Thủ Đoạn Chính Trị



tải về 1.12 Mb.
Chế độ xem pdf
trang17/17
Chuyển đổi dữ liệu01.12.2022
Kích1.12 Mb.
#53885
1   ...   9   10   11   12   13   14   15   16   17
thuvienpdf.comthu-doan-chinh-tri
LSGHCG Chuong01, LSGHCG Chuong04
Chiến tranh là một trong những 
hình thức đấu tranh cao nhất để 
ổn định những mâu thuẫn giữa 
các giai cấp, các quốc gia và các 
thế lực chính trị. 
M.T.Đ.
Chính trị xây dựng trên tương 
quan lực lượng. Những tư tưởng
không mùi vị chiến đấu, sợ chiến
tranh, lẩn tránh ánh sáng của 
lưỡi lê đều không phải là những
tư tưởng có khả năng điều khiển
xã hội.
PROUDHON
hiến tranh là kết quả của chính trị đã đến một giai đọan mà tính quyết
liệt nhiều lên, tính thỏa hiệp bớt đi, đấu tranh chính trị đã đi vào giai đọan
vũ trang để thực hiện một đường lối đổ máu.
Ngày nay chiến tranh là một hình thức đấu tranh cao nhất, tính chất đấu
tranh của nó mỗi ngày mỗi tăng. Nguời khám phá ra tính chất đấu tranh
trong chiến tranh và có tư tưởng hệ thống đầu tiên là một quân sự gia
người Đức, ông Carl Von Clausewitz với cuốn sách De la guerre. Ông viết:
- Chiến tranh không có cứu cánh riêng của nó, chiến thắng quân sự
không có mục đích tự nó. Sự giao thương giữa các nước vẫn tiếp tục đều
đều mặc dầu thùng thuốc súng đã nổ.
- Chiến tranh không những là một hành vi chính trị, mà còn là một công
cụ của chính trị, một sự tiếp nối các quan hệ chính trị, và thực hiện những


đường lối chính trị bằng một cung cách khác.
- Chiến tranh phải khắng khít gắn liền với những mưu đồ chính trị và
chính trị phải phù hợp với những phương tiện chiến tranh sẵn có.
- Cái yếu tố đam mê xúc động của chiến tranh là để giành cho dân
chúng, yếu tố may rủi thắng bại là dành cho vị tướng chỉ huy, còn yếu tố
trí thức chính trị là của chính phủ, và chính yếu tố này mới điều khiển tòan
bộ chiến tranh.
- Quân đội bao giờ cũng là một tổ chức xã hội.
Những hiện tượng của nhiều cuộc chiến tranh "napoléonienne" trên tòan
cõi Âu châu, Ai cập v.v... đã đem lại cho Clausewitz nhiều nhận xét mới về
tính chất chiến tranh. Quân đội của Napoléon trên chiến trường không còn
phải là quân đội đánh thuê của các lãnh chúa trước đây nữa, quân sỹ chiến
đấu với một lòng tin chiến đấu cho chính bản thân của họ. Tư tưởng của
cuộc cách mạng Pháp cũng là những sức mạnh phi thường làm lung lay đến
cỗi rễ chế độ phong kiến Trung cổ Âu châu, đồng thời chúng cũng giúp
cho Napoléon thắng lợi dễ dàng.
..................................
Lúc Pháp kháng chiến chống Đức, tướng De Gaulle đã rất đồng tình
với ông Léon Blum về bức thư mà Blum gửi De Gaulle với lời lẽ dưới
đây:
"Tất cả những người chiến đấu bên cạnh ông, xa hay gần đều cùng
chung ý nguyện về sự thắng lợi tối hậu là dành lại cho nước Pháp nền độc
lập, cho dân tộc Pháp đầy đủ chủ quyền. Tuy nhiên, như vậy không có
nghĩa là tất cả những gì của nước Pháp cũ mà chúng ta sẽ xây dựng lại với
cái lối sửa chữa cái máy sau thời gian gián đọan vì hư hại. Nước Pháp dân
chủ tương lai phải khác hẳn trước..."
Trong chiến tranh ngày nay, tính chất chiến tranh chiến đấu (guerre
combat) đang giảm dần và tính chất chiến tranh đấu tranh (guerre lutte)
càng lúc càng tăng.
Giấc mơ 1945


Thần thọai Hy lạp ghi rằng:
Các vị thần trên trời thường có một lối trừng phạt rất quái ác đối với
lòai người là ban cho họ vượt quá mức những điều họ ước muốn.
Trái bom nguyên tử xuất hiện, rồi đến bom khinh khí thành hình, theo
ước lượng thì sức mạnh của mỗi trái bom, mặc dầu bé nhỏ nhưng sức tàn
phá ngang bằng nhiều triệu tấn chất nổ. Lòai người vui mừng vì họ cho
rằng quyền lực của vũ khí nguyên tử sẽ là khả năng tốt nhất để bảo đảm
vĩnh cửu nền hòa bình thế giới. Nhưng một lần nữa sức mạnh nguyên tử
thêm lần nữa chứng minh cho thấy lối trừng phạt quái ác kia. Sức mạnh
nguyên tử chỉ đem đến cho lòai người một thời gian hòa bình quá ngắn
ngủi như giấc mơ. Kể từ năm 1945, năm mà tất cả đều nghĩ là hòa bình trở
lại vĩnh cửu trên trái đất, thực ra chỉ là năm đầu cho một cuộc chiến tranh
khác giữa những thế lực khác.
Trong một bài diễn văn quan trọng, Tổng thống J.F. Kennedy nói:
"Trên thực tế năng lực trả đũa bằng bom nguyên tử của chúng ta chưa
đủ. Nó không thể ngăn cản cuộc xâm lăng của Cộng sản khi cuộc xâm lăng
đó quá nhỏ để có thể dùng võ khí nguyên tử được. Nó không thể bảo vệ
những quốc gia trung lập chống lại một cuộc cướp chính quyền của Cộng
sản bằng cách xử dụng những lực lượng địa phương hoặc những lực lượng
du kích. Nó không thể đem ra dùng được trong những cuộc bao vây vẫn
được mệnh danh là quét lửa. Nó không được dùng tại Hàn quốc, Đông
dương, Hung gia lợi, Suez, Liban, Kim môn, Tây tạng hoặc Lào. Tóm lại
nó không thể ngăn ngừa Cộng sản gặm nhấm dần dần lãnh thổ của thế giới
tự do, cho đến khi nền an ninh của chúng ta bị tiêu hao dần từng mảnh vì
mỗi cuộc tiến binh của Cộng sản đều quá nhỏ để có đủ lý do chúng ta trả
đũa ào ạt có thể gây ra những hậu quả lớn lao. Và lịch sử chứng minh rằng
đó mới là mối đe dọa lớn lao chứ một cuộc tấn công nguyên tử tòan diện
đâu phải là mối đe dọa đáng kể?"
Đặc điểm một loại chiến tranh mà Tổng thống Kennedy nói bao gồm
nhiều yếu tố mới. Nó đã vượt ra ngòai "tầm tay" của trận mạc rất xa. Nó


chính là hành vi chính trị tinh vi nhất cùng với những họat động xã hội
phức tạp. Những nguyên lý quân sự để vận dụng trận mạc tuy không hẳn lui
xuống hàng thứ yếu, nhưng cũng không đứng địa vị chủ yếu như trước
nữa.
Trước kia với chiến tranh chiến đấu trận mạc, vấn đề đặt định chiến
lược người ta không cần một sách lược chính trị bao trùm lên, người ta chỉ
việc điều nghiên năm yếu tố thường lệ thuộc kỹ thuật quân sự như:
- Tinh thần (tâm lý chiến đấu)
- Vật lý (trang bị và lực chiến đấu)
- Số học (quy luật kỷ hà về dốc độ tuyến tác chiến)
- Địa lý (hình thế đất đai)
- Thống kê (những thủ đọan cấp dưỡng).
Bây giờ, đấu tranh xã hội làm chủ động việc quyết định hình thể chiến
tranh đồng thời quyết định việc thắng lợi, nghĩa là những yếu tố xã hội
quyết định chiến lược hay sách lược chính trị bao trùm lên chiến lược
quân sự.
Hãy lấy tỷ dụ như quy định tính chất kẻ thù chẳng hạn:
Lúc chiến đấu chống Nhật bản, các nhà lãnh đạo Trung quốc đã đánh
giá trị quân Nhật và chính phủ chủ trương chiến tranh như một tập đòan
chính trị đại biểu cho quyền lợi thiểu số tư bản Nhật, chứ không phải đại
biểu cho tòan thể nhân dân Nhật. Cho nên nếu bị sa lầy, chủ trương hiếu
chiến tất sẽ bị dân chúng Nhật phản đối. Bị dân chúng phản đối, phe quân
phiệt Nhật đương nhiên sẽ mất ưu thế.
Chiến tranh Quốc Cộng, Cộng sản Trung quốc nhận định Quốc dân
đảng Trung hoa là một tập đòan đại biểu quyền lợi thiểu số mại bản quan
liêu tư bản địa chủ, cho nên cái lực mạnh ban đầu của Quốc dân đảng
chẳng qua chỉ là ưu thế giả.
Chiến tranh bây giờ, điều quan hệ hàng đầu là phải quy định được đúng
tính chất chính trị kẻ thù, có như thế mới phát hiện được những nhược
điểm và nhận biết những ưu điểm của lực lượng địch để xây dựng chiến


lược. Những ưu và nhược điểm đó nằm trong quan hệ giữa những giai tầng
xã hội. Phải tấn công vào các nhược điểm xã hội của địch mà làm băng
họai xã hội địch cùng bộ máy chiến tranh của nó.
Quy định tính chất chính trị kẻ thù là xét xem nó đại biểu cho lực lượng
nào trong xã hội? Bất kể kẻ thù ấy thuộc màu sắc gì, đỏ đen hay trắng,
Cộng sản, trung lập, đế quốc, phản động, đều có thể là những đòn bẩy tốt
khả dĩ dựa vào đấy tạo sức mạnh.
Trải qua nhiều thất bại, thừa dịp Nhật xâm lăng, đảng Cộng sản Trung
quốc liền đưa ra chủ trương: đòan kết kháng Nhật để dựa vào danh nghĩa
dân tộc, một mặt cứu vãn nguy cơ quân sự, một mặt làm điểm tựa cho đòn
bẩy mà phát triển lực lượng. Thủ đoạn này, Trung cộng mệnh danh là sách
lược thống nhất chiến tuyến gồm tám điều:
a) Đả đảo chủ nghĩa đế quốc Nhật bản, đổ tới giọt máu cuối cùng, phản
đối mọi thỏa hiệp.
b) Tổng động viên nhân sự tòan diện, phát khởi kháng chiến tòan diện.
Phát triển chiến tranh du kích. Cải cách công tác chính trị quân đội.
c) Tổng động viên nhân dân tòan quốc. Đòi tự do vũ trang, tự do kết
đảng, tự do ngôn luận, xuất bản, tập hội thực hành kháng Nhật cứu nước.
Phế bỏ pháp lệnh cũ, ban bố pháp lệnh cách mạng. Giải phóng chính trị
phạm.
d) Cải cách cơ cấu chính trị. Triệu tập đại hội quốc dân. Ban hành hiến
pháp dân chủ. Quyết định phương châm kháng Nhật cứu nước. Tuyển cử
chính phủ quốc phòng. Chấp hành chính sách cách mạng.
e) Cải thiện sinh họat nhân dân. Đặt lại chính sách đãi ngộ quân đội,
công nhân, v.v... Phế bỏ sưu cao thuế nặng, giảm tô, giảm tức, cứu tế thất
nghiệp.
f) Thực hiện kế họach huấn luyện vũ trang học sinh tòan quốc. Đề cao
giáo dục kháng Nhật.
g) Tiêu trừ bọn Hán gian thân Nhật.
h) Trên cơ sở hợp tác Quốc Cộng, kiến lập trận tuyến thống nhất với


các đảng, các phái, lãnh đạo chiến tranh kháng Nhật.
Với tám điều trên, C.S. Trung quốc đã xuyên qua ý thức và nhiệt tình
kháng Nhật của dân tộc làm chiếc đòn bẩy lợi hại làm bật rễ chế độ Quốc
dân đảng sau này. Giảm tô, giảm tức, chống sưu cao thuế nặng đi đôi với tự
do vũ trang, kết đảng, lập hội là tái thiết thực hiện nội chiến ngay trong
kháng chiến một độ cao hơn trước. Chiếc đòn bẩy Cộng sản len lỏi vào tất
cả các cơ tầng xã hội Trung hoa để rồi chế tạo sự nổi lên chống chế độ
Tưởng tùy theo quyền lợi và bản chất của mỗi cơ tầng.
Cá với nước
Trong sách Chiến tranh và vấn đề chiến lược, Mao Trạch Đông viết:
"Hình thức đấu tranh chủ yếu tại Trung quốc là chiến tranh, hình thức tổ
chức chủ yếu là quân đội. Quân đội của nhân dân, quân đội với nhân dân
khắng khít như cá với nước." Sở dĩ nhân dân có quân đội là vì "yếu tố" xã
hội làm chủ động chiến tranh. Nhưng giới lãnh đạo của Tưởng đã không
nghĩ thế, họ cho rằng sức mạnh quân sự làm chủ động chiến tranh. Họ nghĩ
cá với nước ư? Ta sẽ mang đại đội binh mã đi bắt những con cá ấy ra khỏi
nước, hoặc sẽ giết hết cá. Ít lâu sau chắc cá không còn. Kết quả của ý nghĩ
sai lầm ấy là họ Tưởng đã ra Đài loan nằm. Gần đây có một quan niệm khá
mới trông bên ngòai mang vẻ tiến bộ, nhưng thật ra vô hiệu quả: tât nước
ra cho cá chết cạn. Đàng rằng cá với nước là hai vật hoàn tòan khác hẳn
nhau, và vật nọ không sinh ra vật kia được. Tuy nhiên cũng không thể phủ
nhận một sự thực hiển nhiên: có nước mới có cá và cá chỉ sống ở trong
nước. Mang nước đi đâu, cá sẽ nhờ nước mà sinh ra nếu gặp điều kiện
thuận lợi. Bắt cá hay tát nước cho cá chết cạn đều thất bại, bởi tại vấn đề
không ở đấy. Vấn đề ở nơi làm sao cho cá với nước không chịu nhau. Cá
nước mặn vào nước ngọt tất hết sống, ngược lại cá nước ngọt ra nước
mặn cũng chẳng thể nào tồn tại.
Đặc điểm hai
Cách đây bốn chục năm Lénine bảo rằng muốn tiến đến Ba lê chúng ta
phải vòng qua ngả Bắc kinh. Thật thế, ít năm gần đây, Hồng quân Sô viết


rất ít khi trực tiếp công khai đánh chiếm nước nào, tuy nhiên thế lực Cộng
sản đã mở rộng biên giới không ngừng. Ngược lại các nước thuộc thế giới
tự do đang nỗ lực để bảo vệ cho xứ sở của mình ở trên một nước khác ở
cách xa hàng vạn cây số, hoặc phải giúp một quốc gia khác chống giặc.
Hiện tượng này các nhà báo đặt tên cho nó là chiến tranh ủy nhiệm (war by
proxy). Chiến tranh ủy nhiệm tuy mới lạ nhưng nguồn gốc của nó vẫn chỉ
là một phương pháp chiến tranh đã có tự ngàn xưa: chiến lược tấn công
gián tiếp (indirect approach). Những thế lực nắm trong tay vũ khí nguyên
tử không muốn tự sát, trong khi trên thế giới còn bao nhiêu vấn đề chưa
được giải quyết thỏa đáng. Chính trị còn đầy rẫy mầm mống đấu tranh. Để
giải quyết họ trở về với hình thức chiến tranh quy ước cũ với phương
pháp tấn công gián tiếp đã được đưa đến mức độ cao nhất. Muốn tiến đến
Ba lê chúng ta phải vòng qua Bắc kinh. Nhà lý thuyết quân sự, ông Liddell
Hart, viết:
"Lịch sử chiến lược, trên căn bản chỉ là công việc ghi nhận những cách
áp dụng và sự tiến hóa của lối ứng chiến gián tiếp. Sau khi đã tìm hiểu
trong nhiều chiến dịch tôi nhận thấy rằng tính gián tiếp hơn hẳn tính trực
tiếp đối với chiến tranh là một điều không thể chối cãi được. Bởi vậy tôi
lấy tính gián tiếp làm ánh sáng cho những tìm tòi về chiến lược. Thật vậy
tính gián tiếp từ ngàn xưa vẫn được áp dụng rất nhiều ở mọi cuộc chiến
tranh. Từ lớn nhất là tòan bộ sách lược chiến tranh đến nhỏ nhất là chiến
thuật chiến đấu, hết thảy đều có mặt tính gián tiếp và chính tính ấy xây
dựng nên nghệ thuật cao cho khoa quân sự."
Vây nước Ngụy, cứu nước Triệu là một sách lược hao tổn ít lại dành lợi
nhiều. Đọc Tam Quốc Chí chắc ít người quên Tào Tháo không giáp chiến
với chủ lực Viên Thiệu ở Quan độ mà thắng Thiệu bằng việc đánh kho
lương Ô sào. Đặng Ngải không đi đưởng chính để vào Ba thục, mà vượt
núi Âm bình.
Tôn Tử nói: Phải tránh chỗ thực để đánh vào chỗ hư. Tránh chỗ mạnh để
đánh vào chỗ yếu. Đó là nguyên tắc căn bản để vận dụng tính gián tiếp.


Chiến tranh ngày nay do những vận dụng mới mẻ và tài tình tính gián
tiếp vào chính trị để dành ưu thế quân sự nên đã nẩy ra những hiện tượng:
chiến tranh khởi nghĩa, chiến tranh lật đổ, chiến tranh cách mạng, chiến
tranh du kích v.v... nghĩa là những lọai chiến tranh do chính trị làm chủ
động. Ở những lọai chiến tranh mới này kẻ đối địch không phải chỉ là một
chiến tuyến, một quân đội đứng phía bên kia mà là một tập đòan có những
quyền lợi về lề lối sinh họat xã hội hợp lý hơn, là sự thay thế giữa hai chế
độ, trong đó có những lý do và yếu tố xã hội giữ vai trò chủ động đối với
việc quyết định hình thể chiến lược và thắng lợi của chiến tranh. Chính vì
thế mà năm 1814 khi trở về Ba lê, Napoléon đã vòng qua dãy núi Alpes
chứ không đi vào thung lũng miền Rhône, bởi lẽ vùng Alpes có nhiều
người theo chính trị cộng hòa, còn vùng Rhône thì là khu vực của phe bảo
hòang. Trotsky sửa sọan tổng phản công Denikine, nhưng phải chờ
Denikine đến vùng Donetz mới đánh, chứ không đánh ở Kouban. Nguyên
do, Kouban là vùng dân Cô giắc lúc ấy đang chống chế độ Sô viết mà
Donetz là nơi phong trào Sô viết lên mạnh nhất.
Chiến tranh bây giờ không phải là chuyện thắng bại giữa hai bộ đội mà
của quần chúng rộng lớn căn cứ trên quyền lợi xã hội và chiều hướng lịch
sử.
Đặc điểm ba
...................................................................................................
Chiến tranh gắn liền với đấu tranh chính trị, đấu tranh không chỉ hạn
chế trong quan hệ giữa những người cùng một nước mà nó dũi dài vào
tranh chấp quốc tế. Ở mỗi cuộc chiến đều có liên hệ tới đấu tranh chính trị
đối nội và đối ngoại. Chiến lược trong chiến tranh hiện tại sẽ không mang
một giá trị nào nếu nó chỉ được đặt trên cơ sở thuần túy quân sự mà không
chấp nhận thực tiễn xã hội trong nước và xã hội quốc tế làm chủ đề.
Chiến tranh ngày nay có một đặc điểm rất quan hệ là cùng một lúc nó
thực hiện cách mạng xã hội, cùng một lúc nó trở thành một khâu trong xâu
chuỗi tranh chấp nhiều nước. Xung đột nội bộ ảnh hưởng từ tranh chấp


quốc tế. Nội chiến để giải quyết một chính sách đối ngọai. Chính cũng vì
những lẽ trên nên Cộng sản mới lý luận: Chiến tranh giải phóng dân tộc là
hình thức đấu tranh cao nhất của cách mạng giai cấp. Ranh giới giữa nội
chiến, chiến tranh quốc gia và tranh chấp quốc tế nay đã trộn lẫn với nhau.
Tranh chấp quốc tế dũi dài vào nội chiến, nội chiến cũng không hạn chế
ảnh hưởng trong riêng một nước mà dũi dài tới tranh chấp quốc tế. Mọi
xung đột xã hội được khơi lên thành đấu tranh vũ trang, gây thành nội
chiến. Từ nội chiến chuyển vào chiến tranh giải quyết tranh chấp quốc tế.
Sự tuần hòan ấy, kết hợp cùng các đấu tranh trên mọi mặt đã mang lại cho
chiến tranh hiện tại ý nghĩa vô hạn trong đó bao gồm tư tưởng chiến, chính
trị chiến, ngọai giao chiến, kinh tế chiến, tuyên truyền chiến, gián điệp
chiến v.v...
Năm 1945 Nhật đầu hàng. Hòa bình chưa trở lại đất Trung quốc được
bao lâu thì đảng Quốc dân của Tưởng Giới Thạch liền phát động chiến
tranh tiễu cộng và đảng Cộng sản của Mao Trạch Đông cũng phát động
chiến tranh lật đổ chính quyền Tưởng Giới Thạch. Chiến tranh giữa Quốc
Cộng ở Trung hoa có hai mặt. Mặt quốc tế nó là cuộc chiến tranh uỷ nhiệm
của hai khối tư bản và xã hội. Mặt quốc nội nó là cuộc đấu tranh giữa
những lực lượng xã hội, giữa những hòan cảnh sinh họat trái nghịch nhau.
Thắng bại của nội chiến Trung quốc đã ảnh hưởng rất lớn đến tương quan
lực lượng quốc tế.
Đặc điểm bốn
Các nhà xã hội học từ bao lâu nay vẫn thường đặc biệt chú ý đến hiện
tượng chiến tranh và không ngớt đi tìm cho nó một định nghĩa chính xác.
Đại khái trên sách vở người ta tìm thấy những định nghĩa sau đây:
- Cuộc chiến đấu giữa những con người (Martens)
- Cuộc chiến đấu giữa nhiều nước độc lập (Blunt-Schili, Twins, Pradier)
- Giao tranh giữa những tổ hợp người như bộ lạc, quốc gia
(Bogulawsky)
- Xung đột giữa hai lực lượng vũ trang của những nền văn hóa, của


những tình cảm khác biệt (Quincy, Wright)
Tất cả những định nghĩa trên đã không làm thỏa mãn khi được đem ra
để giải thích chiến tranh hiện tại. Sở dĩ như vậy là bởi tại các định nghĩa đó
hòan tòan dựa trên nhận thức các chứng kiện lịch sử đối với bây giờ đã trở
nên quá cũ.
Riêng định nghĩa của Kamarowsky đúng nhất. Kamarowsky viết: Chiến
tranh là đấu tranh vũ trang giữa những đảng chính trị. (Luttes armées partis
organisés politiquement).
Tác dụng của đảng đối với chiến tranh ngày nay đã hiển hiện rõ rệt lắm.
Người ta có thể chứng minh bằng những sự kiện hiển nhiên.
a) Bộ máy chiến tranh ngày nay chẳng những đại biểu cho lực lượng và
uy thế quốc phòng, uy thế nhà nước mà còn là đại biểu cho một lực lượng
xã hội, một đường lối xây dựng xã hội.
b) Bộ máy chiến tranh là một lực lượng cách mạng vũ trang đấu tranh
với lực lượng chống cản nó.
c) Mục đích chiến tranh trong tranh chấp quốc tế không còn đặt trọng
tâm vào việc xử dụng bộ máy chiến tranh để tấn công chiếm cứ, cướp bóc
và khai thác của một quốc gia này đối với một quốc gia khác. Chiến tranh
ngày nay tìm đến kết thúc, đến thắng lợi bằng sự phát triển một phương
pháp xây dựng cơ sở xã hội mới, phương pháp phát triển kinh tế, lề lối
sinh họat, đặt lại quan hệ nhân quần.
.......................................................................................
Trong cuốn Entre la peur et l'espoir, Tibor Mende cũng ghi những dòng
sau đây:
Sự giúp đỡ của các nước mạnh cho các nước hậu tiến không chỉ thuần
túy là vật chất. Điều quan hệ hơn cả chính là một phương pháp, kỹ thuật để
đẩy mạnh tiến bộ xã hội, cải tạo xã hội.
Tiêu chuẩn thắng lợi của chiến tranh ngày nay cũng biến đổi hẳn. Chiến
thắng không hòan tòan đặt trên vấn đề tiêu diệt được bộ máy chiến tranh
hay lực lượng bộ đội của địch chưa? Mà phải đặt trên một tầng cao hơn là:


Bộ máy chiến tranh của địch đã mất uy thế chính trị chưa? Nếu uy thế
chính trị mất thì bộ máy chiến tranh tất sẽ dần mòn tiêu diệt. Nếu uy thế
chính trị còn thì dù bộ máy chiến tranh có thể tạm thời yếu đi, nhưng
không bao giờ tiêu diệt cả. Một ngày nào đó, cơ hội thuận tiện, chiến tranh
lại dấy lên tiếp tục những vấn đề còn bỏ dở. Cộng sản T.Q. sau những
thảm bại ở các vụ Nam xương, Lưỡng hồ Thu thâu, Quảng châu, bộ máy
chiến tranh hầu như tan rã, nhưng cộng sản còn bộ máy đấu tranh. Cho nên
chỉ ít lâu sau, nhờ đường lối chính trị đúng đắn như: thống nhất chiến
tuyến kháng Nhật, chính sách ruộng đất v.v... Cộng sản lại dần dần gây uy
thế chính trị, dựa vào uy thế chính trị mà tái lập vũ trang rất nhanh để tiếp
tục cuộc chiến tranh với Quốc dân đảng.
Tiêu chuẩn thắng lợi biến đổi, lực lượng quân sự thêm một mặt đại biểu
là đại biểu cho lực lượng xã hội đang lên bên cạnh trách nhiệm đại biểu cho
lực lượng quốc phòng đã khiến cho bộ máy lãnh đạo chiến tranh cũng biến
đổi tính chất. Nó chuyển từ tổ chức nhà nước sang tổ chức đảng và nhu
yếu đảng lồng vào nhu yếu nhà nước. Bên cạnh công tác quân sự có công
tác chính trị, vì bên cạnh chiến tranh có đấu tranh. Tính chất đấu tranh
càng nặng, chiến tranh chiến dịch, chiến đấu càng phản ảnh tính quyết liệt
của tình trạng đối nghịch xã hội thì yếu tố đảng càng hệ trọng.
Đặc điểm năm
Ở bất cứ biến động lịch sử nào người ta cũng thấy tổ chức quân sự cũng
bị tiêu hủy theo chế độ chính trị. Quân đội quý tộc của vương triều
Bourbon trong cách mạng Pháp được thay thế bởi quân đội quốc dân. Đảng
Bôn-sê-vích khi đọat chính quyền nước Nga đã biến lập ngay quân đội mới
mệnh danh là quân đội của giai cấp nông dân vô sản để thay thế quân đội
hòang gia của các Tsars. Tào Tháo phải tiêu diệt các quân đội thuộc khuôn
khổ bộ khúc để kiến lập quân ngũ thống nhất.
Trong các biến động lớn, những lực lượng sinh động của xã hội tham
gia chiến tranh không chỉ trên tư cách chiến đấu hay cấp dưỡng cho chiến
trường mà còn trên tư cách một thế chính trị mới, hay nói một cách khác đi


là mỗi thế chính trị đều cần phải có một quân đội riêng cho mình (une
armée pour sa politique).
Cách đây mấy trăm năm, trong cuốn sách nhan đề The art of war,
Machiavel là người Tây phương đầu tiên đã phát biểu trên bút mực phổ
biến quan niệm về quan hệ chặt chẽ giữa tổ chức chính trị với tổ chức quân
sự. Theo ông thì mỗi tổ chức xã hội và mỗi tổ chức chính trị đều có một tổ
chức quân sự riêng biệt. Chính trị nào quân đội ấy. Thời kỳ quân quyền
tuyệt đối hay Trung cổ, với quan niệm chiến tranh bảo vệ tôn giáo, người
ta thấy quân đội do giai cấp kỵ sỹ (chevalier) nắm giữ. Thời kỳ thương
nghiệp bắt đầu hưng thịnh, giai cấp kỵ sỹ dần dần xuống thế trong khi tổ
chức quân sự chuyển sang hình thức dân quân được mua chuộc bằng tiền
bạc.
Bây giờ các nhà xã hội học sau khi đào sâu vấn đề cũng đều công nhận
như Machiavel với định luật:
"Une armée est toujours une organisation sociale l'expression de la
collectivité tout entière".
Như vậy ta có thể khẳng định rằng:
Nếu không có một đường lối chính trị thực tâm thực sự phục vụ cách
mạng thì không khi nào có quân đội cách mạng được.
Chiến trường chủ yếu
Quân sự gia người Đức Von Bulow nói rằng: "Chiến tranh là một sự rối
loạn đuợc tổ chức và có tổ chức. Mục đích của chiến tranh bây giờ là đấu
tranh vũ trang giành lấy quyền thực hiện một sinh họat xã hội mới thay thế
cho sinh họat xã hội cũ. Sự thay cũ đổi mới đó, thể hiện lên qua tổ chức xã
hội, khi tổ chức xã hội cũ không còn thích hợp với tiến bộ của thời đại trên
các mặt sinh họat, kể cả mặt ý thức, tổ chức của chế độ cũ sẽ trở thành một
thứ chướng ngại. Nó đòi hỏi sự tham gia đấu tranh của tất cả các lực lượng
sinh động xã hội từ văn hóa, chính trị, kinh tế, xã hội đến quân sự. Vì tính
chất tòan diện đó nên chiến trường chủ yếu của chiến tranh bây giờ là đấu
tranh tổ chức."


Vấn đề tổ chức hết sức phức tạp vì ở chiến tranh hiện đại có sự tham dự
của nhiều ý thức hệ, sự tham dự của nhiều lực lượng đối lập nhau ở trong
cũng như ở ngòai nước cho nên muốn lãnh đạo chiến tranh trước hết phải
khắc phục được vấn đề tổ chức gay gắt và khó khăn.
Làm thế nào nắm vững được quy luật sinh họat xã hội với các mặt đối
lập và thoả hiệp, vì thế công tác tổ chức phải đi sâu vào các ngành sinh họat
xã hội từ hẹp đến rộng, từ thấp đến cao, từ nông thôn đến thành thị để hoàn
thành một hệ thống đấu tranh suốt mặt: Tổ chức hay là thua! Đó là điều
kiện gốc cho chiến tranh ngày nay.
Nói rằng: Chiến tranh trên căn bản phải giữ được liên hệ mật thiết với
quần chúng rộng lớn... Nói rằng ngòai mặt trận thì quân đội xung phong
đánh giặc, miền hậu tuyến thì dân chúng ra sức tăng gia sản xuất, nông dân
ngòai đồng ruộng, công nhân trong xưởng máy đều cùng một nhịp họat
động phục vụ tiền tuyến... Nói rằng lực lượng vũ trang gồm có quân đội
chủ lực, quân đội địa phương, và dân quân vũ trang, mỗi người dân là một
chiến sỹ, mỗi làng xã là một căn cứ quân sự, mỗi tổ chức thôn xã là một bộ
tham mưu.... Nói rằng hết sức thêm bạn bớt thù, đòan kết mọi lực lượng có
thể đòan kết được, trung lập mọi lực lượng có thể trung lập được, phân hóa
mọi lực lượng có thể phân hóa được, phát triển và củng cố lực lượng vũ
trang.
Hết thảy đều là vấn đề đấu tranh tổ chức vậy.
Đấu tranh tổ chức gồm hai mặt:
Một mặt tổ chức, củng cố tổ chức, phát triển tổ chức để không ngừng
mở rộng, thêm sức mạnh cho lực lượng ta, đồng thời chống phân hóa chia
rẽ nội bộ. Lúc nào cũng có khả năng đối phó kịp thời với những đột biến.
Một mặt vận dụng tổ chức để phân hóa chia rẽ hàng ngũ địch, làm thối nát
đời sống địch, làm rối lọan, gieo mâu thuẫn khắp nơi, gieo xung đột nội bộ
địch trên mọi mặt văn hóa, chính trị, kinh tế, quân đội v.v... Những điều kể
trên, ngàn xưa cũng đã có, nhưng ngày nay những điều đó phức tạp hơn
nhiều và để thực hiện chúng, công việc đòi hỏi một kế họach hành động mà


kỹ thuật đạt tới mức tuyệt hảo. Ngày nay chiến tranh trên sự thực đã rõ rệt
là một hình thức đấu tranh cao nhất, chiến tuyến quân sự với chiến tuyến
chính trị như đã trộn lẫn với nhau cho nên ở mỗi giai đoạn lại thóat ra
những mâu thuẫn, những thỏa hiệp mới. Ở mỗi hình thế lại có những bạn
mới, thù mới, những kẻ thù phụ, thù chính, thù sau lưng và thù trước mặt.
Điều kiện tiến hành chiến tranh theo với đà phát triển của chính trị quốc tế,
quốc nội và diễn tiến của chiến lược mà biến đổi bất thường. Những yếu
tố chính trị, kinh tế, tâm lý v.v... đòi hỏi tổ chức chính trị phải thích ứng
được với hòan cảnh chiến tranh và tổ chức quân sự phải hòa hợp được với
hòan cảnh đấu tranh.
Thủ đọan tổ chức
Đề cập đến tổ chức phần lớn người ta, thứ nhất là các học gia phương
Tây, chỉ đưa ra vận dụng nguyên lý và kỹ thuật tổ chức, mà quên mất thủ
đoạn đối với vấn đề ấy, như vậy không thể dùng danh từ đấu tranh tổ
chức. Thủ đọan của vấn đề tổ chức là:
1) Vận dụng chính trị vào đấu tranh tổ chức
2) Vận dụng lý luận vào đấu tranh tổ chức
3) Đấu tranh cán bộ - đấu tranh tổ chức.
Một đường lối chính sách đúng có thể cho lực lượng lớn mạnh thêm.
Một đường lối chính sách sai có thể làm cho lực lượng nhỏ yếu đi. Chính
trị ảnh hưởng to tát đến vấn đề tổ chức như vậy.
Làm thế nào để sự rối lọan theo định nghĩa Bulow được tổ chức và có tổ
chức?
Phải dựa vào đường lối chính trị và công tác chính trị. Có đường lối
chính trị thì chiến tranh mới có mục đích rõ ràng. Có đường lối chính trị thì
mới phát hiện được trong mỗi hình thế những mâu thuẫn và thỏa hiệp để
định rõ kẻ thù, định rõ bạn đồng minh. Từ đó mà gây ra phân hóa cô lập kẻ
thù, tranh thủ thật rộng rãi bạn đồng minh để đánh ngã kẻ thù trước mắt.
Vào thời đại Clausewitz và Luddendorf các nước đã hòan thành thống
nhất nội bộ, ý thức quốc gia đang lên cao. Chỉ cần đứng dưới một màu cờ,


một nhung phục là bạn thù đã phân biệt rõ rệt. Cuộc nổi dậy năm 1848 sở
dĩ thất bại cũng vì lực lượng thợ thuyền chưa bị hoàn tòan lôi cuốn vào
thuyết đấu tranh giai cấp và phe chống đối nổi dậy còn quá mạnh với ý
thức quốc gia dân tộc đang bành trướng.
Bây giờ khác hẳn, đấu tranh với chiến tranh không còn ranh giới rõ rệt
nữa. Chiến tranh giữa các nước tiến hành cùng một lúc với chiến tranh
trong nước. Do đó vấn đề tổ chức trở nên phức tạp hơn. Dân tộc hay quốc
gia nếu không mang một nội dung chính trị đấu tranh nào sẽ thành vô vị và
nhạt nhẽo.
Trong hình thức chiến tranh hiện tại, vấn đề tổ chức không chỉ để cung
cấp cho nhu yếu chiến tranh mà nhiệm vụ chính là cung cấp cho nhu yếu
đấu tranh. Vấn đề tổ chức không chỉ ở trên mặt đấu tranh quân sự mà còn
rộng rãi ở trên nhiều mặt đấu tranh khác.
Tổ chức rộng rãi quần chúng nhân dân đòan kết thành một trận tuyến
thống nhất, mở rộng chiến trường ra khắp nơi và khắp các lãnh vực. Dùng
tổ chức để khóang triển lực lượng chiến đấu, dùng tổ chức để phân tán kẻ
thù, dùng tổ chức để vũ trang quần chúng đánh đối phương bất cứ chỗ nào,
dùng tổ chức để biết rõ cơ mưu của địch, phá họai cơ cấu bảo vệ của địch
đồng thời bảo vệ cơ sở tổ chức của ta, còn dùng tổ chức để làm tan rã sức
đối kháng của địch trên tư tưởng, trên quan niệm, trên ý thức, trên hứng
thú, trên sinh họat v.v... Hành động nào cũng do lý luận mà ra, lý luận đúng,
hành động đúng, lý luận sai hành động sai, không đưa đến kết quả. Mặt
khác, muốn tổ chức trước hết phải thuyết phục người có tiếp nhận ta thì
mới chịu tổ chức. Cho nên đấu tranh tổ chức chỉ đúng có thể thực hiện
được hòan hảo khi nào ta đã thắng địch trên mặt trận lý luận. Hay nói khác
đi nếu đấu tranh lý luận, đấu tranh giáo dục, đấu tranh tuyên truyền là suy
động cơ của đấu tranh tổ chức (?)
Đấu tranh lý luận giữ vai trò cực quan hệ trong đấu tranh tổ chức. Nội
chiến Trung quốc chứng minh điều này. Khi phe Quốc dân đảng đã mất lục
địa, đa số nhân vật lãnh đạo thuộc phái duy vũ lực cho rằng thất bại của họ


là thất bại về quân sự. Sự thất bại quân sự chỉ là hậu quả của thất bại đấu
tranh lý luận tuyên truyền và giáo dục. Hàng vạn phần tử trí thức, hàng
trăm vạn nông dân vì nghe lý luận và tuyên truyền cộng sản đã không sợ
nguy hiểm vuợt vòng phong tỏa để chạy về khu vực cộng sản, đem đến cho
cộng sản một lực lượng quân đội lớn lao và một lực lượng cán bộ phong
phú. Sự kiện đó chứng tỏ cộng sản đã nắm vững được mối liên hệ giữa đấu
tranh lý luận, tuyên truyền với đấu tranh vũ trang.
Trong khu vực do Quốc dân đảng kiểm sóat, vì bị mê hoặc bởi lý luận
và tuyên truyền cộng sản mà nhân dân các giới không sợ tróc nã, hình tội
đã gia nhập các tổ chức địa hạ của cộng sản mà phá họai, mà vận động
quần chúng nổi lên đấu tranh chính trị, đấu tranh vũ trang ngay trong lòng
địch thì đó là sự thất bại quân sự hay vì cộng sản đã kết hợp được liên hệ
đấu tranh lý luận, đấu tranh tuyên truyền với đấu tranh tổ chức?
Cộng sản nhờ lý luận và tuyên truyền thẩm thấu mà đặt nhân sự lọt sâu
được vào những cơ cấu lãnh đạo chính trị, quân sự để phá họai đến trung
tâm các vấn đề quân sự, chính trị, kinh tế của Quốc dân đảng thì đó là thất
bại quân sự, tình báo hay vì Cộng sản đã khéo vận dụng được liên hệ đấu
tranh lý luận, tuyên truyền với đấu tranh bảo vệ?
Phe Quốc dân đảng thất bại bởi đã không thắng trên trận tuyến văn hóa.
Đấu tranh lý luận của phe Quốc dân đảng thất bại bởi nó thiếu tính hòan
chỉnh, tính hệ thống, và tính chiến đấu cao độ. Cũng do nguyên nhân này
mà bản thân Quốc dân đảng càng ngày càng hủ hóa, các phái bộ đảng tranh
giành nhau quyền lợi riêng lẻ bỏ quên quyền lợi chung.
Đấu tranh tuyên truyền của Quốc dân đảng thất bại bởi tuyên truyền chỉ
để tuyên truyền chứ không để tổ chức, tuyên truyền chỉ có tính cách phiến
diện chứ không có tính chất giáo dục để lãnh đạo quần chúng. Đấu tranh lý
luận, đấu tranh tuyên truyền làm nhân quả cho nhau. Đấu tranh lý luận,
đấu tranh tuyên truyền phải phối hợp chặt chẽ với đấu tranh tổ chức.
Đó là nguyên tắc cơ bản để tranh thủ lực lượng quần chúng để đọat
được về mình lợi khí làm ung thối và tan rã kẻ thù.


Phạm vi đấu tranh rộng lớn và phức tạp như vậy, để gánh vác nó, đương
nhiên phải có một lực lượng đã được củng cố vững chắc trên tư tưởng, trên
chính trị và trên tổ chức. Lực lượng ấy có hay không tất cả tùy thuộc vào
đấu tranh cán bộ. Cán bộ sẽ đi bên cạnh quần chúng để giáo dục, đi sâu vào
trận doanh địch mà phát triển các tổ chức tế bào. Do thắng lợi từ đấu tranh
cán bộ sẽ đem lại cho ta bảy điều có tại khắp nơi:
a) Có uy thế chính trị
b) Có quyền lực xã hội
c) Có lực lượng bổ sung
d) Có phương tiện vật chất
e) Có tai mắt
f) Có lực lượng chiến đấu ngay trong lòng địch
g) Có chiến trường đã chuẩn bị trước.
Và quan trọng hơn hết là bộ máy cán bộ đem đến khả năng thích ứng
chiến tranh vào những ý nguyện chính trị để tiến hành một cuộc đấu tranh
đúng mức.
Hòa bình
Chiến tranh là công cụ của chính trị, nhưng nếu coi nó là công cụ duy
nhất và tuyệt đối thì chính trị sẽ phá sản. Ở đây vấn đề hòa bình hiện lên.
Nhưng nói đến hoà bình đa số thường mang một quan niệm rất sai lầm là
khi đem nó đối chiếu với chiến tranh thì nhất định chiến tranh là một màu
đen ảm đạm, còn hòa bình là một màu hồng hạnh phúc, nghĩ hòa bình là
thiên đường còn chiến tranh là địa ngục. Và chỉ chấp nhận hẳn hoi là một
sự trái ngược chứ không chịu là một sự liên hệ tương bằng giữa chiến tranh
và hòa bình. Sự thật hòa bình hòan tòan là một thực tế chính trị, nó cũng
như chiến tranh, nó là một mặt khác nữa của đấu tranh nhằm giải quyết
những xung đột chính trị. Hòa bình chỉ là sự tạm im hơi của tiếng súng để
chuyển chiến tranh vào các chiến tranh khác như:
Chiến tranh tư tưởng (Ideological war)
Chiến tranh chính trị (Political war)


Chiến tranh ngọai giao (Diplomatic war)
Chiến tranh văn hóa (Cultural war)
Chiến tranh kinh tế (Economic war)
Chiến tranh tuyên truyền (Publicity war)
Chiến tranh gián điệp (Intelligence war)
và ở hòa bình tính quyết liệt mặc dù máu đã bớt đổ, cũng không giảm
đi, mọi hình thức đấu tranh như: Thủ đọan mưu mô, áp lực đe dọa, trừng
phạt vẫn còn. Người xưa với câu nói: Bình thời giảng võ, lọan thế độc thư;
thật quả đã ý thức minh bạch sự liên hệ (notions corrélatives) của chiến
tranh với hòa bình.
Vậy hòa bình là đấu tranh (La paix est lutte) đọc sách lúc lọan là để đấu
tranh khi hòa bình. Hòa bình mang muôn hình vạn trạng, không có một kiểu
mẫu nhất định nào, nó tùy thuộc những đổi thay của các tương quan lực
lượng (Il n'y a pas d'arché type unique de la paix mais autant de formes
qu'il y a de types de rapports de forces ou de puissances).
Có những hòa bình vì thế quân bình, có những hòa bình vì rơi vào liệt
thế, có những hòa bình để tiến hành một âm mưu lật đổ v.v...


C
LỜI KẾT
hính trị xưa và nay đều được tiến hành bằng sức mạnh và mưu mẹo
Nhưng sức mạnh phải được biến thành quyền lực, nếu không, sức mạnh
chỉ là những gì tàn nhẫn, thô bạo và man rợ. Sức mạnh ví như quặng và
quyền lực là luyện kim, bởi vậy nên sức mạnh bộc lộ, còn quyền lực thì
huyền diệu. Dĩ nhiên không có quyền lực nào lại không chứa đựng sức
mạnh cũng như không có luyện kim nào lại không lọc từ quặng ra, cho nên
không thể quan niệm sức mạnh (force) với quyền lực (puissance) như hai
điều tương phản (notions antithétiques), trái lại quyền lực là sức mạnh đã
được biến chế bằng tư tưởng, bằng trí thức. Quyền lực là sức mạnh đã
thăng hoa.
Và mưu mẹo phải được biến thành thủ đọan nghĩa là không lừa lọc, gian
xảo vặt vãnh. Thủ đọan là mưu mẹo đã được tôi luyện bằng mẫn đạt
(l'intelligence) và quyền uy (authorité). Thủ đọan là mưu mẹo đã thăng hoa.
Sức mạnh dựa vào thủ đọan để thăng hoa.
Thủ đọan dựa vào sức mạnh để bền vững.

Document Outline

  • Thủ Đoạn Chính Trị - Vũ Tài Lục
  • Ý nghĩa của chính trị
  • Người ta làm chính trị bằng đầu óc
  • Thủ đoạn là gì?
  • Mưu kế
  • Chính trị không phải là giấc mơ hoa trong chuyện thần tiên
  • Hành vi chính trị
  • Chính trị là công việc có liên quan đến bốn mặt
  • Chính trị lúc nào cũng có sự đấu tranh trên ba mặt
  • Chiến tranh

tải về 1.12 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   9   10   11   12   13   14   15   16   17




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương