Thánh Kinh và Huấn Luyện Lãnh Đạo Muối Đất Mở Rộng LÃnh đẠo theo phong cách thầy giê-su trong tin mừng mác-cô Giêrônimô Nguyễn Văn Nội



tải về 1.46 Mb.
trang14/21
Chuyển đổi dữ liệu11.09.2017
Kích1.46 Mb.
#33087
1   ...   10   11   12   13   14   15   16   17   ...   21

4.- Ý nghĩa của bản văn

* Mở (1-2)

Mở đầu chương 2, Mc lại cho thấy Đức Giêsu với hoạt động riêng và trong bối cảnh sinh hoạt của Người: “Người giảng lời cho họ”, còn “dân chúng tụ họp lại, đông đến nỗi trong nhà ngoài sân chứa không hết” (c. 2). Đức Giêsu rao giảng Tin Mừng cho dân chúng, còn dân chúng thì say mê lắng nghe lời Người giảng day.

 

* Tường thuật phép lạ (3-5a.11-12)

Một người đau khổ được giới thiệu với Đức Giêsu; người ta chờ đợi Đức Giêsu chữa anh ta lành. Ở đây có nhiều chi tiết lạ lùng. Làm thế nào hình dung ra được cảnh một nhóm trèo lên xé rách mái một ngôi nhà trong khi có một nhóm khác đang quy tụ trong nhà? Chúng ta thử nghĩ đến tiếng ồn và bụi bặm mà xem! Làm thế nào họ có thể mở một lỗ hổng đúng ngay nơi có Đức Giêsu? Chẳng lẽ họ không chờ được sao? Tại sao lại đi phá hỏng mái nhà? Tại sao lại kể với chúng ta là có bốn người khiêng? Làm thế nào Mc (không có ở đó) biết những gì các kinh sư đang thầm nghĩ? Đã có khi Đức Giêsu từ chối coi bệnh tật là một hình phạt dành cho tội (x. Ga 9,2-3), thế mà ở đây Người lại tha tội cho người chỉ đến để xin chữa lành, trước khi làm phép lạ (c. 5a.b). Cả những người khiêng lẫn người bại liệt đều không nói gì cả, đấy không phải là điều lạ lùng sao?

Từ tất cả những điểm nhận xét này, rõ ràng chúng ta không được hiểu theo mặt chữ những gì đọc được ở đây. Đức Giêsu đã thật sự chữa lành một người bại liệt, nhưng có nhiều yếu tố đã được thêm vào bản văn để giáo huấn. Chúng ta không bận tâm về chuỗi các sự cố, nhưng chỉ tập trung chú ý vào những gì Mc muốn nói với chúng ta, bằng ngôn ngữ biểu tượng. Chúng ta biết rằng Luật Do Thái buộc loại trừ những kẻ tàn tật khỏi cộng đồng con cái Israel (x. Lv 21,18). Việc người bại liệt được phép đi vào nhà trong đó các kinh sư đang có mặt gợi nhớ đến việc anh ta bị loại trừ khỏi dân Thiên Chúa. Những người tội lỗi không được đến với những người công chính, bởi vì người ta nghĩ là chính Thiên Chúa cũng loại trừ họ. Như thế, người bại liệt tượng trưng cho phần nhân loại sống xa Thiên Chúa và không thể đạt tới ơn cứu độ. Sự chữa lành chỉ có thể đến từ trên cao, như một ân huệ. Con số những người khiêng có tính biểu tượng: số 4, trong Kinh Thánh, có nghĩa là toàn thể thế giới.

Tại sao người bại liệt không thể đến với Đức Giêsu? Bởi vì các thủ lãnh tôn giáo đã quy định rằng những kẻ tội lỗi không được đến gần những người công chính. Trở ngại chỉ có thể vượt qua bằng cách phá ngôi nhà trong đó các kinh sư đang có mặt. Ngoài ra cũng chính các kinh sư dạy rằng một người không thể được chữa lành nếu trước đó tội lỗi của người ấy chưa được tha.

Bài tường thuật đã xác định rằng Đức Giêsu đã hành động “khi thấy họ có lòng tin như vậy”, nghĩa là không những người bại liệt mà cả những người khiêng. Lòng tin của những người khiêng có thể xin được Đức Giêsu chữa lành về thể lý, như trường hợp lòng tin của một người cha (x. 9,17-27); nhưng đức tin của người bại liệt là điều kiện để anh được tha tội. Vì thế, tuy bản văn không nói ra minh nhiên, ta hiểu là có ám chỉ đức tin của người bệnh nữa.

 

*  Tranh luận (5b-10)

Có những tác giả cho rằng đoạn văn kể lại cuộc tranh luận này do Giáo Hội soạn ra sau này, để nêu bật ý nghĩa sâu xa của phép lạ. Có những người lại nghĩ rằng Đức Giêsu đã thật sự nói những lời ấy trước khi làm phép lạ, nên đã để phép lạ tùy thuộc cuộc tranh luận. Nhưng trong cả hai giả thuyết, “mũi nhọn” của bài vẫn y nguyên: Đức Giêsu có quyền tha tội. Đây là điều mà các kinh sư không thể chấp nhận được: “Ông ấy nói phạm thượng! Ai có thể tha tội, ngoài một mình Thiên Chúa?”. Đàng khác, người bại liệt lại không làm một việc gì để xứng đáng với ơn tha tội. Đức Giêsu đã công bố rằng Thiên Chúa lấy sáng kiến và ban ơn tha tội cho con người mà không đòi hỏi điều kiện. Chính phép lạ đã xảy ra để chứng thực những lời Đức Giêsu nói.

 

+ Kết luận

Trong khung cảnh của TM II, sự việc Đức Giêsu chữa lành người bại liệt này là một khúc quanh. Con đường Đức Giêsu đi đã bắt đầu hướng về cuộc Thương Khó. Lc cũng muốn cho thấy định hướng này ngay vào đầu sứ vụ của Đức Giêsu (Nadarét: Lc 4,28-30). Còn với tác giả Mt, chính nơi cuộc thăm viếng của các đạo sĩ, nơi cuộc tàn sát các hài nhiều Bêlem, mà ngài đã thấy phác ra các biến cố Núi Sọ. Trong Mc, đáp lại năm cuộc tranh luận ở đầu sứ vụ, là năm cuộc tranh luận ở cuối sứ vụ (2,1–3,6; 11,27–12,37): thể văn  “đóng khung”.

Điều đã làm cho các kinh sư và người Pharisêu hết sức khó chịu, các Kitô hữu lại coi là yếu tố cốt yếu giúp tin vào Đức Giêsu. Họ đã thấy nơi việc tha tội công trình tuyệt hảo của Đấng Mêsia (x. Cl 1,14).

 

5.- Gợi ý suy niệm

1. Do lối hành động tội lỗi, chúng ta từ khước vâng phục Thiên Chúa và thay vì quay về với Ngài, chúng ta quay về với những khuynh hướng và dự phóng của chúng ta. Do đó, chúng ta phá hỏng tình hiệp thông với Ngài. Cuối cùng, chúng ta tách khỏi Ngài và không còn có thể giao hòa với Ngài bằng sức riêng chúng ta được. Bị tách ra khỏi Thiên Chúa là điều hụt hẫng to lớn nhất của loài người chúng ta. Nhưng đến đây, Đức Giêsu can thiệp. Lời uy quyền của Người giải thoát con người khỏi những hậu quả tai hại do dùng tự do cách sai lạc và ban cho con người một đời sống mới nhờ hiệp thông với Thiên Chúa. Đức Giêsu tha tội không phải theo kiểu là Người “che phủ” các lỗi lầm lại, y như thể Người “không thấy” các điều xấu xa. Người “tha thứ” bằng cách biến đổi trái tim con người, chữa con người khỏi tật nguyền luân lý và làm cho con người nên tốt. Điều mà bài Tin Mừng hôm nay muốn nhấn mạnh, đó là: hoán cải không phải là công việc của con người, mà là một ân huệ của Thiên Chúa.


2. Trong cuộc sống, chắc chắn chúng ta đã gặp những người “bại liệt” (do bệnh tật, do tật xấu, do hoàn cảnh xã hội, do thành kiến …). Chúng ta có nghĩ rằng chúng ta cũng đang được Chúa Kitô mời gọi trở thành “tay”, “chân” để giúp những anh chị em đang bị bế tắc đó có thể đến được ngôi nhà, nơi Đức Giêsu đang hiện diện, để nhận được ơn giải thoát? Chúng ta có ý thức rằng cộng đoàn chúng ta đã được Đức Kitô giao phó nhiệm vụ và quyền lực công bố ơn cứu độ cho tất cả những người bệnh tật?
3. Chúng ta có biết vui sướng khi khám phá và hoan nghênh chân lý, bất kể nó từ đâu đến chăng, như thánh Phaolô đã viết: “Đức mến vui khi thấy điều chân thật” (1 Cr 13,6)? Thật ra, để khám phá ra chân lý tại bất cứ nơi đâu, nơi bất cứ con người nào, cần phải có hảo ý trước. Các kinh sư trong bài Tin Mừng không có hảo ý trước. Trong cuộc sống, có những người chỉ có thể tái xây dựng đời sống của họ, nếu họ có một người bạn chân thật sẵn sàng dẫn họ đến với Đức Kitô.

 

Lm PX Vũ Phan Long, ofm



 

BÀI ĐỌC THÊM (12)

ĐỨC GIÊSU CHỮA LÀNH BÀ BỊ BĂNG HUYẾT

VÀ CHO CON GÁI ÔNG GIA-IA SỐNG LẠI

(Mc 5,21-43 – CN XIII TN - B)
 

1.- Ngữ cảnh

Đoạn văn này tổng hợp hai truyện về chữa lành (con gái ông Gia-ia [Mc 5,21-24.35-43] và bà băng huyết [Mc 5,25-43]). Đây là một ví dụ nữa về cấu trúc “tháp ghép [sandwich construction]” của tác giả (x. 1,21-28; 2,1-12; 3,21-35; 6,7-33; 11,11-21; 14,1-11). Hai truyện này có nhiều điểm chung: những người đau khổ là những người nữ; con số 12 (5,25.42); và từ vựng (“lòng tin”, “sự sợ hãi”, “khỏi/lành mạnh”, “con [gái]…”). Tuy nhiên, giọng văn của hai truyện này không giống nhau, khiến phải cho rằng đây là hai truyện lúc đầu độc lập với nhau: Truyện con gái ông Gia-ia được kể bằng những câu ngắn, với ít phân từ (participles) và các động từ ở thì hiện tại lịch sử (historic present); còn truyện bà băng huyết được kể bằng những câu dài, dùng nhiều phân từ và ở thì quá khứ aorist và vị hoàn (imperfect).



 

2.- Bố cục

Bản văn này có thể chia thành ba phần:

1) Mở: Khung cảnh, các nhân vật (5,21);

2) Hai truyện về chữa lành (5,22-42a):

a- Chữa con gái ông Gia-ia (cc. 22-24.35-42a),

b- Chữa bà băng huyết (cc. 25-34);        

3) Kết: Phản ứng của dân chúng và lệnh của Đức Giêsu (5,42b-43).

 

3.- Vài điểm chú giải

- lại trở sang bờ bên kia (21): Đức Giêsu trở lại bờ biển phía tây (x. 4,35).

- một ông trưởng hội đường tên là Gia-ia (22): Ít ra ta biết Gia-ia là một thành viên vị vọng của hội đường Do Thái, thuộc hàng kỳ mục có nhiệm vụ quan tâm đến những vấn đề tôn giáo và xã hội của cộng đồng. Tên Híp-ri Ya’ir (x. Ds 32,41; Tl 10,3-5; HL. Iaðros) có nghĩa là “ước gì Ngài (= Thiên Chúa) soi sáng”.

- sụp xuống… khẩn khoản nài xin (22-23): “Sụp xuống” (HL. piptei, x. 3,11; 5,33; 7,25) tương tự động từ proskyneô (“quỳcxuống”; x. 5,6; 15,19), là thái độ vâng phục bày tỏ với một người trên, và trong ngữ cảnh khác, là sự tôn kính bày tỏ ra với Thiên Chúa. Tác giả dùng hai động từ trên để giới thiệu Gia-ia như là một người cầu xin: vì ở trong một hoàn cảnh bế tắc, một bậc vị vọng Do Thái đã xin Đức Giêsu giúp đỡ.

- con bé: “con gái nhỏ” (HL. thygatrion, từ giảm nhẹ của thygater, “con gái”). Từ giảm nhẹ này nói lên tình âu yếm của người cha đối với con mình.

- gần chết rồi: Mt nói “vừa mới chết” (Mt 9,18), còn Lc thì nói “đã gần chết (đang hấp hối)” (NTT; Lc 8,42). Mc thì viết “đã gần lâm chung” (NTT) (HL. eschatôs echei).

- bà băng huyết (25): Chứng bệnh này làm cho người phụ nữ bị ô uế về phương diện tế tự (x. Lv 15,19.25), và do đó, tất cả những gì bà động chạm đến cũng trở nên ô uế.



- khổ sở vì chạy thầy chạy thuốc (26): Lời kết án các thầy thuốc đây thuộc nguồn riêng của Mc. Tác giả Lc sẽ nói nhẹ nhàng hơn (x. Lc 8,43).

- sợ phát run lên (33): Bà sợ có lẽ vì thấy mình đã làm cho Đức Giêsu bị luỵ vào tình trạng ô uế theo luật. Nhưng cũng có thể bà sợ vì thấy điều vừa xảy ra cho mình. Sợ và run cũng là một phản ứng của con người khi Thiên Chúa tỏ mình ra (x. Xh 15,16; Đnl 2,25; 11,25; Gđt 15,2).

- lòng tin (34): Đây không phải chỉ là một cuộc chữa lành thể lý nhờ tiếp xúc bên ngoài với bản thân Đức Giêsu, nhưng là ơn cứu độ mà lời Người loan báo và ban cho tất cả những ai tin tưởng đến với Người. Vì thế động từ sesôken có thể dịch là “đã chữa con lành” hoặc “đã cứu con”.

- đến đặt tay lên cháu, để nó được cứu thoát và được sống: Việc đặt tay trên người đau ốm là một cử chỉ thường có trong các nghi thức chữa bệnh ngày xưa, dựa trên ý tưởng người chữa bệnh là một người đầy quyền lực (x. 5,27-30: một kiểu tiến hành ngược lại). Những từ ông Gia-ia nói ra (“được cứu thoát”, “được sống”) là những từ chuyên môn được các nhóm Kitô hữu tiên khởi sử dụng để nói về sự cứu độ và sự sống được phục hồi (sống lại). Như vậy, rất có thể các Kitô hữu tiên khởi đã coi câu truyện phục hồi sự sống cho con gái Gia-ia là một lời tiên báo hoặc một sự tiền dự  vào sự sống lại của Đức Giêsu và của những ai tin vào Người.

- con gái ông chết rồi (35): Gia-ia chìm đi một lúc trong đám đông đang đi theo Đức Giêsu. Trong khoảng thời gian này, bà băng huyết được chữa lành. Đến lúc ấy, Gia-ia nhận được tin chẳng lành: con gái ông đã chết! Vậy thì “làm phiền Thầy chi nữa?”. Dưới mắt những người đưa tin, người cha đã đến gặp Đức Giêsu quá muộn. Chính họ vừa mới nói ra sự không tin của họ; chính thái độ này vừa như muốn giới hạn quyền năng Đức Giêsu lại vừa muốn lung lạc lòng tin của Gia-ia.

- Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi (36): Đức Giêsu đã trấn an ông, bởi vì ông cần phải thắng vượt được nỗi sợ hãi của ông, để sẵn sàng chứng kiến quyền lực thần linh của Đức Giêsu hiển lộ ra. Công thức “Đừng sợ” ở những chỗ khác thường được dành cho các hoạt cảnh mạc khải (x. 6,50; Mt 28,5; Lc 1,13.30); ở đây công thức này cũng đang chuẩn bị một cảnh thuộc loại đó. Tác giả Mc thường nhấn mạnh đến nỗi sợ hãi, kinh ngạc hoặc kinh hoàng nơi những người đã chứng kiến các phép lạ (x. 1,27; 2,12; 4,41; 5,15; …), nhưng những phản ứng này không đưa tới đức tin. Đức Giêsu khuyến khích Gia-ia đừng chao đảo trong đức tin, bởi vì, như Đức Giêsu sẽ nói với người cha của đứa bé động kinh, “cái gì cũng có thể, đối với người có lòng tin” (9,23).

- người ta khóc lóc, kêu la ầm ĩ (38): Tình trạng ồn ào, với sự hiện diện của những người khóc mướn, dường như chứng tỏ đứa bé đã chết thật rồi. 

- nó ngủ đấy (39): Trong ngôn ngữ Kinh Thánh, cái chết thường được tượng trưng bằng giấc ngủ (Đn 12,2; Ga 11,13; 1 Cr 15,20.51; Ep 5,14; 1 Tx 5,6.10). Bản LXX cũng thường dùng động từ “ngủ” để nói về cái chết. Bản văn Mt 9,18 và Lc 8,53.55 cũng theo ý nghĩa ấy. Nhưng động từ ấy, trong bản văn Mc thì còn  có vẻ hàm hồ,  lý do là ngay ở đầu, tác giả ghi nhận là đứa bé chưa chết. Dù câu truyện có vẻ là cuộc phục sinh một em bé, biết đâu chừng nó chưa chết, chỉ rơi vào tình trạng hôn mê thôi; và Đức Giêsu với cái nhìn  thấu suốt, đã nhận ra tình trạng ấy của đứa bé, nên đã nói như thế? (x. Mann; NJBC). Khi đó, câu truyện này sẽ là truyện về một cuộc chữa lành ngược lại mọi hy vọng và ngược lại sự lượng định khôn ngoan của những người có mặt (x. 5,43).

- Họ chế nhạo Người (40): Phản ứng mạnh mẽ của đám đông được nhắc tới bằng câu này vừa cho thấy họ không tin vừa càng nêu bật tính cách phi thường của những gì Đức Giêsu sắp làm. Cha mẹ em bé ở vào vị trí chứng nhân cùng với Phêrô, Giacôbê và Gioan. Dường như mọi người đều đồng ý là đứa bé đã chết.

- nơi nó đang nằm: Đây là chi tiết của riêng Mc. Câu này chứng tỏ Đức Giêsu vào phòng lần đầu tiên.

- Talitha koum (41): (Aram tơlitha’ qum). Chi tiết này rất có thể chứng tỏ câu truyện đang được một người đã chứng kiến tận mắt kể lại.

- đứng dậy và đi lại được (42): Hai động từ này được dừng ở hai thì khác nhau. “Đứng dậy”, anestê, ở thì quá khứ aorist, diễn tả một hành vi vừa làm xong, còn “đi lại”, periepatei, ở thì vị-hoàn (imperfect), diễn tả một hành vi còn kéo dài.

 

4.- Ý nghĩa của bản văn



* Mở: Khung cảnh, các nhân vật ( 21)

Chúng ta gặp lại những yếu tố quen thuộc trong câu mở đầu này: đám đông qui tụ ở bờ Biển Hồ (x. 4,1), con thuyền (x. 4,1.36), vượt hồ (x. 5,1t) . 

 

* Hai truyện về chữa lành (22-42a)

Đức Giêsu đào tạo các môn đệ không những bằng lời nói mà còn bằng các hành động nữa. Một vài hành động nổi bật hẳn, bởi vì Người chỉ cho Phêrô, Giacôbê và Anrê tham dự thôi (5,35-43; 9,2-9; 14,32-42). Trong truyện cho con gái Gia-ia sống lại, tác giả nói hai lần là Đức Giêsu chỉ đưa ba môn đệ ấy theo thôi (cc. 37.40). Họ không có nhiệm vụ nào cả; họ chỉ phải có mặt mà trực tiếp chứng kiến một hoàn cảnh bế tắc về phương diện con người, nhưng cũng thấy sự tin tưởng người ta đăt vào Đức Giêsu và thấy quyền lực siêu phàm của Người.

Trong sự cố bà băng huyết được lành, họ đã thấy: bà hoàn toàn không mong dựa vào sức lực con người nữa, nhưng bà vẫn không mất hy vọng, bà đặt tin tưởng nơi Đức Giêsu (c. 28). Gia-ia thì hy vọng là nhận được sự trợ giúp cho con gái ông đang hấp hối (c. 23). Nhưng trên đường về có Đức Giêsu cùng đi, ông đã được tin chẳng lành. Đây là điểm gay cấn. Có tương quan nào giữa Đức Giêsu và cái chết? Phải chăng Đức Giêsu có là thầy thuốc tài giỏi nhất, cũng phải bó tay trước cái chết? Người đã kêu mời Gia-ia đừng sợ hãi và thất vọng, nhưng hãy đứng vững trong niềm tin (c. 36). Giữa lời khuyên của các sứ giả (c. 35) và lời khuyến khích của Đức Giêsu, ông đã nghe theo Đức Giêsu và đi với Người đến với đứa con gái vừa tắt thở. Đức Giêsu không rút lại sự giúp đỡ đã hứa và tiếp tục tiến bước, dù bây giờ là tiến bước đến với một người đã chết.

Đến đây, Đức Giêsu muốn ba môn đệ chọn lọc có măt, không phải để họ tích cực làm việc gì, nhưng để họ tham dự vào sự cố thật gần gũi. Khi Đức Giêsu nói rằng em bé chỉ “ngủ” thôi, mọi người đều chế nhạo Người, bởi vì họ chắc chắn em đã chết. Bây giờ, Người lại làm một cuộc phân rẽ nữa: chỉ cha mẹ em bé và ba môn đệ được đi với Người vào gặp em bé đã hết. Họ đã chứng kiến hành động hết sức đơn giản của Người: Người chỉ cầm lấy tay em và gọi em dậy. Thế là chuyện không thể tin nổi đã xảy ra: em đứng dậy và đi lại được. Tác giả còn ghi lại một chi tiết cho thấy Đức Giêsu rất tinh tế: Người bảo họ “cho con bé ăn”.            

 

* Kết: Phản ứng của dân chúng và lệnh của Đức Giêsu (42b-43)

Hành vi của Đức Giêsu đã làm nổ tung các giới hạn của mọi niềm hy vọng, và cả những giới hạn của kinh nghiệm của các môn đệ. Họ phải nhìn nhận: Đức Giêsu mạnh hơn sự chết. Các môn đệ không còn như trước nữa; một thực tại mới vừa xuất hiện ở chân trời kinh nghiệm của họ. Đứng trước cái chết, các môn đệ có thể trả lời với nó không chỉ bằng các tiếng than van rỗng tuếch, nhưng bằng niềm tin tưởng vào quyền lực của Đức Giêsu. Họ không mạnh, nhưng họ biết rằng Đức Giêsu rất mạnh. 

 

+ Kết luận

Nơi ông Gia-ia và bà băng huyết, tác giả Mc cho chúng ta thấy hai ví dụ tương tự về bước đi của người tín hữu và câu trả lời họ nhận được từ Đức Kitô. Bên kia phép lạ thể lý, tác giả muốn giúp chúng ta cảm nhận được sự sống viên mãn Đấng Cứu Thế ban cho người tín hữu, lúc này, khi Người đã được tôn vinh bởi cuộc Khổ Nạn và Phục Sinh.

 

5.- Gợi ý suy niệm

1. Người Kitô hữu cũng là người được Đức Giêsu tách riêng ra để trải nghiệm quyền lực của Người trên những hoàn cảnh gay go. Chắc chắn Đức Giêsu không muốn chúng ta nhắm mắt khi đứng trước các giới hạn của khả năng con người, hoặc chao đảo giữa ảo tưởng và thất vọng. Chúng ta sẽ phản ứng thế nào? Là chứng nhân của Đấng là Chúa tể, chúng ta biết mời gọi người ta bình tĩnh giữ vững niềm tin? Hay là chỉ hùa theo số đông, buông xuôi theo hoàn cảnh khó khăn như một định mệnh khắc nghiệt?


2. Ông Gia-ia đã chứng tỏ một đức tin đáng phục. Bà băng huyết cũng có những suy nghĩ và chọn lựa nói lên lòng tín thác. Bởi vì Đức Giêsu có đó để khuyến khích, trấn an, mời gọi họ vững vàng đi tới. Niềm tin vào Đức Giêsu hôm nay có giúp các môn đệ của Người hiên ngang tiến đi và làm điểm tựa cho người khác trong hành trình đức tin của họ?
3. Cũng cần phải hiểu Đức Giêsu có uy quyền như thế, nhưng vì sao Người đã không cho mọi người chết sống lại, tức là hiểu ý nghĩa của việc Đức Giêsu cho em bé này sống lại, dù sau đó em sẽ lại chết. Bên kia phép lạ, Đức Giêsu mời gọi chúng ta khám phá ra mầu nhiệm bản thân Người. Bên kia cái chết thể lý, Người mời chúng ta hướng tới sự sống viên mãn.
4. Trong hành trình phục vụ, nếu tin tưởng tuyệt đối vào Đức Giêsu, chúng ta sẽ tiếp tục tiến bước, dù con đường trước mắt có vẻ đã khép lại. Trong trăm công nghìn việc nhằm phục vụ hạnh phúc của con người, chúng ta vẫn được mời học lấy cái nhìn tinh tế và ân cần của Đức Giêsu: “cho con bé ăn”. Đức Giêsu thấy nhu cầu nhỏ bé của từng con người, dù bé nhỏ. Người không bao giờ vì số đông mà quên từng cá nhân và coi thường nhu cầu của từng cá nhân.

 

Lm FX Vũ Phan Long, ofm



 

 
BÀI ĐỌC THÊM (13)



ĐỨC GIÊSU CHỮA MỘT NGƯỜI PHONG HỦI

(Máccô 1,40-45 – CN  VI TN - B)

                                               




1.- Ngữ cảnh

Tác giả đã đặt câu truyện này vào thời gian Đức Giêsu thi hành sứ vụ tại Galilê. Chúng ta chỉ biết tổng quát như thế nhờ c. 39. So sánh với hai tác giả nhất lãm kia (Mt 8,2-4; Lc 5,12-16), chúng ta cũng thấy bối cảnh không rõ ràng. Mỗi tác giả đã kể lại câu truyện này theo những bận tâm thần học của mình mà thôi. Trong TM Mc, với mẩu truyện cuối cùng này của ch. 1, hành động quyền lực của Đức Giêsu đã đạt tới đỉnh cao nhất, vì Người chữa lành được bệnh phong hủi.  

 

2.- Bố cục

Bản văn này có ba phần:

1) Chữa lành người phong hủi (cc. 40-42);

2) Lệnh cấm nói và trình diện tư tế (cc. 43-44);

3) Biến cố được phổ biến và hậu quả (c. 45).

 

3.- Vài điểm chú giải

- người bị phong hủi (40):  Sách Lêvi đã nói đến chứng bệnh này trong ch. 13–14: bệnh lây lan đặc biệt nguy hiểm, cũng là hình phạt dành cho tội lỗi. Chính vì thế, người ta không nói “chữa lành” nhưng là “được thanh tẩy (làm cho sạch)” khỏi bệnh phong hủi. Ta hiểu được một lối chơi chữ trên hai từ Híp-ri nâga‛ (“nó đánh”) và nega‛ (“đòn đánh”; “vết phong hủi”; “người mắc bệnh phong hủi”) (x. 2 V 15,5; 2 Sb 26,19-20; Is 53,4.8).

Người tôi tớ của Đức Chúa được mô tả như người phong hủi (Is 53,3-5). Nhìn thấy Người, dân chúng tưởng Người đã phạm tội (x. G 4,7tt; 8,13tt; 2,7-8). Vị ngôn sứ không phủ nhận nguyên nhân là tội, nhưng đây là tội của dân.

Từ đó, ta hiểu vì sao xử lý những ca bệnh phong hủi được dành cho các tư tế: các vị là những nhà chuyên môn phân biệt được các dạng bệnh, và chỉ các vị mới đưa người đã lành bệnh tái tháp nhập cộng đồng dân Chúa bằng nghi lễ thanh tẩy (x. Lv 13; 14,19; Đnl 24,8).

Tuy nhiên, nếu đúng là bệnh phong thì người ta coi là chỉ có Thiên Chúa mới chữa được, bởi vì cũng giống như gọi một người chết về lại với cuộc sống. Thiên Chúa cũng có ban quyền chữa bệnh phong cho những ngôn sứ lớn, như Môsê (Ds 12,9-14; x. Xh 4,6-8) và ngôn sứ Êlisa (2 V 5,9-14). Vậy, người ta còn có thể chờ đợi ai chữa bệnh phong hủi trong tương lai, nếu không phải là chờ đợi Đấng Mêsia (x. Mt 11,5)?

- Người chạnh lòng thương (41) (HL. splanchnistheis, partic. aorist của động từ  splanchnizomai do từ  ta splanchna, lòng dạ): “bị rúng động”; “bị chuyển động trong lòng”.

- giơ tay đụng vào anh: Hành vi này là tiêu biểu của một cuộc chữa lành bằng uy quyền. “Đụng” đây không phải là vi phạm quy định của luật lệ Do Thái liên hệ đến sự trong sạch, nhưng là chuyển thông sức mạnh chữa lành.

- Người nghiêm giọng  (“làm gắt”, NTT) (43): Động từ Hy Lạp embrimaomai, “khịt khịt” (ngựa); “phát tiếng hừ hừ do cơn giận dữ trong lòng” (người). Đức Giêsu cho hiểu rằng Người vừa làm một việc ngoại lệ là chữa bệnh công khai, ngược lại với quyết định của Người. Do đó, Người “đuổi” anh này đi ngay để người ta đừng hiểu sai sứ mạng của Người. Động từ embrimaomai không có từ tương đương trong ngôn ngữ Tây phương (TOB: s’irritant; BJ: en le rudoyant; NAB: warning him sternly; Mann: sent him away with the stern warning).

- để làm chứng cho người ta biết (“để làm chứng trước mặt họ”, NTT) (44): Có những người cho rằng câu này nhắm đến dân chúng (chẳng hạn, cha Lagrange: “pour l’attester au peuple”). Nhưng hiểu như thế có phần ép bản văn. Quả thật, Đức Giêsu bảo người phong đến trình diện tư tế và nhắc anh phải dâng một hy lễ đúng theo Lv 14,1-32, nhưng theo ý nghĩa minh nhiên của bản văn, đại danh từ quy về các tư tế. Việc chuyển đi từ số ít sang số nhiều được giải thích là: việc làm chứng sẽ vượt quá cá nhân vị tư tế chứng thực, để đến với toàn giai cấp tư tế. Như thế, Đức Giêsu đã giao cho anh này một sứ mạng phải thực hiện nơi các tư tế (x. Mc 5,19): việc chữa lành người phong hủi là một dấu chỉ thiên sai. Vì chiếu cố đến họ, Đức Giêsu đã miễn chuẩn lệnh truyền về bí mật thiên sai.

 

4.- Ý nghĩa của bản văn



* Chữa lành người phong hủi (40-42)

 Với bài tường thuật Đức Giêsu chữa người phong hủi để kết thúc ch. 1, Mc đưa hành vi quyền lực của Đức Giêsu tới tuyệt đỉnh. Bệnh phong được người Do Thái coi như là một chứng bênh đặc biệt trầm trọng. Lời khẩn cầu của người bệnh chứng tỏ một niềm tin tưởng phi thường: “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch” (c. 40). Anh ta gán cho ý muốn của Đức Giêsu một quyền lực to lớn. Lời khẩn cầu này cũng vừa là một thách đố vừa chứng tỏ lối xử sự trước đây của Đức Giêsu đã gây ra ấn tượng nào và thức tỉnh những niềm chờ mong nào. Đức Giêsu hành động như Thiên Chúa: chỉ cần Người muốn một điều là điều ấy được thực hiện. Người phong hủi được chữa lành tức khắc. 



* Lệnh cấm nói và trình diện tư tế (43-44)

    Đức Giêsu đã gửi anh đi trình diện với các tư tế, để các vị này ghi nhận bệnh đã lành và để cho kẻ trước đây bị loại trừ nay được chấp nhận vào lại trong cộng đồng mà chia sẻ cuộc sống và hiệp thông vào nền phụng tự của anh em mình. Đức Giêsu từ chối mọi thứ quảng cáo ầm ĩ và cấm người đã khỏi bệnh nói về chuyện mình được chữa khỏi.



* Biến cố được phổ biến và hậu quả (45)

    Tuy nhiên, anh này không tuân theo lệnh của Đức Giêsu, anh đã rao truyền khắp nơi những gì đã xảy ra cho anh. Do đó, danh tiếng của Đức Giêsu càng lan rộng hơn nữa và tiếp tục làm gia tăng lòng tin tưởng vào Người: dân chúng từ khắp nơi tuôn đến với Người. Thật ra, các hành vi quyền lực của Đức Giêsu không có ý nghĩa tối hậu nơi sự kiện là có người bệnh nào đó được khỏi. Ý nghĩa của các hành vi đó là cho thấy rõ ràng quyền lực cao vời của Thiên Chúa, thấy rằng Triều Đại Thiên Chúa đang đến gần, để mọi người có thể tin vào Người. 

 

+ Kết luận

Chữa bệnh phong hủi là một dấu chỉ thiên sai. Mục tiêu Mc nhắm là cho thấy Đức Giêsu đến loan báo Tin Mừng về Nước Thiên Chúa, làm chứng về quyền chúa tể của Thiên Chúa đang tìm cách cứ độ con người. Tuy nhiên, ơn cứu độ Người hứa ban không phải là một ơn cứu độ phi nhân, trái lại được gửi đến cho trọn vẹn con người. Thiên Chúa đã làm điều đó nơi Đức Giêsu, Đấng có một trái tim biết thương cảm.

 



tải về 1.46 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   10   11   12   13   14   15   16   17   ...   21




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương