Tại Gia Bồ Tát Giới Kinh (Ưu Bà Tắc Giới Kinh)



tải về 0.93 Mb.
trang9/24
Chuyển đổi dữ liệu04.08.2016
Kích0.93 Mb.
#12474
1   ...   5   6   7   8   9   10   11   12   ...   24

Phẩm Bảy - Phát Nguyện


 

Thiện Sinh bạch Phật: “Kính bạch Đức Thế Tôn! Ai là người có thể tu nghiệp ba mươi hai tướng?”  

Đức Phật bảo Thiện Sinh: “Thiện nam tử! Người trí có thể tu.”

- Kính bạch Đức Thế Tôn! Thế nào gọi là người trí?

- Thiện nam tử! Người trí là người có thể phát nguyện rộng lớn vô thượng.

Bậc Đại Bồ tát sau khi phát tâm, tất cả nghiệp lành của thân khẩu ý, đều hồi hướng, đều nguyện vì chúng sinh, nguyện trong tương lai được thành Phật, tất cả chúng sinh cũng được thành Phật. Bậc Đại Bồ tát thường gần gũi chư Phật, Thanh văn, Duyên giác, cùng những bậc thiện tri thức, cúng dường, cung kính, thưa hỏi Phật Pháp thâm sâu, thọ trì không xao lãng.

Các vị Đại Bồ tát ấy phát nguyện rằng: “Con nay gần gũi chư Phật, Thanh văn, Duyên giác, và bạn lành. Thà thọ vô lượng khổ não dữ dội, nhưng quyết không thoái chuyển đạo Bồ đề. Chúng sinh nếu dùng lòng độc ác đến đánh đập, chửi rủa, hủy nhục con, nguyện con nhờ nhân duyên nầy, tăng trưởng tâm từ bi, không sinh niệm ác. Nguyện con đời sau, bất cứ chỗ nào, đều không thọ thân người nữ, không căn, hai căn, hoặc làm thân nô tỳ. Lại nguyện thân con được sức lực tự tại để lĩnh đạo người khác, mà không để cho họ sai sử con. Nguyện thân con không bị tàn khuyết, xa lìa bạn ác, không sinh vào nước dữ, bộ lạc dã man, mà thường sinh vào dòng họ cao sang, dung nhan tuấn tú, của báu tự tại. Nguyện được tâm ý hiền hòa, tự tại, cương nghị và dũng mãnh, nếu nói ra điều gì, người nghe đều vui nhận. Nguyện xa lìa các chướng ngại, không còn phóng dật, lìa bỏ tất cả nghiệp ác của thân khẩu ý, thường vì chúng sinh mà làm tất cả sự lợi ích. Nguyện con vì muốn lợi ích chúng sinh, không tham tiếc thân mệnh, không vì thân mệnh mình mà tạo nghiệp ác, khi làm lợi cho chúng sinh, không cầu sự trả ơn. Nguyện thường hay thọ trì mười hai phần giáo, sau khi thọ trì, đem dạy người khác. Nguyện con có thể dẹp tan sai lầm và nghiệp ác của chúng sinh. Nguyện con đối với tất cả sự việc trên đời, không ai hơn được, sau khi được hơn tất cả, dùng phương tiện đó giáo hóa chúng sinh. Nguyện khéo trị các chứng bệnh nặng nơi thân tâm của chúng sinh. Nguyện khi thấy người chia ly, giúp cho hòa hợp, thấy người sợ hãi, tìm cách che chở, cứu vớt, kế đó nói pháp lành, khiến họ nghe xong, tâm ý nhu hòa phục thiện. Nguyện con khi thấy chúng sinh đói khát, bố thí thân mình, làm cho họ được no đủ, nguyện họ không sinh tâm tham ác, khi ăn thân nầy, nguyện họ không tham luyến, như ăn cây cỏ. Nguyện thường hay cúng dường sư trưởng, cha mẹ, bạn lành và bậc Hiền đức, đối người thân, kẻ thù, tâm thường bình đẳng. Nguyện thường tu pháp lục niệm, quán vô ngã, và mười hai nhân duyên. Nguyện con lúc không có ngôi Tam Bảo, thường ở nơi tịch tĩnh, tu tập tâm từ bi. Nguyện tất cả chúng sinh, hoặc nghe tên, hoặc nhìn thấy, hoặc xúc chạm vào thân con, đều được xa lìa phiền não.” Bồ tát tuy biết rằng, ngoại trừ quả vị Vô thượng Bồ đề, không nên cầu quả báo nào khác, thế nhưng vì chúng sinh nên vẫn mong cầu, hầu làm lợi ích rộng lớn cho họ.

Thiện nam tử! Bồ tát nếu lập đại nguyện như vậy, phải biết người đó là vị trưởng giả đầy đủ vô thượng pháp tài, đang cầu ngôi vị Pháp vương mà chưa được.

Thiện nam tử! (1) Bậc Đại Bồ tát làm tròn ba việc thì được gọi là vị trưởng giả đầy đủ pháp tài: một là tâm không ưa thích kinh điển ngoại đạo; hai là tâm không tham luyến cảnh vui sinh tử; ba là thường ưa thích cúng dường Tam Bảo. (2) Lại có ba việc: một là vì chúng sinh thọ khổ, tâm không hối hận; hai là đầy đủ trí tuệ vi diệu vô thượng; ba là khi đủ pháp lành, không sinh kiêu mạn. (3) Lại có ba việc: một là vì chúng sinh mà chịu khổ địa ngục, nhưng vẫn xem như thọ sự vui của cõi Tam thiền; hai là thấy người khác được lợi, tâm không sinh ghen ghét; ba là không vì quả báo trong sinh tử mà tạo nghiệp lành. (4) Lại có ba việc: một là thấy người thọ khổ, xem như chính mình thọ; hai là làm tất cả điều lành đều vì chúng sinh; ba là khéo lập phương tiện độ người thoát khổ. (5) Lại có ba việc: một là quán sát sự vui trong sinh tử xem như rắn độc; hai là ưa trong cảnh sinh tử làm lợi ích chúng sinh; ba là quán Vô sinh pháp nhẫn có nhiều công đức. (6) Lại có ba việc: một là vì lợi ích chúng sinh mà bố thí thân thể; hai là bố thí mạng sống; ba là bố thí của cải. (7) Lại có ba việc: một là nghe nhiều Phật pháp không nhàm chán; hai là nhẫn chịu cảnh ác; ba là dạy người khác tu nhẫn nhục. (8) Lại có ba việc: một là hay xét lỗi mình; hai là khéo che lỗi người; ba là ưa tu tâm từ. (9) Lại có ba việc: một là chí tâm thọ trì cấm giới; hai là dùng pháp Tứ nhiếp thâu phục chúng sinh; ba là lời nói dịu dàng không thô bạo. (10) Lại có ba việc: một là đem Phật pháp bố thí chúng sinh; hai là đem tài sản bố thí chúng sinh; ba là khuyến khích chúng sinh bố thí tài sản và Phật pháp. (11) Lại có ba việc: một là thường đem pháp Đại Thừa giáo hóa chúng sinh; hai là thường tu tập để thăng tiến; ba là không khinh mạn chúng sinh. (12) Lại có ba việc: một là dù đầy phiền não, nhưng vẫn nhẫn chịu được; hai là tuy biết phiền não nhiều lỗi lầm, lòng vẫn an vui không nhàm chán; ba là tuy mình còn đầy đủ phiền não, vẫn có thể diệt trừ phiền não cho người khác. (13) Lại có ba việc: một là thấy người được lợi, vui như mình được; hai là được sự an vui, không giữ riêng mình hưởng thọ; ba là đối giáo pháp Tiểu Thừa, không sinh tâm tự mãn. (14) Lại có ba việc: một là nghe sự khổ hạnh của Bồ tát, tâm không kinh sợ; hai là có người đến xin, không bao giờ từ chối; ba là không bao giờ nghĩ mình hơn tất cả.

Thiện nam tử! Bồ tát nếu quán nhân, quán quả, quán nhân quả, hay là quán quả nhân, Bồ tát đó có thể đoạn trừ nhân quả thế gian. Nếu Bồ tát có thể đoạn trừ nhân quả, chứng được nhân quả, thì gọi là pháp quả, là vua của các pháp, tự tại với các pháp.

Thiện nam tử! Bồ tát có hai hạng: một là tại gia, hai là xuất gia. Bồ tát xuất gia lập nguyện như vậy, điều này không khó. Bồ tát tại gia lập nguyện như vậy, điều này mới khó. Vì sao? Vì người tại gia bị nhiều ác duyên ràng buộc.

Phẩm Tám - Bồ Tát Giả Danh Bồ Tát Thực Nghĩa


 

Thiện Sinh bạch Phật: “Kính bạch Đức Thế Tôn! Như Đức Phật đã dạy, Bồ tát có hai hạng: một là Bồ tát giả danh, hai là Bồ tát thực nghĩa. Thế nào gọi là Bồ tát giả danh? (Thế nào là Bồ tát thực nghĩa?)”

- Thiện nam tử! Chúng sinh phát tâm Bồ Đề rồi, được gọi là Bồ tát giả danh, nếu ưa học pháp thuật, cùng đọc tụng kinh điển của ngoại đạo, lại đem pháp ấy giáo hóa chúng sinh. Không thích tu tâm Từ bi, vì thân mệnh mình  mà giết hại chúng sinh. Tham mê sinh tử, thường tạo nghiệp mong hưởng cảnh vui hữu lậu. Không có lòng tin, lại sinh tâm nghi ngờ Tam Bảo. Tham tiếc giữ gìn thân mệnh, không thể nhẫn nhục. Lời nói cộc cằn, hối hận, buông lung, sinh lòng tự khinh, nghĩ mình không thể được quả Vô Thượng Bồ Đề. Đối với phiền não, sinh lòng khiếp sợ, không chịu siêng tu phương tiện tiêu diệt phiền não. Thường sinh lòng bỏn sẻn, ganh ghét, giận dữ, gần gũi bạn ác, biếng nhác, loạn tâm. Ưa ở trong vô minh, không tin pháp Lục độ. Không chịu tu phước đức, không chịu quán sinh tử. Thường ưa nghe theo lời ác của người khác. Những người như vậy được gọi là Bồ tát giả danh.

Thiện nam tử! Lại có chúng sinh phát tâm mong cầu quả vị Vô Thượng Bồ Đề, nghe nói phải siêng năng tu tập gian khổ, trải qua vô lượng kiếp sau đó mới được, nghe rồi sinh lòng hối tiếc. Tuy thân tu hành đạo nghiệp, mà tâm không chân thực. Không biết hổ thẹn, không có lòng thương người. Hay thờ phụng ngoại đạo, giết dê tế trời. Dù có chút ít lòng tin, tâm không bền chắc. Vì sự vui ngũ dục mà tạo rất nhiều tội ác. Ỷ vào sắc đẹp, tuổi thọ và tài sản mà sinh tâm kiêu mạn. Hành động điên đảo, không đem lại lợi ích. Vì ham thú vui sinh tử mà bố thí, vì muốn sinh cõi trời mà giữ giới, vì muốn sống lâu mà tu thiền định. Những người như vậy gọi là Bồ tát giả danh.

Thiện nam tử! Bồ tát thực nghĩa là người có thể nghe hiểu nghĩa lý sâu xa, ưa gần bạn lành, ưa cúng dường sư trưởng, cha mẹ, bạn lành; ưa nghe mười hai phần giáo của Như Lai, thọ trì, đọc tụng, biên chép, suy tư nghĩa lý. Vì nhân duyên cầu Pháp, không tiếc thân mệnh, vợ con, của cải. Tâm ý kiên cố, thương xót chúng sinh. Nói lời dịu dàng, lời chào đón, lời chân thật. Không nói lời thô ác hoặc đâm thọc. Không tự khinh chiùnh mình. Bố thí rộng rãi không hề lưỡng lự. Thường ưa dùi mài lưỡi gươm trí tuệ. Học tập kinh sách ngoại đạo, chỉ vì muốn phá dẹp và siêu việt tà kiến. Rành rẽ phương tiện điều phục chúng sinh. Ở giữa đám đông, tâm không khiếp sợ. Thường dạy chúng sinh rằng đạo Bồ Đề dễ được, làm cho người nghe không sinh lòng lo sợ, mà siêng năng tu hành. Coi thường phiền não, không để cho phiền não lay động mình. Tâm không buông lung, thường tu nhẫn nhục. Vì muốn đắc quả vị Niết Bàn mà trì giới và tu tập tinh tiến. Nguyện làm người phục dịch cho chúng sinh, làm cho họ được an ổn, vui sướng. Vì người khác chịu khổ, tâm không sinh hối hận. Thấy người thoái thất tâm Bồ Đề, sinh lòng thương xót. Cứu vớt tất cả chúng sinh khổ não, quán sát lỗi lầm và tội ác của sinh tử. Có thể viên mãn sáu pháp Ba la mật vô thượng. Làm mọi sự việc đều hơn chúng sinh. Lòng tin vững chắc, tu tập từ bi mà không mong cầu quả báo. Đối với người thân kẻ thù, tâm coi như một. Lúc bố thí tài vật tâm thường bình đẳng, lúc thí xả thân mình cũng thế. Vì biết tướng hữu vi là vô thường, nên không tiếc thân mệnh. Dùng pháp Tứ nhiếp thâu phục chúng sinh. Biết rõ Thế tục đế nên tùy thuận chúng sinh. Khi vì chúng sinh mà thọ khổ, tâm không lay động như núi Tu di. Tuy thấy chúng sinh tạo nhiều nghiệp ác, ít người làm lành, nhưng vẫn không bỏ rơi họ. Đối với Tam Bảo không sinh lòng nghi, thường ưa cúng dường. Lúc có ít tài vật, trước bố thí người nghèo, sau cúng dường Tam Bảo. Làm việc gì, trước đều vì người nghèo, sau mới vì người giàu. Ưa khen ngợi sự hay của người, vì họ mà giảng Phật pháp, hầu mở đường cho họ đến Niết Bàn. Muốn người khác học tất cả các kỹ thuật. Thấy người học hơn mình, tâm sinh vui mừng. Không nghĩ đến lợi mình, mà thường nghĩ đến việc lợi người. Tất cả nghiệp lành thân khẩu ý, đều không vì chiùnh mình, mà vì chúng sinh. Đây gọi là Bồ tát thực nghĩa.

Thiện nam tử! Bồ tát có hai hạng: một là tại gia, hai là xuất gia. Bồ tát xuất gia muốn thành Bồ tát thực nghĩa, điều này không khó. Bồ tát tại gia muốn thành Bồ tát thực nghĩa, điều này mới khó. Vì sao? Vì người tại gia bị nhiều ác duyên ràng buộc.





tải về 0.93 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   5   6   7   8   9   10   11   12   ...   24




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương