2001, các ngân hàng liên doanh được phép huy động tiền gửi ngoại tệ cá nhân người Việt Nam song không quá 50% vốn.
Các ngân hàng thương mại cổ phần đang trong quá trình cơ cấu lại nhằm giải quyết một số vấn đề về tài chính như đọng vốn, nợ khó đòi...Một số các ngân hàng nhỏ được sáp nhập lại thành ngân hàng lớn hơn nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động. Trong những năm qua, 8 ngân hàng thương mại cổ phần đã được sáp nhập làm tổng số ngân hàng cổ phần giảm từ 51 ngân hàng còn 43 ngân hàng. Chính phủ cũng đã tiến hành cơ cấu lại vốn cho các ngân hàng cổ phần. Ngoài các ngân hàng có số vốn từ 200 đến 300 tỷ đồng, Vốn trung bình của các ngân hàng ở thành thị là 100 tỷ đồng và các ngân hàng ở nông thôn là 5 tỷ đồng. Theo Thống Đốc Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam, số lượng các ngân hàng cổ phần trong những năm tới chỉ còn từ 25 đến 30 ngân hàng. Việc này khuyến khích các ngân hàng nhỏ sáp nhập lại nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động.
Hiện đại hóa hệ thống ngân hàng Việt Nam đang là một vấn đề hết sức bức thiết. Hệ thống ngân hàng Việt Nam đang đòi hỏi một sự hỗ trợ tạo ra một lực mới nhằm đáp ứng những thách thức mới trong quá trình tự do hoá thương mại.
2. Sơ lược hoạt động của hệ thống ngân hàng Việt Nam
Hoạt động hệ thống ngân hàng Việt Nam không lấy gì sáng sủa. Theo lời mời của chính phủ nước ta, phái đoàn FITCH đã đến thăm Việt Nam vào tháng 4 năm 2002. Theo đánh giá của FITCH, rất nhiều ngân hàng Việt Nam rơi vào loại yếu kém.
Xếp loại E là ngân hàng Đầu Tư và Phát Triển (BIDV) và ngân hàng Công Thương Việt Nam (VIETINCOMBANK). Ngân Hàng Ngoại Thương Việt Nam (Vietcombank) xếp loại D. Nghĩa là cao hơn hai ngân hàng kia một chút cả về năng lực tài chính lẫn quản lý. Loại D cũng đánh giá cho ngân hàng Sai Gòn Thương Tín (Sacombank), Ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu (ACB) và VID Public bank. Ngân Hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn không được đưa ra xếp loại vì nó chưa hoàn toàn tách khỏi ngân hàng dành cho người nghèo.
Theo FITCH, loại A cho ngân hàng rất mạnh, loại B cho Ngân hàng mạnh, loại C cho ngân hàng trung bình, loại D cho ngân hàng yếu kém và loại E cho ngân hàng thực sự có những vấn đề nghiêm trọng đòi hỏi sự giúp đỡ hỗ trợ.
Nguyên nhân của tình trạng hoạt động yếu kém của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam là do khả năng quản lý kém, sản phẩm dịch vụ nghèo nàn, bộ máy hành chính cồng kềnh, hệ thống quản lý thông tin yếu kém, quy định lỏng lẻo.
Trong nhiều năm gần đây, hệ thống ngân hàng Việt Nam đã tiến hành nhiều biện pháp đổi mới. Một trong những vấn đề được đặt ra là thiếu vốn pháp định. Điều này gây cản trở rất nhiều cho các các ngân hàng trong việc cho vay các dự án lớn. Tổng vốn pháp định của 4 ngân hàng thương mại quốc doanh (chiếm 74 % thị truờng cho vay) là 3.300 tỷ đồng. Trong khi đó, quy định hiện hành chỉ cho phép vay không quá 15% vốn pháp định. Rất nhiều các dự án cần vốn vay lớn như giao thông, bưu chính viễn thông, điện, xăng dầu và thép.
Một vấn đề khác đó là vốn đầu tư thấp. Đặc biệt là đối với các ngân hàng cổ phần. Điều này không cho phép họ đầu tư vào các công nghệ hiện đại nhằm giảm chi phí và đa dạng hoá sản phẩm. Ví dụ như giá một chiếc máy rút tiền tự động là USD 30.000 (450 triệu đồng). Một ngân hàng với vốn pháp định 65 tỷ đồng thì không thể đầu tư cho một hệ thống ATM. Tuy nhiên tình hình này có phần được cải thiện từ sau khi nhà nước quyết định cơ cấu lại vốn cho các ngân hàng cổ phần.
Mối lo ngại lớn nhất trong hệ thống ngân hàng Việt Nam bây giờ là hoạt động cho vay kém hiệu quả. Hầu hết các khoản vay là của 4 ngân hàng quốc doanh. Những khoản vay này đều là cho các doanh nghiệp nhà nước và thường chẳng mang lại chút lợi nhuận nào. Một nguyên nhân dẫn đến nợ khó đòi là cơ cấu quản lý chồng chéo. Giám đốc ngân hàng thương mại không những chịu sự quản lý của ngân hàng trung ương mà còn bị ảnh hưởng bởi chính quyền địa phương các cấp.
Do vậy hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại đôi khi đi theo hướng kinh tế địa phương. Còn các ngân hàng cổ phần thì vẫn tiếp tục bị áp đặt nhiều chính sách quản lý của ngân hàng nhà nước.
Do chính sách hạn chế, các ngân hàng nước ngoài và ngân hàng liên doanh chỉ chiếm 10,6% tổng số tiền gửi và 9% thị trường cho vay. Ấy vậy mà lợi nhuận nhóm này thu được lại gấp đôi các ngân hàng trong nước.
Thêm vào đó, Hệ thống ngân hàng Việt Nam đang phải đối mặt với sự cạnh tranh khốc liệt. Rất nhiều các tổ chức khác như bảo hiểm , bưu điện cũng tham gia vào việc huy động vốn. Rất nhiều tổ chức tín dụng sử dụng vốn đầu tư vào bất động sản, nguy cơ "đóng băng về vốn" là rất cao.
Nhằm quản lý chặt chẽ toàn bộ ngành ngân hàng, Ngân Hàng Nhà Nước đang xét lại toàn bộ hệ thống báo cáo bắt buộc. Các báo cáo thường niên phải được xuất trình Ngân Hàng Nhà Nước kể từ khi kết thúc năm tài khoá (31 tháng 12) trong vòng 90 ngày đối với ngân hàng trong nước và 180 ngày đối với ngân hàng nước ngoài. Thanh tra nội bộ và thanh tra chéo là bắt buộc. Việc lựa chọn cơ quan kiểm toán là do Ngân Hàng Nhà Nước xét duyệt. Đi đôi với các hoạt động kiểm soát, Ngân Hàng Nhà Nước cho phép ngân hàng nước ngoài và các ngân hàng cổ phần đăng ký và đưa vào sử dụng một số dịch vụ mới nhằm nâng cao nhận thức về dịch vụ ngân hàng trong dân.
Như trên đã đề cập, hệ thống ngân hàng trung ương và thương mại Việt Nam mới thực sự hoạt động từ năm 1988. Cho tới nay, đó chỉ là một quãng thời gian quá ngắn ngủi so với lịch sử phát triển ngành ngân hàng trên thế giới. Theo ông Nguyễn Thanh Toại, giám đốc ngân hàng Thương Mại Cổ Phần Á Châu, một ngân hàng phát triển trên thế giới có thể cung cấp khoảng 6000 loại hình dịch vụ và sản phẩm. Trong khi đó hệ thống ngân hàng Việt Nam mới chỉ cung cấp khoảng 200 sản phẩm và dịch vụ. Trong thời gian tới, hi vọng bằng các chính sách cứng rắn và linh hoạt của Chinh phủ và Ngân Hàng Nhà Nước, hẹ thống ngân hàng Việt Nam sẽ từng bước được cải thiện và hoạt động có hiệu quả.
II. Thực trạng triển khai dịch vụ ngân hàng điện tử tại Việt Nam
1. Quá trình phát triển hệ thống thanh toán của ngân hàng ở Việt Nam
Thanh toán tài chính trực tuyến qua mạng (On-line) cho các dịch vụ ngân hàng ở Việt Nam còn vô cùng non trẻ. Đại bộ phận nhân viên ngân hàng trong những năm đầu thập niên 90 còn vô cùng bỡ ngỡ trước hệ thống máy tính điện tử. Cả người cung cấp và người sử dụng dịch vụ ngân hàng khó có thể bỏ qua một loạt giấy tờ để thay thế đó bằng một chiếc máy tính. Chữ ký điện tử là điều vô cùng xa lạ. Việc rút tiền từ một chiếc máy tự động mà không có sự chứng kiến của nhân viên ngân hàng thì cũng thấy khó yên tâm.
Công nghệ tin học thông tin phát triển như một cơn bão làm thay đổi tất cả, và thanh toán trong hệ thống ngân hàng không nằm ngoài sự phát triển đó.
Năm 1992:
* Giao dịch thanh toán qua máy tính điện tử đầu tiên ở Việt Nam là ở Ngân hàng Công Thương (Incombank)
* Tiếp theo là Vietcombank, các ngân hàng khác và Ngân Hàng Nhà Nước.
* Chính sách “mở cửa” làm xuất hiện chi nhánh của các ngân hàng nước ngoài. Các ngân hàng này mang theo một loạt công nghệ ngân hàng hiện đại của nước ngoài vào Việt Nam. Trước nhu cầu đổi tiền và mua hàng hoá dịch vụ bằng thẻ tín dụng, các ngân hàng nước ngoài đã đi tiên phong trong lĩnh vực này. Kế đến là Vietcombank. Một loạt các đại lý ngân hàng chấp nhận thẻ tín dụng nhằm phục vụ du lịch như nhà hàng, khách sạn, bán vé máy bay, quầy thu đổi ngoại tệ xuất hiện.
Năm 1995:
Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam, 4 ngân hàng thương mại quốc doanh (Vietcombank, Incombank, BIDV và VBARD) và 2 ngân hàng cổ phần tham gia vào hệ thống thanh toán liên ngân hàng quốc tế - SWIFT. Thanh toán bù trừ giữa các ngân hàng và tín dụng thư trong thanh toán quốc tế được cải thiện đáng kể (giảm giấy tờ, rút ngắn thời gian và chính xác).
Năm 1996:
* Vietcombank phát hành tấm thẻ nhựa đầu tiên
* Ngân Hàng Hồng Kông và Thượng hải (HSBC) đưa vào sử dụng chiếc mát rút tiền tự động (ATM) đầu tiên tại Việt Nam
Năm 1997:
* Vietcombank phát hành thẻ tín dụng

* Ban hành quy chế phát hành sử dụng và thanh toán thẻ ngân hàng



Năm 2002:
* Ngân Hàng Cổ Phần Á Châu (ACB) giới thiệu về dịch vụ ngân hàng qua Internet

* Dự thảo Luật Thương Mại Điện Tử Việt Nam

* Quyết định 44 của Chính phủ công nhận chữ ký điện tử trong chuyển tiền điện tử

* Thị trường liên ngân hàng điện tử trung ương đi vào hoạt động
2. Các loại hình dịch vụ ngân hàng điện tử:
Trong vòng một thời gian ngắn, từ 1992 đến nay, một loạt dịch vụ mới gọi là dịch vụ ngân hàng điện tử đã rađời.
2
.1 Thanh toán thẻ




Dịch vụ chấp nhận thẻ bắt đầu xuất hiện từ năm 1992. Xuất phát từ nhu cầu của khách du lịch tới Việt Nam. Họ mang theo thẻ tín dụng quốc tế: Visa, Mastercard, Amex, JCB, Diner Club...Các ngân hàng cung cấp dịch vụ rút tiền bằng thẻ tín dụng đầu tiên là Vietcombank, Incombank.


Tiếp theo là sự xuất hiện các đại lý ngân hàng thanh toán thẻ. Là những địa điểm có liên quan tới dịch vụ du lịch như sân bay, phòng vé máy bay, nhà hàng, khách sạn, cửa hàng bán đồ lưu niệm. Ngân hàng ký một hợp đồng thanh toán thẻ với các doanh nghiệp này. Ngân hàng tiến hành lắp đặt tại các đại lý thiết bị điện tử chấp nhận thanh toán thẻ. Nhờ vậy khách du lịch nước ngoài có thể trả cho hàng hoá hoặc dịch vụ bằng thẻ tín dụng.
Máy thanh toán thẻ điện tử là một thiết bị đọc từ được kết nối với mạng ngân hàng chấp nhận thẻ và các ngân hàng phát hành thẻ trên thế giới. Nó cho phép đọc và truyền các thông tin của chủ sở hữu thẻ về tới các ngân hàng phát hành thẻ. Các giao dịch tài chính nhờ vậy mà được thực hiện và ghi lại trên tài khoản chủ sở hữu thẻ tại ngân hàng phát hành thẻ.
Dưới đây là sơ đồ một giao dịch bằng thẻ:


MẠNG RIÊNG NGÂN HÀNG




HỆ THỐNG TTDT

NGÂN HÀNG PHÁT HÀNH THẺ


NGÂN HÀNG CHẤP NHẬN THẺ





INTERNET




THANH TOÁN


ĐẠI LÝ THANH TOÁN THẺ

CHỦ THẺ

Toàn Việt Nam hiện có khoảng 7000 đại lý thanh toán thẻ với tổng doanh số bán hàng bằng thẻ là USD 90 triệu/năm. Trong đó 48% là đại lý cho Vietcombank, 20% là đại lý cho ngân hàng ANZ, 15% cho ngân hàng United Over Sea Singapore (UOB), 10% cho ngân hàng Á châu (ACB) và 7% là của các ngân hàng khác.


Bảng 2: Sơ đồ thị phần thanh toán thẻ

Các đại lý thanh toán thẻ chủ yếu tập trung ở các thành phố lớn như Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, Huế, Đà Nẵng, Nha Trang, Thành Phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ, Vũng Tàu.


Vietcombank chiếm ưu thế cả về số lượng đại lý và doanh thu bán hàng. ACB là ngân hàng cổ phần Việt Nam duy nhất tham gia vào thị trường này, mặc dù chỉ chiếm một thị phần khiêm tốn. So với Việtcombank và một số ngân hàng khác được sự đầu tư rất lớn về trang thiết bị thanh toán thẻ, ACB quả là một ngân hàng hoạt động tương đối hiệu quả bằng chính sự nỗ lực của mình.

Bảng 3: Số lượng đại lí




3/98

3/99

3/00

3/01

3/02

Tỷ lệ tăng trưởng

Việt Nam


4,391

4,673

5,530

6,538

7,756

18,6%

Khu Vực AP

5,855,840

6,419,088

7,600,832

9,414,793

12,271,272

30,3%

(Nguồn: Báo cáo hàng quý Trung tâm Thẻ Visa & Mastercard)
Каталог: nonghocbucket -> UploadDocument server07 id24231 50525
UploadDocument server07 id24231 50525 -> Lời mở đầu 1 Chương 1: Sự phát triển của các hệ thống thông tin di động 3
UploadDocument server07 id24231 50525 -> ĐẠi học quốc gia thành phố HỒ chí minh trưỜng đẠi học kinh tế luậT
UploadDocument server07 id24231 50525 -> Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
UploadDocument server07 id24231 50525 -> Dự án vie/61/94 Hỗ trợ xúc tiến thương mại và phát triển xuất khẩu ở Việt Nam nguyên tắc marketing
UploadDocument server07 id24231 50525 -> MỤc lục phòng tổ chức nhân sự VÀ tiền lưƠng 11 phòng kiểm tra và kiểm toán nội bộ 12 trung tâm thông tin và CÔng nghệ tin họC 12
UploadDocument server07 id24231 50525 -> Tại các thị trường Nhật, eu, Hoa Kỳ
UploadDocument server07 id24231 50525 -> TÀi liệu tham khảo môn học tư TƯỞng hồ chí minh phần: Tập trích tác phẩm của Hồ Chí Minh TÀi liệU ĐỌc thêM
UploadDocument server07 id24231 50525 -> THỜi kì SƠ khai củA ĐIỆn từ HỌC: 2 những phát hiệN ĐẦu tiên về ĐIỆn và TỪ CỦa ngưỜi hy lạP: 2
UploadDocument server07 id24231 50525 -> MỤc lục danh mục bảng danh mục hình chưƠng I. TỔng quan về CÔng ty 1 SỰ HÌnh thành và phát triển của công ty

tải về 394.39 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương