THẾ thân bồ TÁt câu xá luận tụng lưỢc thích I


Tiết 2: Nhân duyên thuyết giáo



tải về 0.86 Mb.
trang13/19
Chuyển đổi dữ liệu13.03.2018
Kích0.86 Mb.
#36476
1   ...   9   10   11   12   13   14   15   16   ...   19

Tiết 2: Nhân duyên thuyết giáo


Vì lý do gì đức Thế Tôn nói pháp môn uẩn, xứ và giới này?

Tụng đáp.

Âm Hán Việt:

Ngu, căn, lạc, tam cố,


Thuyết uẩn, xứ, giới tam. (17b)

Dịch nghĩa:

Vì ngu si, căn tánh và sự ưa thích, mỗi loại đều có ba hạng,
Do đóThế Tôn nói ba khoa uẩn, xứ và giới. (½ tụng 17)

Ngu  tức ám muội, đối với cảnh sở duyên không có nhận thức sáng suốt rõ ràng. Thể của sự ngu muội này là vô minh. Có 3 loại ngu si:

1. Ngu chấp tâm sở làm thật ngã. Hạng này đối với tâm sở, không có sự nhận thức rõ ràng cho nên đức Thế Tôn nói pháp năm uẩn để phá trừ; vì trong 5 uẩn, sắc và tâm vương mỗi thứ chỉ 1 uẩn, còn tâm sở gồm đến 3 uẩn, nên đối với tướng của tâm sở mà quán sát kỹ càng xem đó phải chăng là thật ngã?

2. Ngu chấp sắc pháp làm thật ngã. Đây là hạng người đối với sắc pháp không có sự nhận thức rõ ràng nên đức Thế Tôn nói 12 xứ để phá trừ. Vì trong 12 xứ, trừ ý và pháp, còn lại 10 xứ kia đều là sắc pháp, do đó mà có thể quán sát kỹ càng xem đây phải chăng là thật ngã?

3. Ngu chấp sắc tâm làm thật ngã. Hạng người này, đối với sắc lẫn tâm đều không có sự nhận thức rõ ràng nên đức Thế Tôn nói 18 giới để phá trừ. Vì trong 18 giới, có 10 giới (5 căn và 5 cảnh) cùng với một phần pháp giới, tức vô biểu sắc, đều là sắc pháp, còn 7 giới kia và một phần pháp giới đều là tâm pháp nên đối với 2 nghĩa sắc và tâm ngài họp lại để giảng thuyết.

Căn  là căn tánh của hữu tình, cũng được chia làm 3 hạng:

1. Lợi căn. Đây là hạng người căn tánh rất thông minh, thoáng nghe đã hiểu cho nên đức Thế Tôn giáo hóa họ bằng pháp 5 uẩn.

2. Trung căn. Hạng này kém hơn hàng lợi căn nên đức Thế Tôn giáo hóa họ bằng pháp 12 xứ.

3. Độn căn. Hạng này căn tánh tối tăm chậm lụt, cần phải nghe nhiều mới lãnh hội, cho nên đức Thế Tôn giáo hóa họ bằng pháp 18 giới.

Lạc  là sự ưa thích của loài hữu tình, cũng có ba hạng:

1. Thứ nhất là hạng người ít ham muốn. Vì thế đức Thế Tôn nói pháp 5 uẩn để giáo hóa họ.

2. Thứ hai là hạng ham muốn vừa vừa. Vì thế đức Thế Tôn nói pháp 12 xứ để giáo hóa họ.

3. Hạng thứ ba là người nhiều ham muốn. Vì thế đức Thế Tôn giáo hóa họ bằng pháp 18 giới.

Tóm lại, đức Phật thuyết pháp giống như vị lương y tùy bịnh mà cho thuốc. Để thích ứng với nhiều căn cơ sai khác của chúng sanh, khiến họ được nhiều lợi ích, cho nên Ngài phân biệt nói có 3 khoa.



Đồ biểu ba khoa
UẨN...... hạng người ngu tâm sở..... lợi căn....... thích gọn
XỨ......... hạng ngu sắc pháp........... trung.......... thích vừa
GIỚI.... hạng ngu sắc và tâm........ độn căn..... rộng

---o0o---


Tiết 3: Lập và phế các uẩn


Trong 46 tâm sở, tại sao hành uẩn  lại gồm 44 món mà 2 tâm sở thọ và tưởng lại được lập riêng thành hai uẩn?

Tụng đáp.

Âm Hán Việt:

Tránh căn, sanh tử nhân,


Cập thứ đệ nhân cố,
Ư chư tâm sở pháp,
Thọ tưởng biệt vi uẩn. (18)

Dịch nghĩa:

Vì là nhân của tránh căn, của sanh tử,
Và vì là nguyên nhơn của thứ tự,
Cho nên đối với các tâm sở,
Lập riêng thọ và tưởng thành 2 uẩn. (tụng 18)

Bài tụng trên đây nhắm giải thích lý do vì sao mà lập riêng 2 tâm sở thọ và tưởng thành 2 uẩn. Có ba lý do:

1. Vì nguyên nhân của tránh căn. Tránh tức phiền não. Căn là cội rễ. Vì phiền não là cội rễ của mê lầm nên gọi là tránh căn. Có hai loại:

a. Những người tại gia đối với cảnh ngũ dục thường sanh lòng tham đắm (ái).


b. Những người xuất gia thường móng khởi những vọng kiến chấp trước (kiến).

Hai sự mê lầm trên đây do đâu mà có? Do có tâm sở thọ; thọ lãnh cảnh ngũ dục cho nên sanh lòng tham đắm. Do tâm sở tưởng, móng khởi những tư tưởng điên đảo nên phát sanh vọng kiến. Chính thọ và tưởng là nguyên nhân đặc biệt sanh ra các phiền não như thế, cho nên trong 46 tâm sở lập riêng chúng làm hai uẩn.

2. Vì nguyên nhân của sanh tử. Sanh tử là kết quả của mê lầm. Cái nguyên nhân đặc biệt đưa đến kết quả mê lầm đó, chính là thọ và tưởng. Chúng ta chìm đắm lưu chuyển trong sanh tử vì đắm say hưởng thọ khoái lạc, móng khởi những tư tưởng điên đảo. Căn cứ vào nguyên nhân đặc biệt đó của thọ và tưởng nên lập riêng chúng thành hai uẩn.

3. Vì nguyên nhân của thứ tự. Vì căn cứ vào thứ tự sai khác của tùy thô, tùy nhiễm, tùy khí và tùy giới biệt, nên lập riêng thọ và tưởng thành hai uẩn để tạo thành thứ lớp của sắc, thọ, tưởng, hành và thức.

Tại sao năm uẩn  chỉ thâu tóm các pháp hữu vi mà không bao gồm các pháp vô vi?

Tụng đáp.

Âm Hán Việt:

Uẩn bất nhiếp vô vi,


Nghĩa bất tương ưng cố. (19a)

Dịch nghĩa:

Uẩn không bao gồm các pháp vô vi,
Vì ý nghĩa không tương ưng. (½ tụng 19)

Bởi vì, thể của pháp vô vi không có nghĩa biến hoại và biến ngại như sắc pháp, và không có tác dụng liễu biệt các cảnh như thọ, tưởng v.v... Cho nên không được xếp vào năm uẩn.

Lại nữa, các pháp vô vi không tương ưng với thức nên không xếp vào năm uẩn.

Vậy, tại sao không lập thêm uẩn thứ sáu để thâu nhiếp chúng? Như trước đã giải thích, uẩn có nghĩa là tích tụ. Các pháp hữu vi, hoặc quá khứ, hoặc hiện tại, hoặc vị lai, hoặc trong, hoặc ngoài v.v… dù có nhiều thứ loại sai khác, nhưng chúng đều có thể được thâu tóm lại thành một nhóm, và nhóm thứ nhất gọi là sắc uẩn cho đến nhóm thứ 5 gọi là thức uẩn. Còn các pháp vô vi không có quá khứ, hiện tại, vị lai v.v… không có phẩm loại sai khác, và không có nghĩa tích tụ thì làm thế nào mà lập thành riêng một uẩn được.

---o0o---

Tiết 4: Thứ lớp các danh từ

Đoạn 1: Thứ lớp của năm uẩn


Thứ lớp của năm uẩn như thế nào?

Tụng đáp.

Âm Hán Việt:

Tùy thô, nhiễm, khí đẳng,


Giới biệt thứ đệ lập. (19b)

Dịch nghĩa: 

Tùy theo tính cách thô, nhiễm, vật khí,
Và giới biệt, mà thành lập thứ lớp. (½ tụng 19)

Đây là trình bày thứ lớp của năm uẩn. Có 4 nghĩa:

1. Tùy thứ lớp thô, tức thứ lớp trước thô sau tế. Sắc uẩn có ngại, có đối, so với 4 uẩn sau chúng vô hình, nên sắc uẩn thô hơn và vì vậy nó được nói trước hết. Trong 4 uẩn kế tiếp, thọ có khổ, lạc…, nên đối với thân có sự cảm nhận đau khổ, hay khoái lạc của nó thô hơn uẩn sau, do đó được xếp hàng thứ nhì. Trong 3 uẩn sau, tưởng uẩn là sự tưởng về các tướng sai biệt nam nữ v.v..., so với 2 uẩn còn lại, nó dễ nhận biết hơn, nên xếp vào hàng thứ ba. Hành uẩn trong 2 uẩn cuối bao gồm các phiền não tham, sân v.v.., so với thức uẩn, hành tướng của nó rõ ràng hơn nên xếp vào hàng thứ tư. Còn thức uẩn là tâm vương, tóm thâu hết các cảnh tướng, hành tướng của nó rất vi tế, khó phân biệt, nên xếp vào hàng sau cùng.

2. Thứ lớp tùy nhiễm. Nhiễm tức phiền não nhiễm ô. Căn cứ vào thứ lớp sanh khởi phiền não nhiễm ô này mà lập ra năm uẩn. Từ vô thỉ đến nay, kẻ nam người nữ yêu thương lẫn nhau đầu tiên là do các hiển hình sắc như nhan sắc, dung mạo; đối với các hiển hình sắc đó mà phát sanh sự ái lạc. Do mong cầu ái lạc, phát sinh đắm trước lạc thọ. Lại nữa, ý tưởng điên đảo của mỗi người sanh khởi là do nghiệp phiền não (nghiệp phiền não được xếp vào hành uẩn), và nghiệp phiền não thì lại lấy thức làm chỗ nương tựa. Do đó nên có thứ tự của sắc, thọ, tưởng, hành và thức.

3. Thứ lớp tùy khí. Đây là thứ lớp theo vật khí - vật đựng món ăn, đồ ăn, gia vị, người đầu bếp và thực khách, để ví dụ. Muốn đãi khách, trước hết cần phải chuẩn bị vật đựng món ăn, kế đó tìm kiếm đồ ăn như gạo, bún, v.v... kế đến là đồ gia vị như muối, dấm v.v… rồi sau mới giao cho người đầu bếp nấu nướng, để cuối cùng mang ra đãi khách. Đó là thứ lớp tự nhiên. Nay đây thử đem sắc, thọ, tưởng, hành và thức phối hợp với thứ lớp của 5 ví dụ trên xem thế nào. Sắc uẩn là chỗ nương của thọ, so với vật đựng món ăn là chỗ nương cho đồ ăn, giống nhau. Còn lạc thọ trong thọ uẩn hay làm lợi ích cho người, khổ thọ hay làm tổn hại người, chính là đồng với ví dụ đồ ăn hay làm lợi ích cũng như tổn hại người. Trong tưởng uẩn nếu sanh ý tưởng thân ái thì được thọ lạc cũng in như muối dấm hay làm tăng thêm hương vị món ăn. Nghiệp phiền não trong hành uẩn hay tạo ra quả dị thục, có thể ví với người đầu bếp biến chế món ăn. Còn thức uẩn thì cảm nhận quả báo không khác gì người khác được thết đãi.

4. Thứ lớp theo giới biệt. Giới có 3: dục giới, sắc giới và vô sắc giới. Sắc ở cõi dục, hình tướng rất rõ rệt nên sắc uẩn được nói trước hết. Còn thọ nhận sự mừng, vui thì ở cõi sắc thù thắng hơn nên nói thọ uẩn thứ nhì. Ba xứ, không vô biên, thức vô biên và vô sở hữu trong cõi vô sắc, các tướng không v.v… thù thắng hơn nên xếp tưởng uẩn thứ ba. Còn phi tưởng và phi phi tưởng trong cõi vô sắc, ở đó nghiệp – lực cảm thọ quả báo đến 8 vạn đại kiếp, tư nghiệp – tư nghiệp thuộc hành uẩn – là tối thắng nên xếp hành uẩn thứ tư. Bốn uẩn trước là sở trú, thức là năng trú, là chỗ gieo trồng cho chủng tử, cho nên thức uẩn được xếp cuối cùng.

Tóm lại, căn cứ vào 4 nghĩa: tùy thô, tùy nhiễm, tùy khí và tùy giới biệt mà thành lập thứ lớp 5 uẩn sắc, thọ, tưởng, hành và thức như thế.

Đoạn 2: Thứ lớp của xứ giới

Trong 12 xứ, 18 giới, tại sao các căn sở y được sắp theo thứ lớp: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý?

Tụng đáp.

Âm Hán Việt:

Tiền ngũ cảnh duy hiện;
Tứ cảnh duy sở tạo;
Dư dụng viễn, tốc, minh. 
Hoặc tùy xứ thứ đệ. (20)

Dịch nghĩa:

Năm căn trước chỉ duyên cảnh hiện tại;
Cảnh của 4 căn đầu chỉ là sở tạo;
Ngoài ra, căn cứ vào tác dụng: xa, mau, rõ.
Hoặc tùy theo thứ tự lớp của vị trí. (tụng 20)

Nói về thứ lớp của 6 căn, có 2 cách: theo cảnh sở duyên của chúng, tức 3 câu tụng đầu; hay theo vị trí của chúng, tức 1 câu tụng cuối.

Xét về cách thứ nhất, trong 6 căn ta thấy 5 căn trước: mắt, tai, mũi, lưỡi và thân, chỉ duyên cảnh hiện tại, còn ý căn thứ 6 thì không nhất định. Vì ý căn không những duyên cảnh hiện tại, mà còn thông suốt rộng rãi các cảnh trong quá khứ hiện tại, vị lai, và những pháp vô vi nữa. Cho nên, sắp 5 căn kia trước, ý căn sau cùng. Câu tụng “tiền ngũ cảnh duy hiện” là chỉ cho ý này.

Lại nữa, trong 5 căn, cảnh sở duyên của bốn căn đầu – sắc, thanh, hương, vị – chỉ là sắc sở tạo của bốn đại chủng. Còn xúc cảnh mà thân căn duyên đến thì bao gồm cả bốn đại chủng và sở tạo của bốn đại chủng như nặng, nhẹ, lạnh, đói, v.v... Hoặc có khi nó duyên với bốn đại chủng năng tạo, hoặc có khi nó duyên với sở tạo của 4 đại chủng, hoặc có khi với cả năng tạo và sở tạo; quả thực, hoàn toàn không nhất định. Cho nên nói bốn căn mắt, tai, mũi, lưỡi trước, rồi sau mới nói thân căn. Câu tụng “tứ cảnh duy sở tạo” là chỉ cho ý này.

Lại nữa, trừ hai căn, thân và ý, bốn căn còn lại, mắt, tai, mũi và lưỡi, trong đó ta thấy tác dụng của mắt và tai đủ khả năng duyên cảnh xa, nên nói trước. Hai căn, mũi và lưỡi, chỉ căn, mắt và tai, ta thấy tác dụng của mắt rất xa và rất nhanh, nên nói trước. Ví như từ đằng xa, chúng ta nhìn thấy sông, núi, mà không nghe tiếng của chúng phát ra. Lại nữa, như khi nhìn ai đánh vào vật gì ở đằng xa, trước tiên chúng ta thấy động tác đánh, sau đó mới nghe tiếng. Điều đó đủ chứng minh rằng, so với nhĩ căn, tác dụng của nhãn căn vừa xa vừa nhanh hơn. Còn so sánh giữa mũi và lưỡi, ta thấy tác dụng của mũi nhanh và rõ ràng hơn nên nói trước. Như khi chúng ta đứng trước thức ăn ngon, thì mũi ngửi ngay được mùi thơm, sau đó lưỡi mới nếm được vị. Lại nữa, mũi có thể ngửi được mùi vi tế nhất, mà lưỡi thì không thể nếm được vị vi tế như mũi. Thí dụ trên đủ chứng minh rõ. Tụng văn nói “dư dụng viễn, tốc, minh” chỉ cho ý này.

Về cách thứ hai, vì chỗ 6 căn nương có vị trí trên dưới khác nhau. Trước hết, con mắt, kế đến lỗ tai, mũi, lưỡi; còn thân thì lấy lỗ rốn làm tâm điểm do đó được nói sau thiệt căn. Ý căn thì không có hình tướng, không vị trí, dựa vào các căn mà sanh khởi nên để nó sau cùng. Đó là y nghĩa của câu tụng: “hoặc tùy xứ thứ đệ.”

---o0o---



tải về 0.86 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   9   10   11   12   13   14   15   16   ...   19




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương