Thánh Kinh và Huấn Luyện Lãnh Đạo Muối Đất Mở Rộng LÃnh đẠo theo phong cách thầy giê-su trong tin mừng mác-cô Giêrônimô Nguyễn Văn Nội



tải về 1.46 Mb.
trang16/21
Chuyển đổi dữ liệu11.09.2017
Kích1.46 Mb.
#33087
1   ...   13   14   15   16   17   18   19   20   21

4.- Ý nghĩa của bản văn

* Hai loại môn đệ (21-23)

Mt 7,19 khẳng định rằng mỗi người được xét xử dựa theo các công việc đã làm, rồi đưa tới một nguyên tắc có tính châm biếm: Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: “Lạy Chúa! lạy Chúa!” là được vào Nước Trời. Nguyên tắc này không chỉ áp dụng cho các “ngôn sứ giả”. Đây là bất cứ Kitô hữu, mặc dù công bố niềm tin vào Chúa (x. c. 21) và làm được những hành vi ngoạn mục, như nói tiên tri, trừ quỷ và các phép lạ (c. 22), nhưng lại không thi hành ý muốn của Chúa Cha (c. 21), do không sống phù hợp với các đòi hỏi Đức Giêsu đã nêu ra trong Bài Giảng trên núi, không thi hành những điều người ấy nói. Người ấy tự lừa dối chính mình mà cho rằng mình là một môn đệ chân chính của Đức Kitô, trong thực tế lại tạo ra một hoàn cảnh gian ác (anomia, “không luật”, c. 23; x. 24,11-12; 13,41). Ở c. 21 này, tầm nhìn được mở rộng và cuộc phán xét cuối cùng được trực tiếp nhắc tới. Đức Giêsu lên tiếng như là vị thẩm phán thế gian, để cho thấy rằng mọi người phải sống sự công chính dồi dào hơn (Như thế c. 21 này nhắc lại 5,20). “Chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào”: phần đoạn này lại đưa chúng ta trở về với Kinh Lạy Cha

Ý muốn (thelêma) của Thiên Chúa chính là kế hoạch cứu độ của Ngài, được trải rộng ra đến các hành vi thuộc cuộc sống thường nhật. Cách thức để nhận biết điều Thiên Chúa muốn là quan sát những gì Ngài đang hoàn tất. Theo Kinh Thánh, các công trình ưu việt của Thiên Chúa là công cuộc tạo dựng và công cuộc cứu độ. Do đó, thi hành ý muốn của Ngài là chuyên cần và quảng đại cộng tác vào một trong hai công trình đó. Các Tin Mừng không nói nhiều về công trình tạo dựng cho bằng nói đến các can thiệp của Thiên Chúa vào trong lịch sử nhân loại hầu ban ơn cứu độ và mời gọi các tín hữu cũng làm như thế. Nói cho cùng, thi hành ý muốn của Thiên Chúa là làm cho ơn cứu độ nên hiện thực nơi chính mình và nơianh chị em đồng loại. Các lời ca ngợi tung hô Chúa (c. 21) không thay đổi chút gì nơi các sự việc. Chúng không có giá trị, chúng không thể bảo đảm cho ta được vào Nước Trời, không đưa được con người về phía Thiên Chúa để nhận được ơn cứu độ. Điều Đức Giêsu đòi hỏi là một lòng đạo đức hiện thực, có việc làm, có dấn thân.

Chúng ta cần nhớ lại lời Đức Giêsu nói về các ngôn sứ giả “đội lốt chiên” ở trên (c. 15). Ẩn dụ “con chiên” có nghĩa là các thành viên của Dân Thiên Chúa trong Cựu Ước. Các ngôn sứ giả tỏ ra như là thành viên của Dân Kitô giáo. Bởi vì con chiên hiền lành không có phương thế tự vệ là hình ảnh cổ điển đối lập với con sói tham tàn (x. Is 11,6; 65,25; Hc 13,17). Bộ áo giả chiên của họ muốn nói là họ tỏ ra hòa bình, trong thực tế, đây là những “sói dữ tham mồi”, nghĩa là những Kitô hữu xấu đang đưa một mầm mống sự chết vào trong cộng đoàn.

Tiêu chuẩn giúp khám phá ra ngôn sứ giả là tiêu chuẩn “quả” (x. cc. 16-20. Từ ngữ “quả” được nhắc đến 7 lần trong các câu này). Trong Cựu Ước, “quả” là hình ảnh thông dụng để chỉ các hành vi của con người. “Sinh quả tốt”, đó là “thi hành ý muốn của Cha Thầy” (c. 21); “sinh quả xấu”, đó là “làm điều gian ác” (c. 23), sống không luật, mà môi miệng vẫn cứ tuyên xưng niềm tin vào Chúa, thậm chí còn nhân danh Người mà làm những việc kỳ diệu. Câu “Ta không hề biết các ngươi” (c. 23) vang lên thật cay đắng cho những ai đã lặp đi lặp lại tên Giêsu biết bao nhiêu lần trong đời họ và trong hoạt động của họ. Đây là một lời long trọng từ khước, phủ nhận sự hiệp thông (x. 10,33; 25,12). Lý do duy nhất là họ đã không chu toàn ý muốn của Thiên Chúa. Tác giả gọi họ là “bọn làm điều gian ác”. Thật ra họ không phải là những tay đại gian ác, nhưng chỉ vì họ ngăn cản việc thực hiện và mở rộng Nước Thiên Chúa (x. 16,23), họ đã đáng bị gọi bằng một cái tên nặng nề như thế.

 * Hai kiểu nhà (24-27)

 Tác giả Mt kết thúc Bài Giảng trên núi bằng hai dụ ngôn. Các dụ ngôn này không có lời giải thích, nhưng cũng là những lời nhắc nhớ đến các bổn phận của đời sống Kitô hữu. Đức Giêsu tấn công lối sống buông thả và vô vi. Phải vâng phục cụ thể ý muốn của Thiên Chúa chứ không buông mình theo những ảo tưởng hoặc những cơn hứng khởi kiểu đặc sủng (x. cc. 21-23). Bài học của phần trước được nhắc lại qua dụ ngôn hai người xây nhà, người khôn và người ngu. Người khôn cất nhà trên nền móng vững chắc, người ngu xây nhà trên một cái nền không vững. Đối với Đức Giêsu, nền móng chắc chắn của ngôi nhà, tức của đời sống Kitô hữu, là thực hành các giáo huấn của Người. Người đã kêu gọi “làm” (poiein) ý muốn của Chúa Cha, nay Người yêu cầu “làm” (poiein) “các lời của Người”.

Lời của Đức Giêsu mà người ta nghe được trong Bài Giảng trên núi phải được lắng nghe trong niềm vui, nhưng hơn nữa, phải được diễn tả ra qua đời sống thực tiễn. Lắng nghe (akouein) là điều kiện tiên quyết, nhưng điều đáng kể hơn, là thực hiện điều đã nghe được. Chỉ khi nghiêm túc sống như thế, đời sống Kitô hữu mới dựa trên một nền móng vững chắc và không sợ bị lật đổ khi gặp các thử thách hay nghịch cảnh đầu tiên, cũng như khi ra trước cuộc phán xét.

Truyền thống kinh sư sử dụng những dụ ngôn tương tự để mô tả hai thái độ đối nghịch khi ở trước công việc nghiên cứu Torah: một thái độ đưa tới việc thực hành và một thái độ chỉ nhắm kiến thức không có việc làm. Tuy nhiên, có hai khác biệt: các dụ ngôn kinh sư nói đến tương quan học-làm, còn dụ ngôn của Đức Giêsu nói đến tương quan nghe-làm; nhất là Đức Giêsu không còn nói đến việc thực thi Torah nữa, mà là thực thi “các lời của Thầy” mà Người vừa nói ra. Đức Giêsu gán cho các lời của Người một uy tín mà Do-thái giáo gán cho Torah.

           

+ Kết luận

Bài diễn từ mang giọng mục vụ, chứ không phải là lịch sử hay thần học, nhằm đưa tới sự hoán cải. Dáng vẻ bề ngoài không phải là thực tại. Chúng ta cũng nhớ tới cây vả sum xuê lá cành mà không có trái (x. Mt 21,19). Đấy là một tình trạng mâu thuẫn của người khẩn cầu, chúc tụng tên Chúa cách long trọng mà không dấn thân thi hành ý muốn của Ngài. Nói rằng tiêu chuẩn quyết liệt là Kitô hữu phải xử sự phù hợp với các đòi hỏi của Bài Giảng trên núi, điều đó có nghĩa là phải ưu tiên diễn tả tình yêu ra bằng hành động. Như thế, giáo huấn của TM Mt hài hòa với giáo huấn của thánh Phaolô (x. 1 Cr 13) và của truyền thống Gioan (x. 1 Ga 4,7-8). Kết luận của bài giảng ở đây thật cứng rắn và không khoan nhượng. Khi thấy như thế, người Kitô hữu phải lô-gích với chính mình: đã chọn lựa, và biết là chọn đúng, thì ra sức sống các chọn lựa đã lấy.

 

5.- Gợi ý suy niệm

1. Không phải chỉ cứ nói những lời tốt lành, có đức tin đúng đắn, có những khát vọng ngay lành là đủ. Không phải chỉ cần bước đi trên nẻo đường thênh thang với tư tưởng hướng về Nước Trời và thỉnh thoảng kêu tên Chúa, là đã đủ để được cứu độ (x. 6,9; 10,15). Còn phải chu toàn ý muốn của Thiên Chúa. Những người bị loại trừ rất có thể đã là những người nói giỏi, những chuyên viên Phụng vụ sắc bén, nhưng họ đã không cố gắng hoàn tất những gì họ cử hành, có khi lại còn làm ngược lại, làm điều dữ.

2. Tác giả Mt đã nhìn lại nội bộ cộng đoàn và nhận ra có những thành viên bất xứng với danh hiệu của họ. Ngài gọi họ là bọn xét đoán sai, càm ràm (7,1), đạo đức giả (c. 5), ngôn sứ giả (c. 15), cây không quả (c. 20). Cuối cùng, ngài tổng hợp tất cả lối sống gây khó chịu, vấp phạm, là xấu xa, thậm chí là thuộc về Satan. Trước sau rồi họ cũng bị lật mặt nạ và kết án. Do đó, tốt nhất họ nên xét đoán chính mình trước đi và kịp thời rút khỏi con đường xấu xa, con đường rộng rãi, thênh thang, nhưng đưa tới diệt vong (c. 13) để đi theo con đường chật hẹp đưa tới sự sống (c. 14).

3. Hội Thánh không phải là một tập thể hoàn hảo. Trong Hội Thánh, có những thợ xây khôn ngoan, và cũng có những thợ xây thiếu khôn ngoan. Những người thiếu khôn ngoan là những người nghe lời loan báo mà không quyết tâm đưa ra thi hành nghiêm túc. Đây chỉ là sự gắn bó hời hợt, không bám rễ trong tim và trong trí thông minh, nên sẽ bị hủy diệt ngay khi tiếp xúc với những sức mạnh đối nghịch.

4. Sống đời Kitô hữu có nghĩa là thi hành các mệnh lệnh của Đức Giêsu. Khi cố gắng thực hành như thế, chúng ta sẽ trải nghiệm ân sủng Thiên Chúa ban cũng như việc cầu nguyện. Đây chính là những gì Bài Giảng trên núi công bố, khởi đi từ các Mối Phúc cho đến lúc kết luận. Đứng vững hay sụp đổ khi chịu phán xét tùy thuộc việc thực hành này.
Lm PX Vũ Phan Long, ofm

BÀI ĐỌC THÊM (17)

ĐỨC GIÊSU CHỮA LÀNH NGƯỜI MÙ

Ở GIÊRIKHÔ

(Máccô 10,46-52 – CN XXX TN -  B)

 

 1.- Ngữ cảnh



Mc 8,22-26 kể truyện một người mù được dẫn đến gặp Đức Giêsu, được Người chữa lành tiệm tiến, và được yêu cầu giữ kín việc này; trong 10,45-52, Báctimê tự mình tích cực tìm Đức Giêsu, được chữa lành ngay và trở thành môn đệ trên đường. Truyện thứ hai này, cùng với câu truyện thứ nhất, đóng khung một đơn vị văn chương, nhưng cũng cho thấy một sự tiến bộ trong đức tin. Truyện này có thể được coi như một truyện về chữa lành hoặc một truyện về ơn gọi. Truyện này còn là một lời khuyến khích các môn đệ đang đi theo Đức Giêsu mà không hiểu gì hết, lòng trĩu nặng kinh hoàng.

Hai đoạn 8,22-26 và 10,45-52 là những bài tường thuật có vai trò chuyển mạch. Hai đoạn này đưa độc giả đến một lời tuyên xưng công khai vào tư cách Mêsia của Đức Giêsu: đức tin vào tư cách Mêsia giả thiết có biến cố Khổ Nạn. Trong viễn tượng đối thần này, việc Đức Giêsu mở mắt có giá trị một dấu chỉ.


2.- Bố cục

Bản văn có thể chia thành ba phần:

1) Hoàn cảnh: nơi chốn và các nhân vật (10,46);

2) Phản ứng của anh mù khi nghe biết Đức Giêsu đang đi qua (10,47-50);

3) Đỉnh cao của bài: anh mù được chữa lành và trở thành môn đệ (10,51-52).

 


3.- Vài điểm chú giải

- con đường (hê hodos) (46): Chúng ta đang ở trong phân đoạn trọng tâm Trên đường (x. Bố cục). Mc 10,32 ghi: “Đức Giêsu và các môn đệ đang trên đường lên Giêrusalem. Người dẫn đầu các ông. Các ông kinh hoàng, còn những kẻ theo sau cũng sợ hãi”. Đề tài này với tất cả những gì liên hệ đến (tiến bước, dừng chân…) càng nổi bật trong 10,46-52: họ (các môn đệ, đám đông và Đức Giêsu) đến Giêrikhô. Nhưng rồi Giêrikhô cũng chỉ là một chặng trên “con đường” (“Khi Đức Giêsu … ra khỏi Giêrikhô”).

- môn đệ: Xem ghi chú ở 2,18. Các môn đệ (mathêtai) đi theo Đức Giêsu được phân biệt với đám đông tổng quát hơn (8,34; 9,14). Khi ghi nhận những lần tác giả sử dụng từ “đám đông” (ochlos), chúng ta có thể khẳng định rằng, cũng như các tác giả Tin Mừng khác, Mc ghi nhận sự hiện diện thường xuyên của đám đông. Trong một vài đoạn, ngài còn ghi là đám đông đi theo Người (3,20; 5,24; 8,2; x. plêthos ở 3,7 và polloi ở 2,15). Tuy nhiên, trong phân đoạn 8,27–10,52, hiếm khi Đức Giêsu ngỏ lời với đám đông. Trước 10,46, đám đông xuất hiện ở 9,14 và 10,1 (lần duy nhất ochloi ở số nhiều). Trong chuyến đi về Giêrusalem, Đức Giêsu săn sóc đặc biệt các môn đệ. Thông thường, khi cứu xét ngữ cảnh, ta có thể giả thiết là các đám đông là những người phát xuất từ vùng Đức Giêsu đi ngang qua (10,1). Trong trường hợp 10,46, vì đã gần lễ Vượt Qua, ta có thể nghĩ đến những người hành hương đang cùng đi với nhau tiến về thành thánh. Dù sao, Mc đã không quan tâm ghi chú lý do vì sao đám đông ra khỏi Giêrikhô với  Đức Giêsu và các môn đệ Người.     

- Báctimê: Báctimê là phiên âm cụm từ A-ram bar timay, có nghĩa là “con ông Timê”.     



- một người hành khất mù, đang ngồi ở vệ đường: So với hành động của anh mù được kể ở c. 52 (“đi theo”), câu này cho thấy vị trí đầu tiên của Báctimê hoàn toàn ngược lại: “đang ngồi ở vệ đường” (para tên hodon). Đây là một tư  thế cố định được coi như vĩnh viễn (thì vị hoàn của động từ ekathêto). Đã thế, anh lại là người hành khất (prosaitês) và bị mù. Tư cách hành khất diễn tả sự cố định, còn sự mù loà diễn tả sự xa cách. “Bên vệ đường” có nghĩa là “ở bên ngoài đường”. Như vậy, Báctimê ở trong thế bị loại trừ, cố định, xa cách  người khác.

- Vừa nghe nói là Đức Giêsu Nadarét, anh ta bắt đầu kêu lên (47): Đám đông can thiệp nhiều lần. Lần đầu tiên, họ cho biết đó là “Đức Giêsu Nadarét” (c. 47). Báctimê nhận thông tin này bằng thính giác (“đã nghe”): vì mù loà nên xa cách. Nhưng có sự gần gũi: Giêsu người Nadarét là một con người; và hình như anh cũng đã được thông tin về Người rồi. Tuy nhiên, sự gần gũi này cũng chưa giúp gì cho anh. Anh kêu lên (vì xa cách): “Lạy Con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi!”. Đáng ngạc nhiên là đám đông chỉ giới thiệu Đức Giêsu như một con người (“người Nadarét”), mà anh này lại kêu cầu Người bằng một danh hiệu của Đấng Mêsia (“con vua Đavít”). Dù sao, truyền thống Do-thái chờ đợi Đấng Mêsia nhà Đavít đến giải phóng dân Ít-ra-en và can thiệp để cứu độ, chứ không chờ Người chữa bệnh. Do đó, nhiều nhà chú giải cho rằng Mc đã đặt vào miệng anh mù một lời cầu khẩn của Ki-tô giáo. Đức Giêsu còn ở xa anh, vừa về không gian vừa do tư cách, nên anh phải kêu để mong gặp Người. Lời kêu này đã giúp anh vượt qua khoảng cách đó để gặp được Đức Giêsu.

- nhiều người quát nạt… anh càng kêu lớn (48): Bây giờ, đám đông đã trở thành một trở ngại thật đáng kể; nhiều người muốn bắt anh im đi. Trong các Tin Mừng, sáng kiến đi đến với Đức Giêsu không bao giờ phát xuất từ dân chúng hay các môn đệ. Ở đây, chính sự ngăn cản của họ trở thành một thử thách cho đức tin của anh, nhưng anh càng kêu to hơn. Danh Giêsu đã biến khỏi công thức khẩn cầu, chỉ còn lại danh hiệu “con vua Đavít”.

- Đức Giêsu đứng lại và nói: “Gọi anh ta lại đây!” (49): Người cắt ngang cuộc tiến bước. Khi làm như thế, Người tách khỏi những kẻ đang ở với Người trên cùng một con đường, Người phá vỡ một sức năng động mà Người đã phát động và lôi kéo. Lời Người nói chứng tỏ giữa Người và anh mù, có một khoảng cách, và đám đông đang ở tại vị trí này. Hành vi cắt ngang chuyến đi của Đức Giêsu tạo ra một hậu quả bất ngờ: người mù vất áo choàng, đứng phắt dậy mà đến gần Đức Giêsu, y như thể anh không bị mù.

- anh mù: Đáng lưu ý là Báctimê được gọi là “anh mù” (ho typhlos :cc. 49 và 51) sau khi Đức Giêsu can thiệp. Nếu tác giả Mc chỉ gọi anh là “anh  mù”, phải chăng ngài muốn nói rằng anh không “hành khất” nữa?

- vất áo choàng: Tấm áo choàng (himation: “áo”; “áo choàng”) có thể là y phục nói chung (2,21; 5,28-30; 9,3; 15,20.24), nhưng ở đây có thể là tấm vải dùng như áo choàng (5,27; 6,56; 11,7.8; 3,16) mà một người nghèo có thể dùng làm mền đắp (Xh 22,25-26; Đnl 24,13), còn anh mù có thể trải ra trước mặt mà nhận các món bố thí (những người hành khất Đông phương thường làm như thế). Hành vi “vất (apobalôn) áo” có thể là cách diễn tả một sự hứng khởi tột độ; nhưng dựa theo ý nghĩa của động từ ấy, có thể nói hầu chắc là anh mù làm một hành vi từ bỏ dứt khoát. Ý nghĩa chính của động từ này là “vất đi, quẳng ra sau (với sức mạnh)” và “bỏ lại bằng cách quăng ra” (Đnl 26,5 LXX) hoặc “đánh mất” (Is 1,30 LXX; Dt 10,35). Anh mù đã làm một động tác dứt khoát, nhằm bỏ cái áo đi. Hành vi này chứng tỏ một sự liều lĩnh của anh mù, nhưng cũng cho thấy anh hết sức tin tưởng vào sự trợ giúp của Đức Giêsu và không muốn để cho ngay cả một vật cần thiết cho cuộc sống gây cản trở cho mình. Cũng có thể coi động tác ấy có ý nghĩa biểu tượng là từ bỏ chính mình (8,34-35), cắt đứt với quá khứ (1,18.20; 10,28).

- đứng phắt dậy (50): Động từ anapêdaô là một hapax legomenon (từ dùng một lần) trong Tân Ước, và ngày cả trong LXX cũng không được dùng thường xuyên (7 lần). Từ này mô tả động tác “nhảy lên” theo cách cương quyết và bất ngờ (Tb 6,2) thường từ thế ngồi (1 Sm 20,34; Tb 2,4; 7,6; Et 5,1e) và vì sự phấn khích (Et 5,1e: “lo âu lao mình xuống”, agôniasas anepêdêsen). Trong những đoạn khác, Mc diễn tả hành vi “trỗi dậy” bằng động từ egeirô quen thuộc hơn (2,12; 4,27; 13,8.22; 14,27). Theo lời mời egeire (“Hãy đứng dậy!”) của Đức Giêsu ở 2,11 và 5,41, phản ứng đáp lại được mô tả cũng bằng động từ egeirô hoặc anistêmi (5,42; 9,27). Nếu chúng ta nhớ sự tương ứng của egeirô-anistêmi ở 5,41-42 và nhớ rằng ở 2,14, anastas mô tả sự đoạn tuyệt với cuộc sống đã qua nhằm đi theo Đức Giêsu, ta có thể giả thiết là, trong một ngữ cảnh nói về việc kêu gọi, động từ anapêdaô diễn tả mạnh mẽ hơn một sự sẵn sàng đáp lại lời mời gọi.

- đến: Đọng từ này mở đầu bài tường thuật dành cho đám đông (c. 46: “Đức Giêsu và các môn đệ đến”), nay được dành riêng cho anh: êlthen, ở thì quá khứ aorist, diễn tả một hành vi duy nhất, quyết liệt.



- Anh muốn tôi làm gì cho anh? (51): Đức Giêsu lưu tâm đến cá nhân anh mù. Người đã cho gọi anh đến như cho vào một cuộc tiếp kiến; bây giờ Người hỏi về điều anh muốn khiến ta nhớ lại 10,36: Đức Giêsu xử sự như Đấng có vương quyền.

- Thưa Thầy: Trong bản văn Hy-lạp, ta đọc là Rabbouni; đây là từ A-ram đã không được dịch ra hy-ngữ, tăng cường từ Rabbi (“đức ông”, “ngài”).

- ­Anh hãy đi: Đức Giêsu đã ban cho anh được thấy, như là một dấu chỉ của đức tin (“Lòng tin của anh đã cứu anh”).

- anh đi theo Người trên con đường (52): Động từ êkolouthei ở thì vị hoàn hàm ý một sự tiếp diễn: tiếp diễn trong chuyển động. Bởi vì đây là việc bước đi “trên đường”, nhưng cũng là trong sự gần gũi, bởi vì người ta bước theo sau một ai đó. Ý tưởng cốt lõi ở đây là sự hiện diện vĩnh viễn “trên đường”. Anh trở thành môn đệ (“bước theo”).

 

4.- Ý nghĩa của bản văn



* Hoàn cảnh: nơi chốn và các nhân vật (46)

Trong chuyến đi lên Giêrusalem, Đức Giêsu và nhóm các môn đệ đến Giêrikhô, thành phố cây chà là, cách Giêrusalem 23 cs về phía đông bắc, nằm ở 250m dưới măt biển, tại một ốc đảo trong vùng trũng bên sông Giođan. Giêrikhô Tân Ước ở về phía tây nam của “Giêrikhô của vua Hêrôđê”, nơi vị vua này đã xây một hoàng cung rộng lớn. Khác với TM Lc (18,35–19,10), ở đây Đức Giêsu và đoàn người đã không dừng lại Giêrikhô; cả đoàn đang đi ra khỏi thành thì gặp anh hành khất mù Báctimê. Vị trí của hai bên là hai vị trí không thể gặp nhau: Đức Giêsu và các môn đệ cùng đám đông thì đang di chuyển trên đường; anh mù thì đang ngồi ở vệ đường.

 

* Phản ứng của anh mù khi nghe biết Đức Giêsu đang đi qua (47-50)

Đáng ngạc nhiên là đức tin của anh mù “ngồi ở vệ đường”, tức lâu nay không “đi theo” Đức Giêsu, lại có phần sâu sắc (“Con vua Đavít”) hơn đức tin của đám đông dân chúng (“Giêsu người Nadarét”). Anh cứ kêu to hướng về Đức Giêsu, bởi vì anh muốn gặp Đức Giêsu mà anh lại không biết hướng. Đã thế đám đông lại trở thành trở ngại cho đức tin của anh: họ quát nạt bắt anh im đi. Nhưng anh càng kêu to hơn. Và Đức Giêsu đã dừng lại, truyền gọi anh lại. Đám đông thấy Đức Giêsu chiếu cố đến anh, liền “đổi giọng”. Đến đây xảy ra sự cắt đứt cuộc hành trình, Đức Giêsu đứng lại (c. 49): chính thái độ này đã làm thay đổi thái độ của đám đông và đưa lại cho anh mù sự di động và sự gần gũi. Lối xử sự của Đức Giêsu (đứng lại, truyền) đã làm cho hai bên có sự gặp nhau: anh ta có hướng đi tới. Sự việc anh vất áo choàng có nghĩa là đã chấm dứt sự cố định, để đạt sự di động. Hành vi “đến” (c. 50) đưa anh mù di chuyển mà gặp Đức Giêsu, và đưa anh vào “con đường” Người đang đi. “Đức Giêsu” và “con đường” là một; nói cách khác, sự gần gũi di động phối hợp với nhau: con đường đã mở ra cho anh mù.

 

* Đỉnh cao của bài tường thuật: anh mù được chữa lành và trở thành môn đệ (51-52).

Cái nhìn cho phép gần gũi dù ở xa, và bảo đảm cho có sự an toàn trong khi di động. Từ đó, ta mới hiểu tình trạng mù loà thật sự là tình trạng của đám đông và các môn đệ, một đám đông đang đi đường với Đức Giêsu: họ ở gần mà thật ra họ ở xa, vì họ chỉ có thể thấy đây là “Giêsu Nadarét”. Nay đã được “thấy” bằng lòng tin, Báctimê phải di động, phải theo Đức Giêsu trên đường. Công thức này thường được Mc (và Mt) sử dụng trong khung cảnh một sứ vụ do Đức Giêsu giao phó cho người môn đệ (Mc 1,44; 5,19; 10,21; 14,13).

 

+ Kết luận

“Sự mù lòa” tượng trưng sự xa cách dù gần gũi; “sự thấy được” tượng trưng sự gần gũi dù xa cách. Toàn bài xoay quanh những khái niệm này.

Trong bài nổi lên một số nghịch lý: người mù lại là người thấy rõ hơn mầu nhiệm của Đức Giêsu, người ngồi bên vệ đường lại có thể đến gần Đức Giêsu hơn những kẻ đi theo Người lâu nay. Tất cả là do đức tin của người ấy và sự chiếu cố của Đức Giêsu.

Sự gần gũi (bằng lòng tin) phải kéo dài; muốn thế phải di động (“anh đi theo Người  trên con đường Người đi”, ở thì vị hoàn). Đức Giêsu đã cắt đứt hành trình để kéo anh đi theo; anh cũng phải cắt đứt tình trạng bế tắc để đi theo Người. Đấy chính là kinh nghiệm về đời tín hữu.

 

5.- Gợi ý suy niệm

1. Chúng ta có thể suy nghĩ về thái độ của đám đông đi theo Đức Giêsu (trong đó có các môn đệ). Họ đã “đi theo” Người lâu nay, mà họ chỉ có thể giới thiệu về Người rất sơ sài: “Giêsu người Nadarét”. Vì thiếu lòng tin, họ đã không thể giới thiệu sâu sắc hơn về Người. Điều đó đã được tác giả Mc diễn tả bằng một câu thê lương: “Đức Giêsu dẫn đầu các ông. Các ông kinh hoàng, còn những kẻ theo sau cũng sợ hãi” (10,32).

2. Trong đời sống đức tin, đôi khi phải dám “đi ngược giòng”. Như anh mù, dù bị người ta quát nạt bắt im, anh vẫn cứ kêu lên Đức Giêsu, vì anh xác tín chỉ Người mới có thể mở cho đời anh một hướng mới. Chúng ta cũng được mời gọi gắn bó mật thiết với Người, vì chỉ Người mới là Đấng duy nhất dẫn chúng ta đi đúng đường.
3. Đức Giêsu đã cho các môn đệ biết mục tiêu của chuyến đi của Người: Người không đi lên Giêrusalem để làm vua, nhưng là để hy sinh mạng sống. Bước theo Người có nghĩa là chịu hy sinh với Người. Người đã nhấn mạnh trên điểm này, nhưng các bạn đồng hành không hiểu. Họ đang bị mù, họ cứ muốn giữ mắt nhắm lại và mơ những chỗ nhất trong vương quốc. Người mù Giêrikhô tượng trưng cho các môn đệ và tất cả những ai chưa được thấy ánh sáng của Đức Kitô, chưa được đón nhận Tin Mừng.
4. Cần phải được Đức Giêsu mở mắt tâm hồn để hiểu bản thân và sứ mạng của Người, cũng như để có thể sẵn sàng bước theo Người, làm môn đệ Người. Và khi đã nghe tiếng Đức Giêsu kêu gọi trong cuộc sống, cần mau mắn dứt khoát bỏ đi mọi sự, như bốn môn đệ đầu tiên đã tức khắc bỏ tất cả để đi theo Người. Phải chấp nhận liều lĩnh, để từ đây cuộc sống của người Kitô hữu sẽ là một sự hiệp thông thân tình với Người. 

                                                                                                Lm PX Vũ Phan Long, ofm



BÀI ĐỌC THÊM (18)

HAI NGƯỜI CON DÊBÊĐÊ: ĐỜI MÔN ĐỆ

(Máccô 10,35–45 – CN XXIX TN - B)

                                                                                                                                                       

 1.- Ngữ cảnh

Đểhiểu các bản văn Tin Mừng cho đúng đắn, điều cần thiết là không được cứu xét riêng rẽ từng biến cố và từng lời khẳng định, nhưng phải lưu ý đến các tương quan của chúng với nhau và từ đó hiều được ý nghĩa cũng như tầm quan trọng của chúng. Đức Giêsu không ban cho các môn đệ những chỉ thị riêng lẻ. Các lời Người nói với họ có nền móng là chính đời sống của Người và cách thức Người hành động; các lời ấy diễn tả cho biết cuộc hành trình của Người sẽ đưa lạiđiều gì cho những kẻ muốn sống hiệp thông với Người. Hoặc là hiệp thông hoàn toàn với Đức Giêsu hoặc là chẳng có hiệp thông gì cả. Chính vì phải sống trọn vẹn với Người, môn đệ không thể loại trừ chuyến đi của Người đến cuộc Thương Khó; đúng ra chính chuyến đi này lại đặc biệt phong phú về hệ quả cho đời môn đệ.

Sau lời loan báo cuộc Thương Khó lần thứ hai và thứ ba, thái độ đối kháng của các môn đệ và giáo huấn mới của Đức Giêsu vẫn cùng một kiểu. Các môn đệ chứng tỏ hết sức bận tâm tìm một vị trí có uy thế và thành công cho bản thân mình (Mc9,33-34; 10,35-40); Đức Giêsu lại nhắc họ nhớ bổn phận phục vụ (9,33; 10,41-45).



tải về 1.46 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   13   14   15   16   17   18   19   20   21




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương