Thủ Đoạn Chính Trị



tải về 1.12 Mb.
Chế độ xem pdf
trang4/17
Chuyển đổi dữ liệu01.12.2022
Kích1.12 Mb.
#53885
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   17
thuvienpdf.comthu-doan-chinh-tri
LSGHCG Chuong01, LSGHCG Chuong04
Hành động không có nguyên tắc 
là múa rối. 
Thỏa hiệp không có nguyên tắc 
là đầu cơ. 
Nhượng bộ không có nguyên tắc 
là đầu hàng. 
Thủ đoạn không có nguyên tắc 
là phá phách
án Cao Tổ bắn thư vào Bái thành, dân trong thành nổi lên giết Huyện
lệnh, rồi mở cổng thành đón Hán Cao Tổ.
- Lục Tốn gửi thư cho Quan Vân Trường lời lẽ khiêm tốn sợ sệt để che
mắt về cái tài dùng binh của mình.
- Trần Hưng Đạo lừa quân Nguyên tại sông Bạch Đằng.
- Khổng Minh du thuyết Đông Ngô, dựa Đông Ngô gây vốn chính trị.
- Tử Cống du thuyết nước Tề để yên nước Lỗ.
- Tô Tần dùng lời nói mà tạo thành thế hợp tung. Trương Nghi cũng
dùng lời nói mà dựng chánh sách liên hoành.
- Khổng Minh khích Chu Du bằng hai câu: "Chu lang diệu kế an thiên
hạ, bồi liễu phu nhân triết liễu binh."
- Trương Lương dùng tiếng ca buồn thảm lấy mất chí khí chiến đấu
của quân Sở.
- Kinh Kha ca bên bờ sông Dịch làm cho chí phẫn trong lòng mọi người
dâng lên.
- Sái Thiệu bị giặc bao vây, tên bắn như mưa. Thiệu liền bầy tiệc gẩy
đàn cho hai cung nữ múa hát, giặc lấy làm lạ, thừa lúc bất ý, Thiệu sai quân
đánh tập sau lưng giặc giải thóat vòng vây.


- Phạm Lãi hiến Tây Thi và dâng tám gái đẹp cho Thái Tể Bĩ mở đầu
cho chính sách tiêu diệt nước Ngô.
- Cao Dương gả vợ cho quân sỹ bằng cách mối manh với các góa phụ.
- Tào Tháo đãi Quan Công cứ năm ngày một đại yến ba ngày một tiểu
yến, nên Quan Công phải trả nợ bằng hai cái đầu Nhan Lương Văn Xú và
hai cái đầu ấy cũng súyt gây ra việc Viên Thiệu giết Lưu Bị.
- Tôn Tẫn dùng phép bớt bếp để dụ Bàng Quyên. Khổng Minh dùng lối
thêm bếp để dọa Tư Mã Ý.
- Ngụy Khê đánh nước Yên dàn trận cờ sí rợp trời khiến quân Yên sợ
hãi.
- Oswald bắn Kennedy, Rugby bắn Oswald và Rugby bị hạ, báo cáo
Warren để trấn an dư luận, thủ phạm chính của vụ Kennedy có lẽ không
bao giờ còn tìm thấy.
- Béria được mời vào phòng họp cao cấp rồi bị hạ sát.
- Nga sô thao diễn quân đội mời các đại biểu Tây phương đến dự
(1952), Nga cho trình bày lọai oanh tạc cơ khổng lồ Bisons lúc đó Nga mới
có 9 chiếc nhưng làm giả tới 50 chiếc và dùng gián điệp cho tin là sang
1954 Nga sẽ có tới 500 chiếc. Mỹ hoảng, quốc hội bàn cãi đả kích chính
phủ, chính phủ vội cho cấp tốc sản xuất lọai oanh tạc cơ khổng lồ đặt tên
là B52 ngày nay. Biết Mỹ mắc đòn, Nga bỏ sản xuất Bisons và dồn tiền
vào nghiên cứu hỏa tiễn không gian.
Đó là những thủ đoạn chính trị.
Thủ đoạn chính trị mang muôn vạn hình thù, muôn vạn màu sắc. Nó có
thể được dùng bằng thuyết phục, bằng cưỡng bách, bằng lừa lọc, bằng chân
thật, bằng vũ lực, bằng lý tưởng, bằng nghệ thuật, bằng gián điệp v.v...
Thủ đoạn chính trị có hai nền móng:
- Tài thao lược và
- Khả năng bí mật
Lã Vọng nói:
Sự mạc đại ư tất khắc.


(Khắc phục được công việc đó là điều chính.)
Dụng mạc đại ư huyền mặc.
(Dùng mưu gì phải giữ cho kín.)
Động mạc đại ư bất ý.
(Hành động nên thừa lúc địch bất ý.)
Điệp mặc đại ư bất thức.
(Phá vỡ sự bí mật của địch).
Làm vẻ ngòai hỗn loạn, nhưng bên trong tổ chức chặt chẽ.
Làm vẻ mặt thiếu thốn, nhưng thật là sung túc.
Làm thái độ lờ mờ, nhưng đầu óc rất tinh tường.
Lúc thì hợp lại với nhau.
Lúc thì ly tán, âm thầm lặng lẽ, cơ mưu không lọt ra ngòai, hình tích
không lộ. Định đánh phía tây, nhưng lại bằng ngả phía đông.
Cơ sở triết học của thủ đoạn chính trị
Với chính trị người ta không thể quên câu này:
"Deception is a major weapon of the enemy."
(Lừa dối là vũ khí chính yếu của địch.
Tây phương gọi nhà chính trị quá ư chân thật bằng hai danh từ: nước
khô (dry water) và sắt gỗ (wooden iron).
Chính trị là cuộc đấu tranh không bao giờ ngừng giữa người với người
để giành quyền lực.
Muốn thắng phải có sức mạnh và thủ đoạn.
Sức mạnh và thủ đoạn ấy thường được dùng đúng với một quan niệm
chính xác về nó qua những điểm kể dưới đây:
1) Trong đấu tranh để giành quyền lực, giành ngôi vị và lợi lộc, những
chính phủ, những tổ chức chính trị, những chế độ được xây dựng và lật đổ,
luật pháp được đặt ra rồi lại bị vi phạm, những tranh chiến thắng bại liên
tục.
2) Thực tế trước mắt là quan trọng hơn hết; lý tưởng phải phục vụ cho
thực tế. Tư tưởng đạo đức siêu việt không có ích gì cho chính trị.


3) Mọi biến đổi phải được nối liền với nhau để tìm ra quy luật chung
của một thời kỳ lịch sử nào đó.
4) Không làm nửa chừng, kẻ thù hoặc phải diệt chết hẳn hoặc phải phân
định dàn hòa rõ rệt hẳn.
5) Chiến đấu với một phương pháp khoa học, tính kỹ thuật kiện toàn.
6) Không ngần ngại trước những hành động dối trá, lật lọng nếu nhu
yếu chính trị đòi hỏi.
7) Phải nhìn con người như lũ bội bạc, hay đổi thay, giả dối, nhát sợ và
tham lam.
8) May hay rủi có thể đến, nhưng chủ yếu vẫn là sức mạnh và sự khôn
ngoan của chính bản thân.
9) Biết nghe và hay hỏi là đức tốt của kẻ nắm quyền.
10) Không để kẻ địch có thời giờ mà âm mưu, không để dân chúng có
thời giờ mà suy nghĩ, nhưng đừng làm dân chúng oán ghét.
11) Phải biết cách chiến đấu như một người, nhưng cũng phải biết cách
chiến đấu như một con thú.
12) Tránh xa những thói hư tật xấu có thể làm hại cho sự nghiệp chính
trị.
13) Quyền lực và (là?) mục tiêu tối cao.
14) Cần phân biệt con người thường với con người chính trị chỉ có hai
hạng người, hạng thống trị (type gouvernant) và hạng bị trị (type
gouverné).
15) Việc gì cũng phải có lãnh đạo, số đông không có lãnh đạo là số đông
không dùng được.
16) Phẩm hạnh quý giá của người chính trị là: tham vọng, gan dạ, nghị
lực bền bỉ và quyết tâm lãnh đạo.
17) Phải hiểu rõ nghệ thuật phối hợp thủ đoạn với sức lực.
18) Nhưng cần nhớ thủ đoạn mạnh hơn sức lực, đấu trí cần hơn đấu
sức.
19) Thủ đoạn là phẩm chất căn bản cho một kẻ muốn thống trị (La


fourberie est une qualité universelle du gouvernant type).
20) Tất cả phải đổi thay, không một chế độ, một đường lối nào dù tốt
đến đâu, đẹp đến đâu có thể tồn tại mãi được.
21) Mọi sự đổi thay phần lớn đều do lòng ham muốn vô bờ bến của lòai
người đối với quyền lực.
22) Mỗi hành động phải mang mục đích rõ rệt. Rồi luôn luôn tự hỏi mục
đích đó trong điều kiện trước mắt có thể làm được đến đâu.
23) Muốn lãnh đạo, muốn người khác thuần phục phải luôn luôn chứng
tỏ mình là cái gì không thể thiếu được.
24) Phải làm cho người kiêng dè nể sợ bằng cách đấu tranh chính trị
theo luật tắc của chiến tranh.
25) Lịch sử làm bởi sức mạnh đấu tranh. Ai yêu tự do mà không dám
đấu tranh cho tự do tất nhiên chẳng bao giờ có tự do. Ai yêu nước mà
không dám đấu tranh bảo vệ đất nước thì mất nước. Nhưng đấu tranh
không phải là mò mẫm với những điều không tưởng, đấu tranh là thủ đoạn
và sức mạnh từ A đến Z. Người chính trị say mê muốn xoay thời chuyển
thế, thì nên nuôi dưỡng tham vọng ấy bằng khả năng chính trị đừng chỉ hồ
đồ với một mớ tình cảm vụn vặt.
Triết lý Hàn Phi Tử
Trước Machiavel cả hai ngàn năm, chính trị Đông phương đã thai nghén
ra chủ nghĩa Machiavelisme. Người khai sáng là Hàn Phi tử mà bấy giờ
mệnh danh là Pháp Gia phái. Kể ra đáng lẽ Lã Thái Công mới đáng nhận
danh hiệu này, nhưng trước tác lục thao tam lược của Lã Vọng chỉ thuần
chú trọng về những nguyên tắc chiến thuật chiến lược mà không đặt thành
hệ thống triết lý chính trị. Thêm nữa Hàn Phi Tử khi luận về chính trị, ông
có một luận điệu rất "cynique" hệt như Machiavel.
Hàn Phi Tử sống vào thời đại chiến quốc, giữa lúc bàn dân thiên hạ theo
đuổi một chủ lưu chính trị là đánh đổ chế độ phong kiến thống nhất Trung
Quốc (Machiavel cũng ở vào cùng một tình trạng). Nhưng chủ nghĩa chính
trị thời đó gồm có: Nho, Mặc, Đạo, Pháp. Mọi chủ nghĩa đều đưa ra một


lập trường cơ bản, thái độ nhân sinh, chủ trương chính trị phương pháp
thực hành khái quát kể ra như dưới đây.
Về cơ bản lập trường:
Nho xuớng xuất chủ nghĩa gia tộc.
Mặc xuớng xuất chủ nghĩa thế giới.
Đạo xuớng xuất chủ nghĩa cá nhân.
Pháp xuớng xuất chủ nghĩa quốc gia.
Về thái độ nhân sinh:
Nho đưa ra chủ nghĩa trung dung
Mặc đưa ra chủ nghĩa khổ hạnh
Đạo đưa ra chủ nghĩa tiêu cực
Pháp đưa ra chủ nghĩa tích cực.
Về chủ trương chính trị
Nho xướng xuất chủ nghĩa nhân trị
Mặc xướng xuất chủ nghĩa thiên trị
Đạo xướng xuất chủ nghĩa vô trị
Pháp xướng xuất chủ nghĩa pháp trị.
Về phương pháp thực hành
Nho đề ra chủ nghĩa cảm hóa
Mặc đề ra chủ nghĩa cứu thế
Đạo đề ra chủ nghĩa phóng nhiệm
Pháp đề ra chủ nghĩa can thiệp.
Kết quả Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Quốc bằng phương pháp
của pháp gia. Bởi lẽ đấu tranh chính trị chỉ có một quy luật duy nhất:
Đả thiên hạ, tố hoàng đế (đánh được thiên hạ thì lên làm vua).
Thành tắc vi vương, bại tắc vi khấu (được làm vua, thua làm giặc).
Bao giờ cũng vậy, từ ngàn xưa đến nay và tự nay về sau, con người
thường cố tình cho chính trị thuộc về đạo đức học, nhưng sự thực chính trị
thuộc về khoa học xã hội.
Dù muốn nêu lên chính nghĩa nào đi chăng nữa thì sự thành công của


chính trị vẫn chỉ do một nguyên nhân đó là: đã thắng trận.
Đại biểu của pháp gia là Hàn Phi Tử. Sở dĩ phương pháp của Hàn Phi
Tử đã đem lại thành công cho việc làm của Tần Thủy Hoàng là vì nó có
một nhận thức chính trị rất sắc. Ông đã đưa ra bốn điểm chính yếu để thay
đổi xã hội phong kiến bằng chính trị quân chủ tập quyền.
1) Quận huyện làm đơn vị cai trị thay thế cho các đất phong.
2) Tổ chức hành chánh quan liêu lại trị thay thế cho quý tộc.
3) Quân dân phân trị thay thế cho quân dân hợp trị.
4) Mua bán ruộng đất tự do thay thế cho tư hữu quý tộc.
Thay đổi tận gốc rễ như thế, nếu không có những thủ đoạn khả dĩ vươn
tới việc tất thất bại. Hàn Phi Tử lên tiếng bài bác tư tưởng cải cách
(reformisme) của Khổng và Mặc. Ông nói: Dùng chính sách "hoãn", hoãn
để trị dân của cái đời cần biến đổi mau chóng này thì chẳng khác gì không
biết cưỡi ngựa mà cưỡi ngựa dữ. (Thiên Ngũ Đố). Biến cổ hay không biến
cổ không phải là vấn đề của thánh nhân, chỉ có chính trị đáng kể thôi
(Thiên Nam Diện).
Theo ông thì lịch sử tùy thời đại biến đổi, chính trị cũng tùy thời đại mà
biến. Nếu chính trị không biến theo thời đại, cứ ôm lấy lý lẽ dùng đạo của
tiên vương để trị người bây giờ thì thật rõ là chuyện ôm cây đợi thỏ.
(Ôm cây đợi thỏ là chuyện cổ bên Tàu, về việc anh nông phu, anh ta chỉ
được cái chăm nhưng đầu óc rất ngốc nghếch, khu ruộng anh cầy cấy có
một cây cổ thụ lớn cành lá xum xuê vẫn thường làm chỗ nghỉ ngơi cho anh.
Một hôm anh đang nằm thảnh thơi dưới gốc cây bỗng có hai con thỏ đuổi
nhau, chạy rất nhanh va đầu vào cây chết cả đôi. Anh bắt mang về ăn thịt
ngon lành. Từ đấy đầu óc anh nảy ra ý nghĩ tội gì làm ăn cho mệt nhọc, cứ
đợi dưới gốc cây để ăn thỏ có phải lợi hơn không. Nghĩ thế anh không làm
ruộng nữa cứ ngày ngày ngồi đợi dưới gốc cây để chờ thỏ. Đợi cả tháng
ròng chẳng thấy bóng con thỏ nào, đợi quá anh đành phải đi làm ruộng
vậy).
Chính trị Hàn Phi Tử khả dĩ thu vào hai điểm chủ yếu:


1) Đối ngoại không gì hơn thực lực.
2) Đối nội không gì bằng quyền lực.
Quan hệ giữa nước này với nước kia nếu không có thực lực thì lấy gì
phát triển và sinh tồn. Việc trong nước mà không có thống trị quyền lực thì
làm sao thay đổi cả một nếp sống?
Bởi vậy ông viết tuy ngắn ngủi nhưng minh bạch:
"Lực đa tắc nhân triều, lực thiểu tắc triều ư nhân cố minh quân vụ lực).
(Lực khỏe thì thiên hạ theo ta, lực yếu thì ta buộc phải phục tòng thiên
hạ, cho nên ông vua giỏi là phải kiến thiết sức mạnh).
"Cổ nhân cực ư đức, trung thế trục ư trí, đương kim tranh ư lực... Sử đa
sự chi thu, dụng quả sự chi khí, phi trí giả chi bị dã. Đương đại tranh chi
thế, nhi tuân tập nhượng chi cưu, phi thánh nhân chi trí dã." (Cổ xưa đuối
vào đức, trung thế thiên trọng chữ trí, ngày nay phải tranh đọat bằng lực.
Sống vào đời lắm việc này mà lại đem lề lối của thời kỳ ít việc thì thật là
bất trí. Sống giữa lúc tranh đấu bạo tàn này lại lấy thái độ nhường nhịn thì
không phải là phương pháp của thánh nhân).
Vũ lực nghĩa là không trọng nhân nghĩa biện trí nữa mà trọng quốc phú
binh cường. Muốn cho nước giàu phải xử dụng toàn dân vào đấu tranh
kinh tế hồi đó là sản phẩm nông nghiệp gọi là nông chiến. Muốn binh
mạnh phải thực hành quân quốc chủ nghĩa.
Về quan hệ đối nội, nhân vì chính trị chuyển biến từ chế độ phong kiến
sang chế độ quân chủ nên quan hệ thuần đặt trên quan hệ quyền lực (kinh
nghiệm lịch sử cho biết thời kỳ quá độ nào cũng vậy). Quan hệ giữa vua
với dân là quan hệ quyền lực, quan hệ giữa vua với quan lại là quyền lực.
Hàn Phi Tử nói:
"Thế giả thắng chúng chi tư dã." (Thế là cái vốn để thắng mọi người).
"Chủ chi sở dĩ tôn giả, quyền dã". (Ngồi được ở ngôi cao là bởi quyền).
" Vạn thặng chi chủ, thiên thặng chi quân, sở di năng chế thiên hạ nhi
chinh chư hầu, dĩ kỳ uy thế dã." (Chúa một nước vạn cỗ xe, vua một nước
ngàn cỗ xe, sở dĩ thống chế thiên hạ, chinh phục chư hầu là nhờ uy thế


vậy).
Cái lý do khiến Hàn Phi lấy vấn đề quyền lực làm địa vị trọng yếu của
chính trị là tại ông nhìn người đời khác cái nhìn của Mạnh Tử. Đối với
Hàn Phi thì con người tính ác, ác đây mang cái nghĩa vị lợi, vị kỷ mà Hàn
Phi đặt tên là Tự vi tâm.
So sánh những lời dưới đây của Hàn Phi với Machiavel, bọn nhân thần
đối với ông vua, không phải cốt nhục thân tình, bị buộc vào thế quyền lực
nên mới thờ vua. Lũ nhân thần ấy không lúc nào quên dòm dỏ, vua sơ hở
là lập tức làm loạn. Cho nên làm chủ mà lười biếng, không tinh tường, hay
kiêu căng tất sẽ bị cái vạ nhân thần sát chủ.
Làm vua mà quá nuông con, lũ nhân thần sẽ dựa vào đứa con để mưu
đồ. Làm vua mà quá tin yêu vơ, tin yêu thiếp, lũ nhân thần sẽ dựa vào
thiếp, vợ để mưu đồ. Khi hậu phi, phu nhân, thái tử đã thành đảng, bấy giờ
chỉ có quyền chính là đáng kể với chúng và chúng có thể giết vua hoặc
ngày đêm mong mỏi cho vua chết. Nếu vua không chết thì chưa có thể thừa
cơ, chẳng phải vì chúng ghét vua nhưng mà vì chúng mong quyền. Bởi vậy
làm vua nên xét về cái thế chết của mình (trích dịch ở thiên Bị nội).
Trong cuốn "Quân vương" (Le prince) Machiavel viết:
"Le prince doit se méfier d'eux comme d'ennemis déclarés, qui non
contens de l'abandonner si la fortune lui devenait contraire, n'hésiteraient
point à tourner leurs armes contre lui." (chapitre IX)
Hàn Phi và Machiavel đều đồng ý nhau trên một điểm quan hệ quân
thần là quan hệ quyền lực. Vua tôi đều có tự vi tâm làm thành cái thế lợi
hại tương phản cho nên quan hệ quyền lực ấy đi xa hơn nữa còn phải lấy
mưu kế mà sửa trị.
"Quân thần dị tâm, quân dĩ kế súc thần, quân dĩ kế sự quân, hại thân nhi
lợi quốc tần phất vi dã. Hại quốc nhi lợi thân, quân bất vi dã. Thần chi
tình hại thân vô lợi, quân chi tình hại quốc vô thân. Quân thần dã giả, dĩ kế
hợp giả dã." (Vua tôi bao giờ cũng dị tâm, vua thu nạp bề tôi bằng kế. Bầy
tôi thờ vua cũng vì kế của mình. Hại thân để làm lợi cho đất nước thì bầy


tôi đắn đo. Hại cho đường lối chính trị, hại cho nước để làm lợi cho bầy tôi
thì vua không chịu cho nên quan hệ quân thần phải lấy kế mà hòa hợp.)
(Trích ở thiên Sức tà)
Kế đó Hàn Phi nói như sau:
"Phàm trị thiên hạ, tất nhân nhân tình."
Trị thiên hạ phải biết tâm lý chính trị, hiểu thấu tình người. Như ở trên
đã đề cập đến vấn đề trị đạo với chủ lưu của tâm lý và chủ lưu của tình tự.
Nội dung triết học chính trị của Hàn Phi khả dĩ khái quát vào hai điểm:
1) Tập trung quyền lực thống trị.
2) Vận dụng công cụ thống trị.
Lý luận của Hàn Phi đều tập trung vào phạm vi chính trị, khác với Nho
phái mang nhiều ý vị luân lý, khác với Đạo mang nhiều ý vị tự nhiên, khác
với Mặc mang nhiều ý vị thần quyền.
Và tập trung quyền lực thống trị Hàn Phi đưa ra thế và vị. Ông nói:
- Thế giả thắng chúng chi tư dã.
- Thế chi vi đạo vô bất cấm hỉ.
(Có thế mà hành đạo thì không gì cản trở nổi)
- Vạn vật mạc như thân chi chí quý dã. (Muôn việc không gì quý bằng
thân mình, quý mà ngôi cao, có ngôi cao thân quý tức uy lớn thế to).
- Thế giả thắng chúng chi tư, ý nói quyền lực là công cụ để thống trị
chúng nhân. Vô bất cấm, ý nói quyền lực đầy đủ rộng rãi lực cưỡng chế.
Vị tôn thế long, ý nói quyền lực phải đạt đến cao tính.
Muốn trị quốc gia, điều kiện tiên quyết là phải có quyền lực, và xây
dựng một quyền lực vững mạnh. Trong thiên Nam thế, Hàn Phi đưa ra tỷ
luận: lúc ông Nghiêu còn làm kẻ thất phu, ông trị ba người không nổi trong
khi Trụ ở ngôi thiên tử làm loạn cả bàn dân thiên hạ. Quyền lực quan trọng
thế đấy.
Về vận dụng công cụ thống trị, Hàn Phi đưa ra pháp và thuật. Ông nói:
"Quân vô thuật tắc tễ ư thượng, vô pháp tắc loạn ư hạ." (Vua mà không
có thủ đoạn thì sơ hở ở bên trên, không có pháp luật thì loạn ở bên dưới).


Pháp luật là mực thước để quân chủ thống trị quan lại và nhân dân.
Thuật là phương pháp để quân thống trị quan lại.
Với pháp luật Hàn Phi đặt những nguyên tắc cơ bản sau đây:
Pháp luật như hiển (Pháp luật cần nhất cho rõ ràng) Khi ban bố pháp
luật ai ai cũng đều biết.
Pháp lệnh hành nhi tư đạo phế. (Pháp luật thi hành không có tư tình).
Nếu còn vị nể tư tình tất pháp luật loạn.
Quan niệm về chữ Pháp của Hàn Phi Tử rất chính xác, ông viết:
Thánh nhân trị nước, không cần phải dựa vào người làm tốt cho mình
mà dựa vào sự việc khiến người ta không dám làm quấy. Dựa vào người
yêu mến ta, tính đầu ngón tay chẳng được vài chục. Còn dựa vào sự việc
người không dám làm quấy thì có thể khắp cả nước. Trị nước phải nhằm
vào số đông, không trông vào số ít. Cho nên chẳng cần vụ đức mà nên chú
trọng đến vụ pháp. Làm vua không nên trông vào cái tốt ngẫu nhiên mà nên
thi hành cái đạo tất nhiên.
Nói đến cái thuật, Hàn Phi phân tích rằng thời chiến quốc chính trị đã
theo chế độ phong kiến, và được thay thế bằng chính trị lại trị sinh ra bởi
chế độ quân chủ. Quân chủ với tập đoàn lại trị không có quan hệ huyết
thống, hơn nữa cả hai đều mang dị tâm, cho nên thuật rất quan trọng đối
với tình thế mới mẻ nầy.
"Thuật giả nhân nhiệm nhi thụ quan, tuẫn danh nhi trạch thực, thao sát
sinh chi bính, khoa quyền thần chi năng. (trích thiên Định pháp) (Thuật là
dùng tài để trao quan chức, xét thực mà bỏ danh, nắm lấy quyền sinh sát,
để dùng tài năng của quần thần.)
Thuật cao nhất mà Hàn Phi đề ra là câu:
Minh quân trị lại bất trị dân.
(Ông vua sáng trị lại không trị dân). Ông đã đi trước thuật chính trị Tây
Phương cả mấy ngàn năm về vấn đề xây dựng một guồng máy chính trị
(appareil politique).
Cũng như Machiavel, trước tác phẩm của Hàn Phi đã làm sáng tỏ cho


chính trị học Đông phương rất nhiều.
Yết Tuyên Tử
Đấu tranh chính trị, Yết Tuyên Tử đề ra năm phương pháp:
- Kết hay mua lòng người.
- Gián hay vào sâu để phân hóa.
- Tá hay mượn dao giết người, mượn lực người gây vốn ta.
- Câu hay là dụ hoặc địch nhân.
- Ngộ hay lừa dối đối phương.
Làm chính trị trước hết là kéo người về với ta, cho nên phải có mưu sâu
để mua chuộc lòng người. Yết Tuyên Tử phân ra làm 4: Nội kết, ngoại kết,
tư kết và kết địch.
Lý Hiếu Công thả tù binh rồi truyền hịch phủ dụ. Vua Sở Trang Vương
giật giải mũ để cứu người say. Ngô Khởi quỳ xuống dùng miệng hút máu
trên vết thương của binh sỹ. Trương Nghi hối lộ Trịnh Tụ. Phạm Lãi, Văn
Chủng kiếm gái đẹp cho Thái Tể Bĩ. Ngụy Công tử vì nàng Như Cơ mà
phục thù. Trương Lương chơi thân với Hạng Bá. Tô Tần Trương Nghi với
đường lối hợp tung liên hoành. Mua chuộc lòng người mang muôn màu
muôn vẻ.
Về phép Gián, Yết Tuyên Tử viết:
Gián là nắm lấy kẻ tâm phúc của địch, giết chết tướng tài của địch, loạn
kế mưu của địch. Phương pháp của nó có: Sinh, tử, thư, ngôn, đạo (tin đồn,
dùng câu ca tiếng hát, dùng vật phẩm vàng lụa, hối lộ tiền bạc, dùng sắc
đẹp, dùng tình cảm quê hương, dùng bạn bè, dùng ân, dùng uy, dùng chức
tước.
Tỷ dụ Tây Thi xúi dục Ngô Vương giết Ngũ Tử Tư (dùng nữ), Tứ diện
Sở ca thanh, Trương Lương thổi sáo làm tan nát lòng quân Sở (dùng ca),
Tào Tháo xóa thư lừa Mã Đằng, Hàn Tọai (dùng thư).

tải về 1.12 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   17




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương