Thánh Kinh và Huấn Luyện Lãnh Đạo Muối Đất Mở Rộng LÃnh đẠo theo phong cách thầy giê-su trong tin mừng mác-cô Giêrônimô Nguyễn Văn Nội



tải về 1.46 Mb.
trang21/21
Chuyển đổi dữ liệu11.09.2017
Kích1.46 Mb.
#33087
1   ...   13   14   15   16   17   18   19   20   21

4.- Ý nghĩa của bản văn

Các môn đệ biết rằng Đức Giêsu đã chết và đã được mai táng. Ngôi mộ và thi hài là dấu vết cuối cùng của Đức Giêsu trần thế. Tất cả những gì tác giả TM IV quy chiếu đến ở đây, đều tiến đi từ ngôi mộ này và liên hệ đến thi hài của Đức Giêsu. Đối với các môn đệ, chặng cuối cùng của Đức Giêsu là ngôi mộ; các phụ nữ cũng như các ông đều không hề quay hướng về cuộc Phục Sinh của Người: chẳng hạn phản ứng của  Maria Mácđala ở đây chứng tỏ bà nghĩ rằng Đức Giêsu đã chết thật. Họ không hề hiểu những loan báo Người đã cung cấp, cũng chẳng hiểu những gì được viết trong Kinh Thánh. Ở đây, tác giả cho thấy những bước đầu đưa các môn đệ đi từ ý thức là Đức Giêsu đã chết đến hiểu biết là Người đã sống lại. Con đường đi từ nỗi kinh ngạc này đến nỗi kinh ngạc khác, và không phải tất cả các môn đệ đều đạt tới mục tiêu cùng một lúc.



*  Thời gian: Sáng sớm ngày thứ nhất, Maria Mácđala ra mộ (1-2)

Trong cả bốn Tin Mừng, các môn đệ của Đức Giêsu, dù nam hay nữ, đều tỏ ra kính trọng ngày sa-bát. Chúng ta thấy các ông đã hạ thi hài Đức Giêsu khỏi thập giá trước khi bắt đầu ngày sa-bát (Ga 19,31 và các bản văn song song), còn các phụ nữ chỉ đi ra một sau ngày sa-bát (Ga 20,1 và các bản văn song song).

Lúc tảng sáng, Maria Mácđala đã đi ra mộ Đức Giêsu. Chúng ta tự hỏi là vì sao bà lại ra mộ khi trời chưa sáng hẳn? – Tác giả trung thành với biểu tượng ánh sáng đã nói đến ngay trong Lời Tựa (1,9), rồi ở 8,12 khi Đức Giêsu tuyên bố Người là “ánh sáng cho trần gian”, rồi Giuđa bỏ Người là đi vào bóng tối (13,30). Ở đây, vì Đức Giêsu đã chết, nên ánh sáng đã tắt. Tuy nhiên, trời đã tảng sáng như là một dấu chỉ xa xa cho biết Đức Giêsu sắp sống lại và Maria Mácđala sẽ gặp được Người. 

Đến nơi, bà thấy (blepei) là tảng đá đã được lăn khỏi mộ và cửa mộ đã mở. Dựa vào điểm quan sát đó, bà giải thích: bà nghĩ rằng thi hài của Đức Giêsu đã được mang đi khỏi mộ. Đó là lời giải thích hợp lý nhất, theo những tiêu chí loài người, khi đứng trước một ngôi mộ đã mở và trống không. Một thi hài thì ở thế hoàn toàn thụ động: đã được người ta đưa vào đặt trong mộ, nay có thể lại đã được người ta đưa đi.

Vì hết sức bận tâm tìm biết là ai đã mang xác Đức Giêsu đi và nay đã đặt ở đâu, Maria đi tìm Phêrô và người môn đệ Đức Giêsu thương mến. Lối xử sự này chứng tỏ bà rất thương yêu Đức Giêsu. Nhưng trong khi bà còn bận tâm về thi hài Đức Giêsu, Người đã sống lại rồi. Khởi đi từ ngôi mộ của Người, các môn đệ còn phải đến gặp Người trên nẻo đường mà chính Người đã đi qua. Hai người môn đệ đến mộ là hai người đặc biệt gắn bó với Người khi Người còn sống: Phêrô là người đã được Đức Giêsu đổi cho một tên mới (1,42) và luôn được để ý trong nhóm các môn đệ (6,68-69; 13,6-10.35-38); người môn đệ kia là người đặc biệt gần gũi với Đức Giêsu (13,23-24; 18,15-16; 21,20-23).

* Hành động chính: Phêrô và Gioan ra mộ (3-10)

Tin tức Maria Mácđala đưa đến khiến các môn đệ hốt hoảng. Phêrô và người môn đệ Chúa thương mến muốn chính mình đi kiểm chứng sự việc, hai ông chạy ra mộ. Tốc độ khác nhau không có nghĩa là lòng nhiệt thành khác nhau, nhưng là khả năng thể lý khác nhau. Các hành động tiếp đó của hai ông đan quyện vào nhau và càng lúc càng vượt xa điều Maria Mácđala đã quan sát được. Người môn đệ Đức Giêsu yêu thương đến mộ trước. Ông không chỉ nhìn từ bên ngoài, mà còn nghiêng mình nhìn vào bên trong và thấy (blepei) những băng vải. Phêrô đi vào trong mộ, thấy (theôrei) các băng vải và khăn liệm gấp lại để riêng ra một góc. Những gì Phêrô ghi nhận được thì đi ngược lại với cách giải thích của Maria: không thể cho rằng người ta mang một thi hài đi mà lại tháo gỡ các tấm vải bọc thi hài ra trước, và còn gấp lại để riêng ra. Gỡ mình khỏi các tấm vải liệm là hành vi ngược lại với việc bọc thi hành trong các tấm vải (x. 19,40). Như thế, việc tẩm liệm đã thành vô ích rồi. Ngôi mộ trống và các dải vải cuộn để riêng không phải là một bằng chứng, nhưng là một dấu chỉ cho biết rằng Đức Giêsu đã rời bỏ ngôi mộ và đã chiến thắng cái chết.

Phêrô ghi nhận chính xác tình huống, nhưng có tin chăng, bản văn không khẳng định minh nhiên. Người môn đệ kia đi vào mộ sau ông, cũng thấy tình cảnh như thế và thực hiện được một bước xa hơn: đã thấy (eiden) và đã tin (episteusen) (c. 8). Dường như tác giả TM IV chia sẻ với Lc 24,12 ý tưởng là Phêrô không bị thuyết phục bởi cuộc thanh sát ngôi mộ trống, nhưng cách ngài trình bày về tình trạng Phêrô thiếu đức tin thì tinh tế hơn là tác giả Lc. Tác giả TM IV không nói là Phêrô không tin. Ngài chỉ kể rằng người môn đệ Chúa thương mến “đã thấy và đã tin”. Các động từ này là tiêu biểu của TM IV, nhưng đều ở số đơn, tức về ngữ pháp thì tương phản với dạng số phức ở các câu trước (“Ông Phêrô và môn đệ kia liền đi ra [êrchonto] mộ. Cả hai người cùng chạy [etrechon]”) và ở các câu sau (“hai ông chưa hiểu [êdeisan] Kinh Thánh, rằng…”). Hai môn đệ đã đi ra mộ; nay chỉ một người rời mộ như là người tin: đó là người môn đệ Chúa thương mến. So với người ấy, thì phải nói Simôn Phêrô còn thiếu đức tin.

Dù sao chỉ những lần Đấng Phục Sinh hiện ra mới làm cho dấu chỉ mộ trống không còn mang tính hàm hồ nữa và sẽ đưa tất cả các môn đệ đến chỗ tin vào Người.

“Sau đó, các môn đệ lại trở về nhà”: Làm sao có thể thản nhiên trở về nhà sau một kinh nghiệm như thế? Rất có thể đây là chuyện đã xảy ra. Sau một kinh nghiệm quá mạnh như vậy, các ông cần thì giờ để phản ứng. Các ông không reo hò cũng không ca hát: các ông trở lại với đời sống thường ngày.

+ Kết luận

Những điều vừa được kể ở đây đã được kiểm chứng vào “lúc tảng sáng” (20,1). Trong TM IV, giờ và các biến cố tương ứng với nhau. Vào lúc tảng sáng, có nhiều điều tiên báo một sự thay đổi tận căn: đêm đang qua đi, chân trời rạng sáng dần, các sự vật rõ nét thêm. Ai chưa bao giờ thấy mặt trời, thì không thể biết điều gì đã gần kề. Mặt trời lên soi sáng tất cả và làm cho mọi điều đã được tiên báo nên sáng tỏ. Các môn đệ còn đang ở trong tình trạng tranh tối tranh sáng, ở trong tình trạng gồm những dấu chỉ tiên báo và chờ đợi. Chỉ khi họ gặp Đấng Phục Sinh, mặt trời mới mọc lên cho họ, mọi sự mới nên sáng tỏ. Đêm đen và bóng tối, cái chết và niềm đau, sự bần khốn và yếu đuối đều được ánh sáng của Đấng Phục Sinh, được vinh quang của sự sống vĩnh cửu của Người, chiếu rọi.

Không còn thi hài của Đức Giêsu trong mộ nữa. Điều này rất quan trọng đối với sự phục sinh: Bởi vì người ta không thể tìm ra xác ướp của Đức Giêsu hay một vài vết tích, vài mảnh rơi rớt của thi hài, mà lại khẳng định về sự Phục Sinh được. Bởi vì Phục Sinh không phải là một hiện tượng thiêng liêng nào đó chỉ liên hệ tới phần hồn, nhưng sự Phục Sinh đặt dấu ấn lên trên toàn thể con người: thân xác và linh hồn, và biến đổi cách vĩnh viễn toàn thể con người. Vậy không bao giờ được hiểu Phục Sinh chỉ là sự hồi sinh của một người chết như chẳng hạn trường hợp Ladarô, vì sau này ông cũng lại đã chết. Sự Phục Sinh là việc chuyển sang một cuộc sống bên kia cái chết, sang một cuộc sống không cùng, nghĩa là một đời sống vĩnh cửu.

5.- Gợi ý suy niệm

1. Trong cuộc sống, có lắm phen chúng ta nếm cảm những thất bại đau đớn, chúng ta muốn buông xuôi, y như ngôi mộ đã được một tảng đá niêm phong lại, chẳng còn gì để hy vọng, ngoài một niềm nuối tiếc khôn nguôi. Nhưng “tảng đá đã lăn ra khỏi mộ”! Chính Thiên Chúa đã lăn tảng đá ra khỏi mộ Đức Giêsu, thì Ngài cũng lăn được những tảng đá đang chắn cuộc đời chúng ta lại, miễn là chúng ta đừng nhất định bám cứng vào những tảng đá đó.

2. Tác giả TM IV viết: “Ông đã thấy và đã tin”. Đó là một lời chứng, nhưng cũng là một lời thú nhận là ngài đã không thể hiện được trọn vẹn mối phúc Đức Giêsu công bố: “Phúc thay kẻ không thấy mà tin” (20,29). Chỉ có Đức Maria, Thân Mẫu Đức Giêsu, mới đạt được mức độ đức tin ấy: tại Cana, trước khi Đức Giêsu làm phép lạ đầu tiên, Mẹ đã tin cách nào đó, nên mới cho Con biết là tiệc hết rượu. Quả thật, tin không phải là một chuyện dễ dàng hay dễ dãi, trốn tránh trách nhiệm, như nhiều người vẫn nghĩ.

3. Các tông đồ chỉ có thể làm chứng rằng các ông đã biết Đức Giêsu trước khi chịu chết, đã gặp lại Người đang sống; nhưng các ông không thể nói về cách thức Đức Giêsu đã sống lại. Niềm tin của Kitô hữu hôm nay cũng khẳng định Đức Giêsu đã chết và đã sống lại, nhưng không thể trả lời những câu hỏi về cách thức diễn tiến sự Phục Sinh. Nhưng không thể phủ nhận được sự Phục Sinh, bởi vì chính sự hiện diện và hoạt động của Đức Kitô Phục Sinh trong đời người Kitô hữu đang làm thay đổi con người họ, và họ đang trải nghiệm điều đó. Họ có thể làm chứng, chứ họ không thể giải thích, vì đây là một mầu nhiệm, nhưng là một mầu nhiệm làm cho sống.

4. Nếu như hai môn đệ đã ghi nhớ và tin những lời Đức Giêsu đã nói trước về cuộc Thương Khó và Phục Sinh của Người, các ông đã chẳng phải chạy trên nẻo đường đưa tới mộ, đưa tới cõi chết, đưa tới sự tuyệt vọng, trong khi Thầy của các ông đã sống lại, và nay đã “lên cùng Cha của Thầy, cũng là Cha của anh em, lên cùng Thiên Chúa của Thầy, cũng là Thiên Chúa của anh em” (20,17). Tuy nhiên, thái độ của hai ông lại là bài học quý cho chúng ta hôm nay, vì chúng ta cũng vẫn có thể rơi vào tình trạng tiêu cực ấy. 

5. Trong một Bài giảng được gán cho thánh Gioan Kim Khẩu (? 345-407), có đoạn: “Xin đừng có một ai buồn sầu về sự nghèo khó của mình, bởi vì Vương Quốc đã hiện ra cho tất cả mọi người; xin đừng có một ai than thở về các lỗi lầm của mình, bởi vì ơn tha thứ đã trào vọt ra từ ngôi mộ; xin đừng có một ai sợ hãi cái chết, bởi vì cái chết của Đấng Cứu thế đã giải thoát chúng ta. Người đã tiêu diệt cái chết, Đấng mà cái chết đã bóp nghẹt, Người đã tước đoạt hỏa ngục, Đấng đã xuống âm phủ…

Isaia đã tiên báo điều này khi nói: «Vì ngươi, âm phủ dưới vực sâu cũng rung động để ra đón ngươi vào” (14,9). Âm phủ đã ngập tràn cay đắng..., vì nó đã bị đánh ngã; bị sỉ nhục, vì nó đã bị giết chết; bị quỵ ngã, vì nó đã bị triệt tiêu. Nó đã bắt lấy một thân xác và đã ra trước nhan Thiên Chúa; nó đã nắm lấy trái đất và đã gặp trời; nó đã bắt lấy cái gì nó thấy, và đã té ngã vì Đấng Vô Hình. “Hỡi tử thần, đâu là nọc độc của người? Hỡi tử thần, đâu là chiến thắng của ngươi?” (1 Cr 15,55). Chúa Kitô đã sống lại và người bị đánh bại! Chúa Kitô đã sống lại và ma quỷ đã ngã xuống! Chúa Kitô đã sống lại và các thiên thần hân hoan vui mừng! Chúa Kitô đã sống lại và đây sự sống hiển trị! Chúa Kitô đã sống lại và không còn kẻ chết trong mồ nữa, bởi vì Chúa Kitô, sống lại từ kẻ chết, đã trở thành hoa quả đầu mùa của những ai đã an giấc. Vinh quang và uy quyền thuộc về Người đến muôn thuở muôn đời. Amen”.

--------

[1] Xem cách lý luận của R.E. Brown, The Gospel according to John, I, xciii-xcviii.

[2] J.A. Grassi, The Secret Identity. Có thể xem ch. 13, từ trang 115.

[3] Dù người môn đệ này là ai, rất có thể tác giả của Ga 21 cũng là tác giả của 2 Ga3 Ga. Ngoài ra, chúng ta thấy dấu vết của cùng một bàn tay tác giả ở 3 Ga 12; Ga 19,35 và Ga 21,24 (x. 15,27: “anh em”).

Lm PX Vũ Phan Long, ofm

BÀI ĐỌC THÊM (25)

CUỘC QUANG LÂM CỦA CON NGƯỜI

(Máccô 13,24-32 – CN XXXIII TN - B)

 


1.- Ngữ cảnh

Giữa các chương nói về hoạt động công khai của Đức Giêsu (Mc 1–12) và những chương tường thuật cuộc Khổ Nạn (Mc 14–16), chúng ta gặp bài Diễn từ cánh chung (Mc 13). Bài này khởi đi từ lời Đức Giêsu loan báo rằng Đền Thờ Giêrusalem huy hoàng tráng lệ như thế đó sẽ bị tàn phá và từ câu hỏi bao giờ sẽ xảy ra chuyện ấy. Bài Diễn từ này được ngỏ với bốn môn đệ Đức Giêsu đã gọi đầu tiên (x. 13,3 và 1,16-20), nhưng có một giá trị tổng quát (13,37). Bài không chỉ liên hệ đến cuộc tàn phá Giêrusalem, nhưng còn nhìn tổng quát về tương lai. Đức Giêsu phác ra những đường nét lớn cho các môn đệ thấy tương lai sẽ mang lại cho họ điều gì (13,5-27) và họ sẽ phải ứng xử thế nào (13,5.21-23.28-37). Chúng ta có thể chia bài diễn từ này thành ba phần:

1) Khi nào (cc. 5b-8.9-13.14-23);

2) Dấu chỉ: Cuộc quang lâm (cc. 24-27);

3) Giờ chính xác (cc. 28-32.33-37).   

 

2.- Bố cục

Bản văn đọc hôm nay có thể chia thành hai phần :

1) Cuộc Quang Lâm (13,24-27);



2) Thời gian (13,28-32).

 

3.- Vài điểm chú giải

- Nhưng trong những ngày đó, … các ngôi sao từ trời sa xuống (24-25): Với liên từ “nhưng”, tác giả đưa độc giả tới khúc quanh quan trọng. Ngài mở ra một viễn tượng phổ quát bằng cách dùng những hình ảnh thuộc Cựu Ước nói về Ngày của Yhwh (Đức Chúa) (Is 13,10; 34,4; Ge 2,10–3,4; 4,15t.). Trong Cựu Ước, các hiện tượng này là những hoàn cảnh đi theo cuộc xét xử trong thịnh nộ, “ngày của Yhwh”. Theo những bản văn Isaia, việc phán xét nhắm đến Babylon và Êđôm. Trên cái nền Kinh Thánh này, các hình ảnh được vận dụng để minh họa cuộc phán xét trên các kẻ gian ác.

- Con Người (26): Trên tấm phông là một vũ trụ bị rung chuyển, Con Người xuất hiện, được mô tả bằng những từ ngữ của Đn 7,13tt. Các đám mây cho hiểu là Người thuộc về thiên giới, thuộc về Thiên Chúa. Khi Đức Kitô tỏ bày quyền năng và vinh quang của Người ra, mọi người sẽ được thấy: không mơ hồ như những tiếng đồn được lưu ý ở 13,22 (x. Mt 24,27t). Quyền lực lớn lao và vinh quang của Người bao quanh Người, nêu bật vẻ uy nghiêm của Người, khiến Người nổi lên rõ ràng trên bóng tối và tình trạng hỗn độn của vũ trụ. Mục tiêu Người nhắm khi đến thì chưa rõ. Hình thái của bài Diễn từ không liên quan đến ai rõ ràng khiến phải kết luận rằng ở chỗ này, bài được ngỏ với các đối thủ, các kẻ gian ác và tội lỗi. Đối với họ, Con Người đến là để phán xét.   

- tập họp của những kẻ được tuyển chọn (c.27): Trong Cựu Ước, chính Thiên Chúa quy tụ (Đnl  30,3-4 [LXX]; Dcr 2,10; Is 27,12; 43,5tt) nhờ các thiên thần (Tv 17/18,11; 103/104,4; Đn 7,10): Ngài quy tụ về Thánh địa tất cả những người Do Thái đang bị phân tán, đưa về cho hiệp thông với Ngài. Ở đây, Con Người được giới thiệu là Đấng thực hiện những gì Thiên Chúa đã hứa cho dân Do Thái (x. Ga 14,3).

- từ bốn phương, từ đầu mặt đất cho đến cuối chân trời: dịch sát: “từ bốn gió, từ mút cùng đất đến mút cùng trời”. Các hình ảnh này là cách cổ điển mà Kinh Thánh và người Hy Lạp dùng để nói về thế giới.

- thí dụ cây vả  (28): Trong Cựu Ước, mùa hè và cuộc thu hoạch là những hình ảnh diễn tả sự  cùng tận, cuộc giải phóng và phán xét chung cuộc (x. Ge 4,17; Am 8,1tt; Is 28,4; Gr 8,20). Những gì xảy ra với cây vả được dùng để ví những dấu chỉ xảy ra nhằm báo cho biết Đức Kitô đã đến gần (c. 29).

- thế hệ này (30):  “Thế hệ này”, dù là “thế hệ gian ác” (Mc 8,38; 9,19; Mt 12,39.45) gồm những người không tin Đức Kitô hoặc sứ điệp của Giáo Hội, thì cũng là thế hệ đương thời với tác giả Mc. Khi nghe đọc đoạn văn này, các tín hữu càng được củng cố trong nỗi niềm chờ mong Đức Chúa của mình ngự đến.

- mọi điều ấy: Dựa trên câu hỏi của các môn đệ ở c. 4b và cùng với tauta (“các điều ấy”) được lấy lại từ c. 29, có thể quy về toàn thể các biến cố được mô tả trong bài Diễn từ cho đến điểm này, tức cũng quy về cuộc Quang Lâm của Con Người. Dựa theo câu nói này, ta nhận ra một sự chờ đợi nôn nóng trong một thời gian ngắn. 

- những lời Thầy nói sẽ chẳng qua đâu (31): Đức Giêsu xác định những lời Người nói có cùng một sự chắc chắn và một uy tín như những lời của Yhwh trong Cựu Ước (Is 40,8; 51,6; 54,10; Gr 33,25t; x. Kh 22,6; Mt 5,18).

- không ai biết được, ngay cả Người Con …, chỉ có Chúa Cha mới biết (32): Câu này là một crux interpretum (thập giá của các nhà chú giải). Lời này dường như mâu thuẫn minh nhiên với Mt 11,27: “Cha tôi đã giao phó mọi sự cho tôi. Không ai biết rõ Chúa Cha, trừ người Con…”. Người ta thường giải quyết bản văn khó này như sau. Mt 11 nói về sứ mạng mạc khải của Đức Giêsu để cứu độ thế gian: để đạt được mục tiêu này, Người đã được Thiên Chúa ban cho toàn quyền mạc khải và mọi hiểu biết cần thiết. “Nhưng Người đã có thể không biết một số điểm thuộc về chương trình sau này của Thiên Chúa, như Ngài khẳng định ở đây một cách rõ ràng” (P. Benoýt). Phải hiểu Đức Giêsu không biết đây là không biết trong bối cảnh mầu nhiệm nhập thể, khi đó Chúa Con đã từ khước nhiều đặc quyền thần linh của mình (x. 2 Cr 8,9; Pl 2,6tt) để chia sẻ thân phận con người sâu xa hơn.

 

4.- Ý nghĩa của bản văn

* Cuộc Quang Lâm (24-27)

Tiếng nói cuối cùng trên toàn thể lịch sử nhân loại và trên tất cả các tình huống là biến cố Con Người ngự đến trong vinh quang Thiên Chúa (Mc 13,26; x. 8,38; 14,62). Người đã đi qua đau khổ và cái chết; sau khi sống lại, Người đã chỉ tỏ mình ra với các môn đệ tuyển chọn; nhưng trong tương lai, Người sẽ xuất hiện trước mắt tất cả mọi người trong phẩm tước đích thực của Người. Cuộc tỏ mình của Người cũng như quyền chúa tể hữu hình của Người, duy nhất và vô biên, là cùng đích của toàn thể lịch sử nhân loại.   

 * Thời gian (28-32)

 Với câu hỏi về “khi nào?”, Đức Giêsu trả lời trước tiên bằng một dụ ngôn rõ ràng. Cần  phải học bài học từ việc quan sát cây vả. “Khi nó trổ lá, thì anh em biết là mùa hè đã đến gần. Cũng vậy, khi thấy những điều đó xảy ra, anh em hãy biết là Người đã đến gần” (cc. 28-29). Tác giả muốn nói đến các biến cố ở cc. 6-13, cc. 6-23 hay cc. 14-23? Bởi vì công thức “khi anh em thấy” (hotan idête) nhắc lại c. 14, chúng ta nên coi các biến cố thuộc phân đoạn cc. 14-23.  

Cuối cùng, có ba câu nói về thời gian (cc. 30-32): “thế hệ này”; “những lời Thầy nói”; “chỉ có Chúa Cha biết”. Tất cả được mở đầu bằng giọng long trọng: “Thầy bảo thật (amên) anh em”. Sự hiểu biết về lịch sử loài người và mọi câu hỏi liên quan đến tương lai dường như dễ đưa tới sự lừa dối và sai lầm: đây là vùng hoạt động của các ngôn sứ giả. Lời khuyến cáo của Đức Giêsu vẫn còn có giá trị cho mọi thời đại: “Anh em hãy coi chừng đừng để người ta lừa gạt!” (c. 5; x. cc. 21-23). Các lời Người nói sẽ có giá trị mãi mãi (c. 31). Và với giọng rõ ràng chắc chắn, Người khẳng định rằng chỉ có Thiên Chúa biết ngày hoàn tất những điều đã được loan báo (c. 32). 

 

+ Kết luận

Câu hỏi đầu tiên của các môn đệ: khi nào xảy ra những điều ấy? Câu trả lời của Đức Giêsu vượt quá câu hỏi đó nhiều lắm. Người ta sẽ không còn coi Đền Thờ là nơi quy tụ nữa. Đền Thờ sẽ bị sụp đổ cùng với thế giới. Mọi người phải hướng về Đấng cao trọng hơn Đền Thờ, Người sẽ quy tụ nhân loại đã được cứu thoát khỏi tà thần: Người là Đức Chúa phục sinh quang vinh.

Toàn bài Diễn từ cánh chung muốn thổi một làn gió lạc quan trên thế giới. Đồng ý là có những thời trong đó sự dữ thắng thế, nhưng nó không thể khai sinh một thế giới mới. Chỉ nhờ sự sống lại của Đức Kitô và nhờ Thánh Thần, một mầm sống mãnh liệt mới khai sinh một vũ trụ mới. Với lại, kiểu hành văn “cánh chung” bao giờ cũng chất chồng các hình ảnh tai hoạ u ám để làm nổi bật lên ánh sáng cứu độ của Thiên Chúa. Ước mong người tín hữu không bối rối khi đọc thấy sự dữ lan tràn, nhưng nhớ rằng một sứ điệp tràn đầy hạnh phúc đang được triển khai.

 

5.- Gợi ý suy niệm

1. Tương lai của nhân loại có đen tối đến đâu và nhìn bề ngoài thì dường như đang đi đến chỗ hoàn toàn diệt vong, nhưng cuối cùng, vẫn còn có Con Người, Đấng đã chia sẻ tất cả định mệnh con người, nay đang ở trong sự hiệp thông xán lạn và vinh hiển với Chúa Cha toàn năng. Các môn đệ của Đức Giêsu có bị bách hại, bị ghét bỏ và bị giết tàn bạo đến mức nào đi nữa, Đấng mà họ bước theo sau và cũng là Đấng mà họ đã chia sẻ cùng một số phận, đang chờ họ và sẽ bênh vực họ (x. 8,34-38). Đức Giêsu là Đấng trung thành và quyền năng. Người sẽ tìm được họ dù họ lang bạt đến tận đâu và sẽ quy tụ họ lại. 


2. Các môn đệ của Đức Giêsu phải tránh những ý tưởng sai lạc về tương lai. Họ không được trông mong vào một thiên đàng hạ giới chan hòa bình an. Trái đất vẫn là một thung lũng đầy nước mắt, nên họ phải sẵn sàng chấp nhận gian lao vất vả, bị từ khước và bị bách hại. Họ không được chạy theo ảo tưởng và cũng không được buông theo thất vọng. Họ phải tin cạy vững vàng vào lời nói của Đức Giêsu và tương lai mà Người phác họa ra.
3. Điều nói trên không có nghĩa là các môn đệ không được bận tâm đến tương lai và không được để cho tương lai ảnh hưởng trên lối sống hiện tại của mình. Như khi thấy các lá non của cây vả, chúng ta biết mùa hè đã đến gần, chúng ta cũng không được bám cứng vào những gì đang xảy ra, nhưng phải quay hướng về biến cố kết thúc đang đến (13,28t).
4. “Anh em hãy coi chừng đừng để người ta lừa gạt!” (c. 5; x. cc. 21-23). Đức Giêsu như đang nói: Anh em đừng để cho mình bị lạc đường vì tò mò và sợ hãi! Thầy đã chỉ cho anh em thấy rõ ràng thực tại chung kết. Hãy bám vững vào đó và hãy bằng lòng với điều đó! Điều đó hoàn toàn đủ cho anh em rồi! Vì về ngày đó, chỉ Chúa Cha biết; tất cả mọi tính toán về ngày cuối cùng đó chỉ là chuyện tưởng tượng bừa bãi, đi ngược lại với lời nói rõ ràng của Đức Giêsu.
Lm PX Vũ Phan Long, ofm

 

Lời cảm tạ


Con xin chân thành cảm tạ các tác giả có bài trong phần bài đọc thêm trong cuốn sách này.
Các bài ấy tăng thêm giá trị cho cuốn sách và giúp các học viên có thêm tài liệu để bổ sung cho kiến thức về Thánh Kinh nói chung về Tin Mừng Mác-cô nói riêng của họ.
Nguyện xin Thiên Chúa là Cha của Đức Giê-su Ki-tô và là Chủ Vườn Nho chúc lành cho tất cả chúng ta là những thợ làm vườn nho của Người, có kẻ trồng, người tưới, kẻ bón phân, người vun xới…. nhưng Thiên Chúa mới là Đấng làm cho cây nho sinh hoa kết trái thơm ngọt.

Giêrônimô Nguyễn Văn Nội




MỤC LỤC


Tiết mục

Nội Dung

Trang




Giới thiệu các Khóa Thánh Kinh và Huấn Luyện Lãnh Đạo Muối Đất mở rộng

03-13




Đôi lời về Khóa Lãnh Đạo theo Phong Cách Thầy Giê-su trong Tin Mừng Mác-cô

14-19




PHẦN THỨ NHẤT: CÁC ĐỀ TÀI

20

ĐT/I

Thầy Giê-su khai mở triều đại mới của Thiên Chúa.

21-34

ĐT/II

Thầy Giê-su quy tụ các môn đệ để mưu chuyện lớn.

35-45

ĐT/III

Thầy Giê-su mạc khải Cha và rao giảng Nước Thiên Chúa.

46-60

ĐT/IV

Thầy Giê-su chạnh lòng thương những người khốn khổ và cứu chữa họ.

61-69

ĐT/V

Thầy Giê-su khẳng định là Đấng Mê-si-a đau khổ của Thiên Chúa và mời gọi các môn đệ đi theo Người.

70-80

ĐT/VI

Ai là người môn đệ đích thực của Thầy Giê-su?

81-92

ĐT/VII

Thầy Giê-su nuôi dân chúng bằng Lời và bằng Bánh.

93-103

ĐT/VIII

Thầy Giê-su đã hoàn tất sứ mạng Đấng Mê-si-a đau khổ trong cuộc Thương Khó và trên thập giá.

104-118

ĐT/ IX

Thầy Giê-su đã phục sinh vinh hiển và ban Ơn Cứu Độ cho nhân loại.

119-146

ĐT/ TH

Khóa Lãnh Đạo theo Phong Cách Thầy Giê-su trong Tin Mừng Mác-cô

147-149




PHẦN THỨ HAI: CÁC BÀI ĐỌC THÊM

150

BĐT 1

Sứ vụ của Gio-an: Khởi đầu Tin Mừng

51-162

BĐT 2

Đức Giê-su chiến thắng Xa-tan

163-170

BĐT 3

Giáo huấn của Chúa Giê-su

171-175

BĐT 4

Chúa Giê-su giáo huấn các môn đệ

176-184

BĐT 5

Đức Giê-su, các tông đồ và dân chúng

185-192

BĐT 6

Chúa Giê-su và các môn đệ của Ngài

193-194

BĐT 7

Đức Giê-su biến đổi hình dạng

195-207

BĐT 8

Nước Trời

208-213

BĐT 9

Hai dụ ngôn về Nước Thiên Chúa

214-222

BĐT 10

Trái tim của Chúa Cha – Chúa Giê-su Con Một Chúa Cha

223-227

BĐT 11

Đức Giê-su tha tội và chữa lành người bại liệt

228-240

BĐT 12

Đức Giê-su chữa lành bà bị băng huyết và cho con gái ông Gia-ia sống lại

241-249

BĐT 13

Đức Giê-su chữa một người phong hủi

250-255

BĐT 14

Cách sống của Chúa Giê-su – Tinh thần của Chúa Cha – Những phép lạ của Chúa Giê-su

256-263

BĐT 15

Niềm tin và sự mong đợi của người Do-thái – Đời sống của người Do-tháo thời Chúa Giê-su

264-270

BĐT 16

Các môn đệ chân chính

271-277

BĐT 17

Đức Giê-su chữa lành người mù ở Giêrikhô

278-287

BĐT 18

Hai người con Dê-bê-đê : đời môn đệ

288-293

BĐT 19

Đức Giê-su vào thành Giê-ru-sa-lem

294-301

BĐT 20

Cuộc Thương Khó của Đức Giê-su

302-306

BĐT 21

Con Người bị nộp vào tay người đời

307-313

BĐT 22

Có phải Chúa Giê-su đã không chết và đã không sống lại?

314-342

BĐT 23

Lên đường lên Giê-ru-sa-lem – Cuộc Khổ Nạn và Phục Sinh của Đức Giê-su – Chúa Thánh Thần Hiện Xuống - Chúa Giê-su Con Một Chúa Cha – Thiên Chúa Ba Ngôi – Sự Cứu Rrỗi

343-360

BĐT 24

Ngôi mộ trống

361-378

BĐT 25

Cuộc Quang Lâm của Con Người

379-385




Lời cảm tạ

387

Mụclục




388-390







tải về 1.46 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   13   14   15   16   17   18   19   20   21




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương