Tự Do Ngôn Luận Bán Nguyệt San giải nhân quyềN


Ở Việt Nam có nhiều yêu cầu của dân cần phải được giải quyết ngay thì đảng không làm mà chỉ lo tập trung sức người và của để bảo đảm đảng tiếp tục được ăn đời ở kiếp trên đầu nhân dân



tải về 0.78 Mb.
trang3/3
Chuyển đổi dữ liệu20.05.2018
Kích0.78 Mb.
#38853
1   2   3

Ở Việt Nam có nhiều yêu cầu của dân cần phải được giải quyết ngay thì đảng không làm mà chỉ lo tập trung sức người và của để bảo đảm đảng tiếp tục được ăn đời ở kiếp trên đầu nhân dân.

Chuyện bức thiết đầu tiên của hàng triệu người dân miền Trung trong những ngày cuối năm 2016 là khi nào thì họ được ăn cá và sinh vật biển trong vùng đánh bắt 20 hải lý (mỗi hải lý dài 1,852 mét), tính từ bờ, sau thảm họa Formosa thải chất độc ra biển từ tháng 4/2016 ?

Lý do dân còn băn khoăn vì khi trả lời trước Quốc hội ngày 16-11-2016, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Trần Hồng Hà đã nói chung chung rằng: “Biển miền Trung đã an toàn trên cơ sở phân tích trầm tích đáy, nước giữa và nước mặt. Các hoạt động đánh bắt, nuôi trồng thuỷ hải sản, du lịch có thể hoạt động bình thường. Nhưng các báo bên Việt Nam lại viết : “Về chất lượng của hải sản, bộ trưởng cho biết Bộ Y tế vẫn đang tiến hành phân tích. Tuy nhiên, ông Hà bày tỏ sự tin tưởng toàn bộ hải sản miền Trung đã an toàn.

Nhưng ông Hà không phải là một chuyên viên hải dương học và càng không phải là một nhà khoa học nên phát biểu của ông không bảo đảm lòng tin của dân. Bộ Y tế cũng chưa dám công bố kết qủa khảo nghiệm vì trong con cá và các sinh vật biển mới hồi sinh hay sinh ra mới trong vùng ô nhiễm có chứa nhiều chất độc khác nhau xuất phát từ sản phẩm độc hại Formosa.

Có thật biển đã an toàn ?

Đó là kết luận lạc quan tếu của Bộ trưởng Trần Hồng Hà, bởi vì đã có một số nhà kha học Việt Nam rất bi quan, như Tiến sỹ Nguyễn Tác An - Phó Chủ tịch Hội Khoa học kỹ thuật biển Việt Nam, nguyên Viện trưởng Viện Hải dương học.

Khi trả lời câu hỏi “Chất thải chứa độc tố như phenol, xyanua kết hợp với hidroxit sắt, tạo thành một dạng phức hỗn hợp (mixel) theo dòng hải lưu lan rộng mà Formosa thải ra môi trường liệu có tự phân hủy được không ? TS Nguyễn Tác An cho rằng chất độc này từ sơ cấp đã chuyển thành thứ cấp. Chất độc sẽ kết tủa, lắng xuống đáy, tồn lưu trong trầm tích mặt đáy biển. Nó tồn tại ở đấy đến khi có dịp gì đó sẽ lại bùng lên. Những chất độc này tồn tại rất lâu, nguy hiểm, không đơn giản vài tháng vài năm là hết.” (Trích báo Người Lao Động, 01-07-2016)

Người Lao Động viết tiếp: “Về cách khử các chất độc, TS An cho rằng nếu khử độc này thì lại gây hậu quả, cá lại tiếp tục chết. Khu vực chịu ảnh hưởng là cả vùng biển kéo dài từ Hà Tĩnh đến Thừa Thiên-Huế trong khi công nghệ xả thải này (Formosa - PV) khá mới. Do đó, rất khó phục hồi hệ sinh thái như trước đây. Riêng việc tái tạo các rạn san hô, sinh vật biển có thể làm được nhưng thời gian kéo dài, vô cùng tốn kém và đòi hỏi các chuyên gia có trình độ cao.”


Theo TS An, việc cá chết chỉ là phần nổi tảng băng, điều nguy hiểm hơn chính là nền tảng sự sống, hệ sinh thái đáy bị hỏng. Điều này để lại di chứng từ 5 đến 10 năm hoặc lâu hơn nữa. Việc phục hồi lại hệ sinh thái sinh vật đáy như: cá biển, san hô, sinh vật nhỏ bé, vi sinh vật sẽ rất mất thời gian, kéo dài có thể vài chục năm. Trong khi đó, ngư dân miền Trung sinh kế chủ yếu vào tài nguyên biển mà cá đáy, sinh vật đáy, nền tảng sinh vật đáy đóng vai trò đến 90%. Kinh tế biển miền Trung bị một cú đấm rất mạnh khi người dân có nguy cơ mất sinh kế, du lịch bị ảnh hưởng…

50 năm mới hồi phục ?

Phát biểu của Tiến sỹ Nguyễn Tác An đã biến mất trên báo Người Lao Động sau vài ngày luân lưu nhưng phía Nhà nước không có ai dám phản bác. Cả Đảng, Chính phủ và Quốc hội đều cố ý sinh hoạt bình thường như không có chuyện nan giải ở miền Trung. Ngay cả khi khai mạc Hội nghị Trung ương 3 Khóa XII ngày 4-7-2016, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng không nói đến một chữ “cá chết”, hay đếm xỉa gì đến thảm họa môi trường của Formosa.


Hành động đãng trí cố ý của ông Trọng không có gì mới vì chính ông đã đi thăm vùng Vũng Áng và khu nhà máy Fomosa chỉ sau vài ngày cá chết hàng loạt được phát giác hồi tháng 4-2016 mà ông cũng không nói được nửa lời an ủi dân.

Như vậy, nghi ngờ thỏa hiệp ngầm giữa nhà nước Việt Nam và Formosa Đài Loan trong vụ đến bù 500 triệu dollars nhất định phải có bàn tay của ông Trọng cũng không phải là điều oan ức.

Nhưng liệu thái độ “ngậm miệng ăn tiền Formosa” của đảng CSVN có bị mắc họng không ?

Hãy đọc báo Tiền Phong viết ngày 04-07-2016: “Khảo sát đáy biển nhiều nơi thuộc bốn tỉnh Bắc Trung bộ sau sự cố môi trường nghiêm trọng, các nhà khoa học phát hiện hơn nửa rặng san hô ở những nơi đó đã bị chết, các loài tôm cá điển hình của vùng này cũng không còn. Họ đánh giá, phải mất khoảng 50 năm, hệ sinh thái biển ở đây mới có thể phục hồi hoàn toàn.”

Nếu phải mất nửa Thế kỷ để tìm lại sự sống cho cá tôm và sinh vật biển thì nhân dân miền Trung có còn biển để sống nữa không ? Tương lai mù mịt này ai chịu trách nhiệm trước lịch sử, Formosa hay đảng CSVN ?

Kinh tế suy –thủ tướng tảng lờ

Hơn nữa, nền kinh tế đang tiếp tục suy sụp thê thảm tại 4 tỉnh miền Trung còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến các dịch vụ của dân sống nhờ vào biển như buôn bán cá, du lịch, khách sạn, nhà hàng, buôn bán xăng dầu, vận tải, lưu thông vì không ai dám ăn cá, du khách vắng và ít ai dám tắm biển khi mức độ an tòan sức khỏe chưa được bảo đảm như trước ngày xẩy ra vụ Formosa.

Vì vậy tới cuối tháng 12-2016, thảm trạng Formosa gây ra cho nhân dân 4 tỉnh Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị và TT-Huế đã kéo dài 8 tháng, kể từ ngày 6-4-2016, nhưng dân vẫn chưa nhìn thấy tương lai ở đâu. Mức độ bồi thường 500 triệu dollars của Formosa, so với thiệt hại ban đầu của dân, đã không thấm vào đâu nên dân vẫn tiếp tục kéo nhau đi khiếu kiện đòi đền bù công bằng.

Hàng trăm ngàn con em của dân bị nạn cũng đã mất học vì nhà nghèo không đủ điều kiện đến trường nên tương lai của các em cũng mờ mịt theo cha mẹ.

Vậy mà tại phiên họp tổng kết 2016 của Chính phủ với các địa phương sáng 28-12-2016, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc nói đại khái rằng: “Trong bối cảnh ngành khai khoáng và nông nghiệp gặp khó khăn rất lớn (mất 1% GDP do thiệt hại nông nghiệp, riêng vụ hải sản chết ở miền Trung làm thiệt hại 0,3% GDP, sản lượng dầu thô giảm 1 triệu tấn).

Ông nói: “Sự cố môi trường gây hậu quả nghiêm trọng, nhất là môi trường biển ở 4 tỉnh miền Trung.” Nhưng ông Phúc chỉ nói về sự mất mát cho ngân sách nhà nước. Còn thiệt hại to lớn của trên 5 triệu dân thì ai chịu ? Tại sao ông Phúc lại lờ đi ?

Riêng đối với thất thu trong khai thác dầu khí, ông Phúc tiết lộ: “Chỉ số sản xuất ngành khai khoáng giảm, kim ngạch xuất khẩu dầu thô giảm 36,7% do giá dầu thô giảm mạnh.”

Ông Phúc còn khoe trong năm 2016, đã có “kết quả phát triển doanh nghiệp khởi sắc.” Ông nói: “Lần đầu tiên có trên 110.000 doanh nghiệp thành lập mới với số vốn đăng ký trên 891.000 tỷ đồng, cao nhất từ trước đến nay, tăng 16,2% về số doanh nghiệp và 48,1% về vốn. Có gần 27. 000 doanh nghiệp trở lại hoạt động.”

Nói thế nhưng ông ta đã quên rằng Cục Quản lý đăng ký kinh doanh đã báo cáo : “Tổng số doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng hoạt động có thời hạn và không thời hạn, hoàn tất giải thể là 73.145 doanh nghiệp. Bình quân, mỗi ngày có 200 doanh nghiệp ngừng hoạt động, hoàn tất giải thể.” (theo Thời báo Kinh tế VN, 27-12-16) 

Thêm vào đó, khối Doanh nghiệp nhà nước vẫn là gánh nặng cho ngân sách và tiêu tán phần lớn vốn liếng đầu tư do lợi ích nhóm, đầu tư dàn trải và tham nhũng nội bộ gây ra.

Theo tờ Thời báo Kinh tế Sài Gòn (TBKTSG) ngày 22-12-2016 thì “Ngoài 5 dự án thua lỗ hàng ngàn tỉ đồng thuộc quyền quản lý của Bộ Công thương và các doanh nghiệp thuộc bộ vẫn chưa có hướng giải quyết, mới đây Chính phủ đã bổ sung vào danh sách thua lỗ nói trên 7 dự án cũng thuộc bộ này phải tập trung xử lý dứt điểm, đưa số dự án ngàn tỉ thua lỗ phải xử lý lên 12 dự án.”


TBKTSG nêu tên các Doanh nghiệp mất vốn gồm: “Nhà máy sản xuất xơ sợi Đình Vũ, dự án Nhà máy bột giấy Phương Nam, dự án Nhà máy gang thép Thái Nguyên giai đoạn II, Nhà máy nhiên liệu sinh học Bio-Ethanol Dung Quất và dự án Nhà máy đạm Ninh Bình.”

Bảy (07) dự án thua lỗ tiền tỷ khác gồm: “Dự án Đạm Hà Bắc; Đạm DAP 1 Lào Cai; DAP 2 Hải Phòng; Ethanol Bình Phước; Ethanol Phú Thọ; Nhà máy đóng tàu Dung Quất (dự án này trước của Tập đoàn Vinashin chuyển giao cho Tập đoàn Dầu khí khi đã thua lỗ nặng nề - chú thích của TBKTSG); dự án liên doanh giữa đối tác mỏ Quý Sa và Nhà máy gang thép Lào Cai.”

Không thấy ông Nguyễn Xuân Phúc tiết lộ số tiền nghìn-nghìn tỷ mất toi của các dự án này là bao nhiêu, hay đã chạy vào túi ai ? Cũng không thấy báo cáo chính phủ nói gì đến những người đã gây ra thua lỗ và làm mất tiền của dân.

Chỉ thấy Phó Thủ tướng đặc trách kinh tế Vương Đình Huệ đã báo cáo tại cuộc họp của Ủy ban xử lý thua lỗ ngày 20-12-2016 rằng: “Việc xử lý các dự án này phải tuân thủ nguyên tắc “kiên quyết xử lý các DNNN thua lỗ, các dự án đầu tư của DNNN không hiệu quả hoặc hiệu quả thấp theo nguyên tắc và cơ chế thị trường” như Hội nghị Trung ương 4 khóa XII đã chỉ đạo. (Thời báo Kinh tế Sài Gòn, TBKTSG, ngày 22-12-2016)


Xử lý cách nào, hay cuối cùng rồi cũng chỉ để đánh bùn sang ao thì ông Huệ nói: “Yêu cầu đến hết năm 2017 phải có chuyển biến căn bản về kết quả xử lý và phấn đấu đến hết năm 2018 là cơ bản xử lý xong. Hướng xử lý sẽ là nhà máy nào không còn khả năng cơ cấu lại sẽ phải xử lý theo hướng thoái vốn, bán đấu giá, cho giải thể, phá sản… theo quy định của pháp luật. Nhà nước không dùng tiền ngân sách để bù lỗ, hỗ trợ cho các dự án nữa.” (TBKTSG)

Cũng đáng ngạc nhiên là tuy mất mát tiền dân to lớn như thế mà không thấy ông Huệ quy kết trách nhiệm cho ai. Cũng chẳng thấy Quốc hội đòi điều tra thì không biết các Đại biểu Quốc hội là đại diện của ai ?

Nước ngoài bỏ Việt Nam

Nhưng bấy nhiêu chưa hết chuyện yếu kém trong điều hành kinh tề của nhà nước Việt Nam. Chính phủ còn cố tình che giấu chuyện đang có nhiều nhà đầu tư nước ngoài bỏ Việt Nam đi làm ăn nơi khác.

Tại Diễn đàn Doanh nghiệp thường niên năm 2016 được tổ chức ngày 5-12-2016, đại diện Nhóm công tác Thị trường vốn, ông Dominic Scriven loan báo nhà đầu tư lớn nhất của Dragon Capital đã quyết định rút khỏi VN vì “thiếu vắng những chính sách và hành động thuyết phục trong việc bảo vệ môi trường.” Ông nói: “Tại những thị trường mới nổi như VN, các vấn đề về làm giá, xung đột quyền lợi, gian lậm… là khó tránh khỏi. Chính vì vậy, giá trị doanh nghiệp bị định giá thấp hơn so với khu vực, hay việc chỉ có 1,5 triệu tài khoản chứng khoán đang giao dịch sau 20 năm thành lập thị trường chứng khoán cũng xuất phát từ nguyên nhân VN thiếu uy tín thị trường.”

Một nguyên nhân khác làm nhà đầu tư nản chí vì nhà nước Việt Nam đã xử lý các vi phạm “bằng biện pháp hành chính” và kẻ vi phạm chỉ bị phạt nhẹ thay vì phải được “xét xử hình sự”. (Theo Nhịp sống Kinh Doanh (BizLive) ngày 05-12-2016)

Bizlive viết tiếp: “Theo ông Domi-nic, các sự cố lớn tại miền Trung (Formosa thải chất độc làm cá chết), các vấn đề liên quan đến sông Mê Kông, hạn hán, lũ lụt, buôn bán động vật hoang dã là những vấn đề thế giới nhìn thấy và ảnh hưởng không tốt tới uy tín quốc gia.”

Cũng tại diễn đàn Doanh nghiệp tổ chức tại Hà Nội, Ông Kenneth Atkinson, chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp Anh Quốc được báo chí ở Hà Nội trích lời nói rằng: “Ngoài thảm họa cá chết dọc theo bờ biển các tỉnh miền Trung sau đó được xác định là do nguồn xả thải chất nhiễm độc của nhà máy Formosa ở Hà Tĩnh gây ra, các hệ thống sông hồ ở những thành phố lớn như Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh cũng chứng kiến cảnh cá chết hàng loạt. Ngoài ô nhiễm nguồn nước, tình trạng ô nhiễm không khí ở VN cũng đã lên đến mức báo động.

Một tổ chức nghiên cứu môi trường của Thụy Điển đã có lần kết luận rằng “Việt Nam nằm trong số 10 nước có không khí ô nhiễm nghiêm trọng nhất thế giới.” Và đây chính là mối lo đối với những người nước ngoài muốn đến sinh sống và làm việc ở Việt Nam.

Ông Atkinson quan sát: “Mức độ ô nhiễm đang tăng cao một cách rõ rệt và ở mức báo động. Điều này sẽ có tác động tới những người muốn chuyển gia đình tới sinh sống ở Việt Nam, từ đó ảnh hưởng tiêu cực tới vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Chúng tôi cho rằng nguyên nhân chính của vấn đề này nằm ở sự yếu kém trong quản lý và thực thi luật pháp, nhất là ở các khu công nghiệp”.

Thảm họa ô nhiễm môi trường do các Công ty nước ngoài, đa phần của Trung Quốc và Đài Loan gây ra cho Việt Nam đã có từ lâu. Giới khoa học và người dân Việt Nam đã ta thán nhiều năm nhưng nhà nước, phần chính vì mối lợi trước mắt và cán bộ tham nhũng nên đã buông lỏng kiểm soát để gây hậu qủa nghiêm trọng như đã thấy trong vụ Formosa Hà Tĩnh (6-4-2016); vụ nhà máy bột ngọt Vedan Việt Nam gây ô nhiễm sông Thị Vải trong suốt 14 năm, chỉ bị phát giác ngày 13-09-2008. Sau khi nạp phạt vi phạm hành chính, Vedan vẫn được hoạt động.

Ngoài ra, theo Phóng viên Tuyết Nhung của báo báo BizLive viết trong bài “Điểm mặt 10 công ty gây ô nhiễm nghiêm trọng nhất ở Việt Nam ngày 03-08-2016 thì ở Việt Nam còn có các nhà máy Nhiệt điện Vĩnh Tân 2 ở tỉnh Bình Thuận, vận hành từ tháng 1-2015, không ngừng thải bụi gây ô nhiễm không khí.

Các nhà máy gây ô nhiễm khác bị liệt kê trong danh sách có thêm : Mei Sheng Textiles Việt Nam (Bà Rịa-Vũng Tầu); Thuộc da Hào Dương (huyện Nhà Bè, TP. Hồ Chí Minh); Đóng tàu Huyndai Vinashin (tỉnh Khánh Hòa); Dệt nhuộm Pangrim Neotex (của Nam Hàn ở tỉnh Phú Thọ); Bột ngọt Miwon (tỉnh Phú Thọ); Mía đường Hòa Bình.

Các nhà máy mía đường Sơn La, công ty cổ phần mía đường Tuy Hòa (tỉnh Phú Yên), công ty cổ phần mía đường Cà Mau, công ty cổ phần mía đường Trà Vinh cũng đang gây ô nhiễm cho dân. 


Điều đáng chú ý, theo Tuyết Nhung, phần đông những nhà máy gây ô nhiễm nghiêm trọng này, sau khi chịu phạt hành chính vẫn được nhà nước Cộng sản Việt Nam cho tiếp tục hoạt động.

Đó là lý do tại sao nhiều Doanh nghiệp nước ngoài đang lũ lượt tháo chạy khỏi VN mà đảng và nhà nước Việt Nam không dám cho dân biết.


Chỉ lo giữ đảng

Tình hình kinh tế bi đát như tiết lộ của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, của Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ và của các chuyên gia tại cuộc Hội thảo đầu tư mới đây tại Hà Nội ngày 5-12-2016, hiển nhiên không sáng sủa cho Việt Nam trước hiểm họa ô nhiễm môi trường ngày một nghiêm trọng. Trong khi thảm họa Formosa vẫn đang treo trên đầu dân.


TOP TEN PHÁT NGÔN ẤN TƯỢNG 2016

Trương Duy Nhất, 27-12-2016
1- “Nhìn tổng quát, đất nước ta có bao giờ được thế này không?” – Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, phát biểu tại ngày hội đại đoàn kết thôn Phật Tích (Tiên Du, Bắc Ninh), 13-11-2016.

2- “Chúng ta hoàn toàn tin tưởng 5 năm tới đất nước sẽ phát triển thịnh vượng, nhân dân được ấm no” – Bí thư Quảng Ngãi Lê Viết Chữ, 21-6-2016.

3- “Chúc các đồng chí kỳ này nghỉ chính sách, và chúc cho cả tôi nữa, làm sao ráng làm người tử tế, sống tử tế” – Nguyễn Tấn Dũng, phát biểu chia tay chính phủ trong phiên điều hành cuối cùng trên cương vị Thủ tướng, 26-3-2016.

4- “Mong ADB tiếp tục hỗ trợ, đồng hành cùng chính phủ Việt Nam trong khuôn khổ hợp tác của khu vực như: tiểu vùng Mê Kông, Ác Mét, Cờ Lờ Mờ Vờ và Cờ Lờ Vờ…” – Phát biểu của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc tại lễ kỷ niệm 50 năm thành lập Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) và 20 năm mở cơ quan đại diện ADB tại Việt Nam, 2-12-2016.

5- “Chúng tôi đang xây dựng “cái lồng” để nhốt quyền lực. Lồng này là do ta thiết kế, do ta làm” – Trưởng ban Tổ chức trung ương Phạm Minh Chính, trao đổi với báo chí quanh sự kiện Trịnh Xuân Thanh và Vũ Huy Hoàng, 30-10-2016.

6- “Tham nhũng là những người có chức vụ quyền hạn. Chúng tôi chống lại có khi chết trước!”- Cục trưởng cục Chống tham nhũng (Thanh tra chính phủ) Phạm Trọng Đạt, phát biểu tại hội nghị tổng kết 10 năm thi hành luật Phòng chống tham nhũng 4-3-2016.

7- “Nghề phóng viên phải như con chó ấy!” –Nguyễn Như Phong, cựu Tổng Biên tập báo Năng Lượng Mới (Petro Times), 10-6-2016.

8- “Nói là xả lũ nhưng thực tế là thủy điện cho nước lũ đi qua hồ mà thôi. Mà cho chảy qua là nước của trời, không phải nước của thủy điện” – Tiến sĩ Nguyễn Bách Phúc, Chủ tịch Hội tư vấn khoa học công nghệ & quản lý Tp. HCM HASCON, Viện trưởng điện–điện tử–tin học EEI, nói về hiện tượng xả đập thuỷ điện gây lũ ở miền Trung, 18-10-2016.

9- “Xin hội đồng xét xử miễn hoặc giảm nhẹ hình phạt để tôi ở ngoài xã hội tiếp tục cống hiến cho quê hương” – Lời nói sau cùng của bị cáo, cựu Chủ tịch huyện Kỳ Anh, Hà Tĩnh Nguyễn Văn Bổng, phiên toà ngày 30-11-2016 xử ông và các đồng phạm trong vụ án cố ý làm trái, thất thoát hơn 10,4 tỉ đồng giải phóng mặt bằng dự án Formosa.

10- “Không mở đường, cứ để kẹt xe. Người dân chịu hết nổi sẽ chuyển sang dùng phương tiện công cộng” – Tiến sĩ Huỳnh Thế Du hiến kế giảm ùn tắc giao thông cho TP Hồ Chí Minh, 29/3/2016.




Thế nhưng Ban Lãnh đạo đảng, đứng đầu bởi TBT N.P. Trọng không coi đó là nguy cơ hại dân. Ngược lại họ đã và đang vận dụng hết năng lực để chống sự tàn phá của hai kẻ nội thù “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ để giữ đảng.

Ông Trọng đã kêu gọi Quân đội và Công an, hai lực lượng rường cột bảo vệ đảng và chế độ, phải tuyệt đối trung thành với đảng và đảng phải là lực lượng lãnh đạo truyền thống duy nhất của Quân đội và Công an.

Ông Trọng chẳng cần phải hô hoán như thế thì ai cũng đã biết nếu không có hai lực lượng này cầm súng và sử dụng khủng bố kiểm soát dân để bảo vệ đảng và chế độ thì đảng đã vỡ ra nhiều mảnh từ lâu rồi.

Nhưng khi ông Trọng và các cấp lãnh đạo Quân đội và Công an ra sức tuyên truyền, vận động trong thời gian mới đây để nắm chắc Quân đội và Công an không “tự diễn biến” và “tự chuyển hóa” thì cũng là lúc đảng phải đương đầu với tình trạng đảng viên không còn tin vào đường lối lãnh đạo của Đảng nữa.

Bằng chứng là đảng đã nhìn nhận tại Hội nghị Trung ương 4 (09-10-2016) đã có một số không nhỏ cán bộ, đảng viên “phai nhạt lý tưởng cách mạng; dao động, giảm sút niềm tin vào mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hoài nghi, thiếu tin tưởng vào chủ nghĩa Marx-Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh.

Chẳng những thế họ còn “phản bác, phủ nhận chủ nghĩa Marx-Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các nguyên tắc tổ chức của Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ; đòi thực hiện "đa nguyên, đa đảng".”

Đảng viên cũng công khai phủ nhận điều không có thật được gọi là “nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa”, hay còn “Nói, viết, làm trái quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng” và “Phủ nhận nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” phản khoa học và mị dân của đảng.

Còn có đảng viên, theo Văn kiện Hội nghị 4 dám “hạ thấp, phủ nhận những thành quả cách mạng; thổi phồng khuyết điểm của Đảng, Nhà nước”. Thậm chí họ còn “phủ nhận vai trò lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với lực lượng vũ trang; đòi "phi chính trị hoá" quân đội và công an.”

Nghiệm trọng hơn, Đảng còn cáo giác có tình trạng đảng viên “móc nối, cấu kết với các thế lực thù địch, phản động và các phần tử cơ hội, bất mãn chính trị để truyền bá tư tưởng, quan điểm đối lập; vận động, tổ chức, tập hợp lực lượng để chống phá Đảng và Nhà nước.”

Thực trạng nội bộ đã rã rời như thế mà Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng vẫn nghêu ngao tại Hội nghị cán bộ toàn quốc ngày 9-12-2016 rằng: “Để thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Trung ương 4 về xây dựng Đảng thì nhận thức phải chín, tư tưởng phải thông, quyết tâm phải lớn và phương pháp phải đúng. Bộ Chính trị tin tưởng rằng, với quyết tâm chính trị rất cao của toàn Đảng, sự đồng tình, ủng hộ mạnh mẽ của toàn dân, sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, nhất định chúng ta sẽ làm chuyển biến được tình hình để không phụ lòng mong đợi của nhân dân đối với Đảng; để xây dựng Đảng ta ngày càng trong sạch, vững mạnh, thật sự "là đạo đức, là văn minh”.

Không ai cấm ông Trọng lạc quan để giữ đảng, nhưng nếu phải hy sinh quyền lợi sống còn của dân để tiếp tục cầm quyền thì đảng sẽ có công hay phải chuộc tội với Tổ quốc ? -/-

(29-12-2016)


Cái đảng CS chắc phải “đốn” lắm rồi. Hết hội nghị này tới hội nghị khác hô hào chỉnh đốn Đảng, rồi lại hô to hơn, phải tăng cường chỉnh đốn Đảng. Ông Nguyễn Phú Trọng lại mới họp một hội nghị cán bộ toàn quốc dạy dỗ cán bộ về tăng cường chỉnh đốn Đảng!

Đốn là đứa nào mà phải chỉnh đi chỉnh lại hoài như vậy? Tự điển Hán Việt của Thiều Chửu, giải thích chữ chỉnh đốn: “sự gì, cái gì đã tán loạn lâu rồi mà lại sửa sang lại cho được như cũ gọi là chỉnh đốn”. Ng. Phú Trọng đang lo chỉnh đốn Đảng bởi vì cái Đảng của ông ta “đã tán loạn lâu rồi!” Và ông muốn sửa sang nó “cho được như cũ”.

Cảnh tán loạn trong đảng Cộng sản Việt Nam đã diễn ra từ mấy chục năm nay rồi nhưng đến đời Nguyễn Phú Trọng đã bùng nổ mạnh. Nguyễn An Dân đã mô tả cảnh tán loạn qua mấy chữ: Đảng bắn nhau; Đảng bắn dân; dân bắn lại Đảng!

Một vụ dân bắn lại Đảng xẩy ra năm 2013, một “dân oan” là Đặng Ngọc Viết mặc quần áo nghiêm chỉnh, tay sách chiếc cặp đen thong dong vào trụ sở hành chính thị xã Thái Bình bắn chết bốn cán bộ Trung tâm Phát triển quỹ đất thành phố: Vũ Ngọc Dũng, phó giám đốc Trung tâm; và Bùi Đức Xuân, Vũ Công Cương và Nguyễn Thanh Dương. Giết người xong Đặng Ngọc Viết ra về, đến chiều tới cổng chùa Dục Dương bên cạnh nhà tự sát. Các nạn nhân là những người đang thi hành “dự án mở đường” qua khu vực đất nhà anh Viết, và gia đình anh không được bồi thường xứng đáng.

Vụ Đảng bắn nhau diễn ra tại Yên Bái năm nay. Đỗ Cường Minh, chi cục trưởng Chi cục Kiểm lâm Yên Bái, vào trụ sở thành phố bắn chết hai quan đầu tỉnh, bí thư Tỉnh ủy Phạm Duy Cường và chủ tịch tỉnh kiêm trưởng ban Tổ chức Ngô Ngọc Tuấn. Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc bay lên ngay coi xác rồi hứa điều tra. Phó Thủ tướng Trương Hòa Bình gửi công văn chỉ đạo cơ quan công an khởi tố, điều tra, xác định nguyên nhân vụ. Bốn tháng hơn rồi, không còn nghe nói gì nữa.

Cảnh tán loạn gần đây nhất là vào tháng Chín, 2016 với những cuộc tháo chạy của những Trịnh Xuân Thanh, Vũ Đình Duy, Lê Chung Dũng, tất cả đều liên can tới các công ty dầu khí, những cái ổ chứa đầy tiền; Thanh còn từng giữ chức phó chủ tịch tỉnh Hậu Giang. Cả ba người này đều đang bị nghi ngờ tham nhũng, bị điều tra hoặc bị truy tố, nhưng đều bình yên cao chạy xa bay! Tán loạn bên trong và bên ngoài Đảng! Nguyễn Phú Trọng đang cầm đầu Đảng, mà Đảng thì được Hiến pháp xác định toàn quyền “lãnh đạo nhà nước và xã hội” không làm được gì cả, chỉ còn sử dụng món “võ mồm!”

Nguyễn Phú Trọng đến nói chuyện với các cử tri của mình tại Đông Anh, Hà Nội, quê hương của cả ông Trọng và Trịnh Xuân Thanh. Ông dõng dạc tuyên bố: “Đã ra lệnh truy nã quốc tế với Trịnh Xuân Thanh và đang phối hợp với các nước bắt bằng được”. Nhà báo tự do Người Buôn Gió kể chuyện trên rồi nhận xét: “Trọng bày tỏ sự cay cú, hằn học với Trịnh Xuân Thanh một cách trẻ con”. Trong lúc đó Trịnh Xuân Thanh vẫn liên lạc với bạn ở Việt Nam, còn kể chuyện mình đang ở nước Đức như thế nào để đưa lên mạng, chẳng thấy lệnh truy nã quốc tế nào hết! Người Buôn Gió kết luận rằng Trọng chỉ “phát biểu mị dân cho mình đỡ nhục vì không làm gì được Trịnh Xuân Thanh cả!”

Nhà báo Huy Đức cho rằng bản danh sách những người trong ngành Dầu Khí “có khả năng chạy trốn” lên tới 192 nhân vật! Quả thật là tán loạn! Trọng “loay hoay với những kẻ đã cao chạy xa bay” không bắt được, bèn quay ra ra lệnh cách chức mấy quan chức đã nghỉ hưu rồi, không còn chức nào để cách nữa!



Một đảng viên là Giáo sư Trần Đình Sử, được tiếng là thận trọng, cũng phải buông lời phê phán: “Chế độ ta đạt đến sự thối nát nhất trong các chế độ đã có và hiện có… Thật khủng khiếp!”

Bất lực trước những cảnh tán loạn đó, Nguyễn Phú Trọng quay ra “chỉnh đốn Đảng!” Trọng đã từng hô hào chống tham nhũng để chỉnh đốn Đảng. Ông Nguyễn Đăng Quang, cựu đại tá công an hiện nghỉ hưu ở Hà Nội nhận xét: “Lãnh đạo Đảng càng hô hào chống tham nhũng, càng ra nhiều nghị quyết, chỉ thị chống tham nhũng, thì tham nhũng này lại càng khỏe ra càng mạnh lên!” Và ông kết luận: “Đánh tham nhũng chống tham nhũng chẳng qua chỉ là đánh trận giả, bắn chỉ thiên là chính thôi!” Cần giải thích cho các bạn trẻ hiểu nghĩa: bắn chỉ thiên tức là đưa nòng súng ngược lên trời, đạn bắn bay lên trời chứ không trúng ai cả!

Chỉ có thể chống tham nhũng bằng cách bắn chỉ thiên bởi vì chính các quan Cộng sản cũng công nhận rằng “đánh tham nhũng tức là ta lại đánh ta!” Hình ảnh bắn chỉ thiên giải thích được tại sao những người bị nghi tham nhũng như quý ông Trịnh Xuân Thanh, Vũ Đình Duy, Lê Chung Dũng đều thoải mái biến đi không để lại dấu vết!

Ông Nguyễn Phú Trọng vẫn được đàn em tôn xưng là giáo sư. Sau khi bắn chỉ thiên chống tham nhũng, giáo sư Trọng đã quay ra bắn tiếp vào “tình trạng suy thoái” của Đảng, nhắm thẳng vào hai mục tiêu: “tự diễn biến” và “tự chuyển hóa”. Ông cảnh báo các cán bộ, đảng viên rằng những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ vẫn chưa được ngăn chặn, đẩy lùi”. Đáng lo hơn là chúng “còn diễn biến tinh vi, phức tạp hơn, có thể gây ra những hậu quả khôn lường”. Việc chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ là một “cuộc chiến đầy cam go” nhưng ông nói, “không thể không làm, vì nó liên quan đến vận mệnh của Đảng và chế độ”.

Điều ông Trọng nhấn mạnh là hai hiện tượng “tự diễn biến” và “tự chuyển hóa” nguy hiểm cho “vận mệnh của Đảng và chế độ” chứ ông không nói gì tới vận mệnh nước VN cả. Vận mệnh nước VN hiện nay là cá chết, biển chết, dân đói, trẻ em thất học, quân giặc xâm lăng đã chiếm biển, chiếm đảo, xây phi trường và căn cứ quân sự đe dọa hai ngàn cây số bờ biển. Nhưng tất cả những tai họa đó không đáng lo bằng sự kiện các đảng viên “tự diễn biến” và “tự chuyển hóa;” cho nên ông Trọng chẳng cần quan tâm!

Ông Trọng không quan tâm là phải, bởi vì chính những người đảng viên CS tỉnh ngộ khi nhìn ra những sai lầm hại dân hại nước, chính họ đã tự chuyển hóa để đòi thay đổi. Những người đang “tự diễn biến” và “tự chuyển hóa” bây giờ chỉ noi theo các đàn anh đi trước, từ Hoàng Minh Chính, Trần Độ tới Tống Văn Công, đặt vận mệnh dân tộc lên trên vận mệnh Đảng và chế độ! Họ không chấp nhận tiếp tục nhắm mắt, cúi đầu theo Đảng cho nên họ mới lên tiếng đòi cho người dân Việt được sống tự do dân chủ, đòi phải cứng rắn đương đầu với kẻ thù xâm lăng cướp nước.



Những người tỉnh ngộ sớm nhìn thấy tai họa của đất nước, không phải chỉ là những tai họa vật chất như đất đai, rừng, biển và tài nguyên thiên nhiên. Tại họa lớn nhất là một dân tộc sống không có phương hướng. Họ phải tự chuyển hóa để nhìn rõ vấn đề đó. Kỹ thuật truyền thông hiện đại đã giúp nhiều người trao đổi với nhau dù không gặp mặt. Các thông tin và ý kiến truyền từ người này qua người khác, tạo ra những cộng đồng chính trị ảo trong đó các công dân tự ý thức mình có quyền đòi thay đổi. Mọi người trong cộng đồng này biết rằng kỹ thuật thông tin mới sẽ khiến cho các chính quyền, ở bất cứ nước nào, khó nói dối trá, khó ăn cắp của công, và khó giết người, như những cảnh ai bị gọi tới đồn công an một, hai ngày là chết!

Bất cứ người Việt Nam, một đảng viên Cộng sản tỉnh táo nào, cũng phải thấy nếu không thay đổi thì quê hương sẽ tiếp tục chìm đắm trong cảnh nghèo thua kém các nước chung quanh, và chủ quyền đất nước mất dần vào tay ngoại bang. Các đảng viên không tự chuyển hóa phải thấy chính mình đang phản bội dân tộc! Một “chế độ thối nát nhất trong các chế độ đã có và hiện có” ở nước Việt Nam và trên mặt trái đất, nếu nó còn tiếp tục cầm quyền thì sẽ đưa đất nước về đâu?

Nhờ phương tiện thông tin mới, những người đã mất niềm tin vào dân tộc, mất niềm tin vào khả năng xây dựng lại quê hương bây giờ đang nuôi lại niềm tin, họ sẵn sàng đứng lên tự mình làm công việc thay đổi. Niềm tin đó có thể lan truyền trong giới thanh niên, giới trí thức, kể cả các đảng viên cộng sản. Nhờ thế, chính các đảng viên cũng sẽ muốn thay đổi. Làm sao họ có thể tiếp tục cúi đầu theo giáo sư Trọng “tiến lên chủ nghĩa xã hội” trong khi chính giáo sư từng nói rằng “đến hết thế kỷ này không biết đã có chủ nghĩa xã hội hoàn thiện ở Việt Nam hay chưa?”

Đó là mối đe dọa trên vận mạng của đảng Cộng sản mà ông Nguyễn Phú Trọng muốn chỉnh đốn. Nhưng ông không thể nào bịt mắt, bịt tai tất cả các đảng viên để mình ông độc thoại mãi mãi!



Người Việt

Với kim ngạch xuất khẩu liên tục tăng ở mức hai con số những năm qua, nền kinh tế Việt Nam được đánh giá có mức tăng trưởng khá, thế nhưng, giá trị thực chúng ta nhận được từ những con số này lại rất ít ỏi.

Dành quá nhiều ưu đãi thu hút các dự án FDI nhưng lại chưa có chính sách hợp lý phát triển những ngành kinh tế quan trọng trong nước, Việt Nam ngày càng lún sâu vào “bẫy” gia công giá trị thấp. Thực trạng này không chỉ ảnh hưởng đến lợi ích nhận được từ xuất khẩu mà còn làm trì trệ sự phát triển của các ngành công nghiệp hỗ trợ, vốn là “xương sống” để phát triển các ngành kinh tế khác.



Chúng ta nhận được bao nhiêu từ kim ngạch xuất khẩu tỉ đô?

Trong các lĩnh vực có kim ngạch xuất khẩu lớn nhất của nền kinh tế vài năm trở lại đây, có thể dễ dàng nhận ra phần lớn trong số đó đều là các ngành sản xuất mà Việt Nam chỉ giữ vai trò gia công, lắp ráp, điển hình như: sản xuất điện thoại, máy tính, dệt may, da giày… Đáng chú ý, dù là ngành nào, khối doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đều phát triển áp đảo. 

Ngoài các ngành ứng dụng công nghệ cao như sản xuất điện thoại, máy tính, máy ảnh… mà khối này gần như nắm độc quyền, một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực vốn là thế mạnh của Việt Nam như dệt may, da giày, đồ gỗ… kim ngạch xuất khẩu của khối này cũng chiếm từ 60%–70%.

Theo số liệu thống kê ngày 14-9-2016 của Tổng cục Hải quan, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu cả nước trong tám tháng năm 2016 đạt hơn 223,55 tỉ USD, tăng 3,3% so với cùng kỳ năm trước, trong đó, xuất khẩu đạt 113,21 tỉ USD và nhập khẩu là 110,34 tỉ USD.

Trong số này, kim ngạch của khối doanh nghiệp FDI chiếm hơn 64% với xuất khẩu đạt 78,97 tỉ USD và nhập khẩu là 64,97 tỉ USD.

Cán cân thương mại hàng hóa của khối này trong tám tháng thặng dư hơn 14 tỉ USD.






Trong khi đó, kim ngạch xuất nhập khẩu của khối doanh nghiệp trong nước chiếm tỷ lệ khá khiêm tốn với 79,61 tỉ USD; xuất khẩu đạt 34,24 tỉ USD và nhập khẩu 45,37 tỉ USD, cán cân thương mại thâm hụt đến 11,13 tỉ USD.

Có thể thấy, khối FDI đang phát triển áp đảo và đạt hiệu quả kinh tế, trong khi khu vực trong nước bị tụt lại và phát triển mờ nhạt. Theo thống kê những năm qua, khối FDI luôn chiếm hơn 60% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may, khoảng 65% kim ngạch xuất khẩu ngành da giày và hơn 50% ngành sản xuất đồ gỗ.

Thực trạng nhập siêu của Việt Nam cũng phản ánh giá trị thặng dư ít ỏi doanh nghiệp nội nhận được từ những con số xuất khẩu tỉ đô. Chọn hình thức gia công giá rẻ, nguồn nguyên liệu, máy móc phụ thuộc vào việc nhập khẩu, doanh nghiệp Việt đang chịu nhiều thiệt thòi trong cuộc cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài. 

Trong ngành dệt may, theo một đại diện của Hiệp hội Dệt may Việt Nam, chi phí nguyên phụ liệu để sản xuất nên một sản phẩm thường chiếm từ 65–70%, 30–35% còn lại dành cho sản xuất, đóng gói thành phẩm, tiếp thị, bán hàng. Vì thế, trong chuỗi giá trị của ngành này, giá trị gia tăng gia công mang lại cho doanh nghiệp trong nước chưa đến 10%. Đặc biệt, những năm gần đây, khi giá xuất khẩu gần như không tăng nhưng hàng loạt chi phí đầu vào đều tăng, lợi nhuận của doanh nghiệp trong nước ngày càng teo tóp.

Muốn có thêm giá trị gia tăng, các doanh nghiệp dệt may phải chuyển từ gia công như hiện nay sang FOB (tự chủ về nguyên liệu), trước khi phát triển lên các bậc cao hơn trong chuỗi giá trị như ODM (tự thiết kế, sản xuất) và thậm chí là OBM (làm tất cả các khâu sản xuất ra thành phẩm và tự phân phối). Thế nhưng, chỉ việc chuyển đổi sang FOB cũng không đơn giản, bởi khách hàng ngành da giày, dệt may đều mang tính chất toàn cầu và đã nằm trong chuỗi liên kết từ khâu thiết kế, nguyên phụ liệu đến xuất khẩu. Doanh nghiệp làm gia công muốn xen vào chuỗi này không dễ và thường phải mua nguyên liệu theo sự chỉ định của khách hàng.

Ở chiều ngược lại, theo ông Nguyễn Hồng Giang, Phó chủ tịch Hiệp hội Bông sợi Việt Nam, số lượng các doanh nghiệp dệt may trong nước đủ quy mô và khả năng liên kết chuỗi cung ứng nguyên phụ liệu để đáp ứng các đơn hàng lớn từ nước ngoài gần như chỉ đếm trên đầu ngón tay, thế nên việc khách hàng ngoại tin tưởng và thay thế doanh nghiệp Việt trong chuỗi liên kết của họ cũng cần phải mất một thời gian nữa. 

Bên cạnh đó, Việt Nam hiện chỉ mới đáp ứng được chưa tới 1% nhu cầu về bông, 30% nhu cầu xơ, dưới 20% nhu cầu về vải; hơn 70% nguyên phụ liệu hầu hết phải nhập khẩu; đến 85% doanh nghiệp dệt may nội địa làm gia công hầu hết là những doanh nghiệp vừa và nhỏ, khả năng vực dậy nền công nghiệp hỗ trợ để tăng tỷ lệ nội địa hóa và hưởng thuế suất ưu đãi từ TPP là rất khó.

Nhiều chuyên gia nhận định: dệt may sẽ là ngành hưởng lợi nhiều nhất khi các hiệp định thương mại tự do (FTA) được ký kết, thế nhưng nhiều doanh nghiệp trong nước đang đi thụt lùi vì sự cạnh tranh gay gắt từ các nhà đầu tư nước ngoài. Gần đây, để chiếm ưu thế trong cuộc chạy đua hưởng lợi từ TPP, làn sóng đầu tư FDI vào dệt may ngày càng gia tăng. Trong hai năm 2014 và 2015, các doanh nghiệp dệt may, kéo sợi từ Hàn Quốc, Đài Loan đã bắt đầu đẩy mạnh đầu tư vào Việt Nam với quy mô từ vài trăm triệu đến gần 2 tỉ USD để sản xuất nguyên liệu nhằm tận dụng ưu đãi thuế “từ sợi trở đi” mà TPP mang lại.

Từ đầu năm 2016 đến nay, dù làn sóng này có dấu hiệu chững lại nhưng các chuyên gia dự báo, xu thế này sẽ còn gia tăng sau khi kết thúc cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ. Trong khi đó, với tình trạng “nút thắt cổ chai” ở khâu dệt nhuộm của ngành dệt may, sự phụ thuộc gần như hoàn toàn vào máy móc, nguyên phụ liệu nhập khẩu ở các ngành điện tử, da giày… và thực trạng công nghiệp hỗ trợ “giậm chân tại chỗ” nhiều năm nay, các doanh nghiệp nội muốn có sự chủ động về nguồn nguyên phụ liệu, tạo thêm nhiều giá trị thặng dư cho nền kinh tế cũng sẽ khó thực hiện trong thời gian ngắn.

Hệ lụy từ kinh tế gia công

Không thể phủ nhận, sự cởi mở trong việc thu hút đầu tư FDI mang lại cho kinh tế Việt Nam một số lợi thế nhất định, đó là tạo công ăn việc làm quy mô lớn cho người lao động, dịch chuyển từ nền kinh tế nông nghiệp sang công nghiệp và sản xuất, đồng thời tăng mức đóng thuế cho ngân sách nhà nước, thế nhưng đi kèm với nó là những hệ lụy không hề nhỏ. Trước hết, lợi ích thực mà nền kinh tế Việt Nam nhận được đang ngày càng nhỏ dần đi do tình trạng gia công hóa nền kinh tế.

Theo các số liệu, tỷ lệ giá trị gia tăng so với giá trị sản xuất của nhóm ngành công nghiệp đã sụt giảm khá mạnh. Cụ thể, tỷ lệ này giảm từ 34,7% trong năm 2000 xuống còn 21,7% trong năm 2013. Điều này cho thấy, phần giá trị gia tăng của nhóm ngành công nghiệp mà nền kinh tế nhận được đang ngày càng nhỏ đi so với giai đoạn trước, nghĩa là, dù Việt Nam sản xuất nhiều hơn, xuất khẩu nhiều hơn và đạt tổng giá trị kim ngạch lớn hơn, nhưng phần mà Việt Nam nhận được ngày càng ít đi.

Đó là hậu quả khi nền kinh tế ngày càng tiến xa hơn trên con đường gia công hóa, tăng trưởng bằng cách sản xuất và xuất khẩu “giùm” các doanh nghiệp nước ngoài. Đây cũng là nguyên nhân khiến nhiều ngành kinh tế trong nước bị thui chột nặng nề, điển hình là ngành công nghiệp hỗ trợ, một lĩnh vực được kỳ vọng sẽ phát triển nhanh sau khi làn sóng đầu tư FDI đổ vào nền kinh tế Việt Nam thông qua chuyển giao công nghệ và cung ứng linh kiện cho các dự án này.

Theo quy hoạch, đến năm 2020, Việt Nam có khoảng 1.000 doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ đủ năng lực cung ứng cho các doanh nghiệp lắp ráp và tập đoàn đa quốc gia trên lãnh thổ Việt Nam. Tuy nhiên, tại diễn đàn Phát triển các ngành công nghiệp hỗ trợ thông qua cơ hội và lợi ích từ các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới bên lề Triển lãm Thiết bị, Công nghệ và Công nghiệp hỗ trợ cho ngành Chế tạo Điện tử (NEPCON Việt Nam 2016) diễn ra vào tháng 8 vừa qua, những con số thống kê cho thấy mục tiêu này là quá xa vời.

Cả nước hiện có 1.303 doanh nghiệp sản xuất linh kiện phụ tùng (trong đó linh kiện phụ tùng kim loại 556), thế nhưng phần lớn là các doanh nghiệp có quy mô nhỏ, trình độ kỹ thuật còn thấp; tỷ lệ sử dụng linh kiện trong nước của các nhà lắp ráp tại Việt Nam đối với công nghiệp công nghệ cao chỉ có 10%, sản xuất thiết bị ôtô 15–40%, tình trạng nhập siêu chiếm tỷ lệ lớn. Nếu tình trạng này tiếp diễn, doanh nghiệp trong nước dù đông cũng khó có những sản phẩm công nghiệp, cơ khí công nghệ cao đáp ứng thị trường trong nước, chưa nói đến việc tham gia thị trường thế giới.

Việc thu hút FDI, nếu tiếp tục một cách dễ dãi và dựa vào nguồn lao động giá rẻ, chẳng những không mang thêm giá trị gia tăng cho nền kinh tế mà còn thu hút công nghệ cũ kỹ, lạc hậu, gây ô nhiễm môi trường. Theo thống kê, 90–95% tổng số các dự án đầu tư FDI vào nền kinh tế Việt Nam trong thời gian qua là các dự án có công nghệ trung bình và công nghệ cũ, và chỉ có 5% là các dự án công nghệ cao.

Không có sản phẩm công nghiệp, sản phẩm công nghệ cao để thúc đẩy công nghiệp hỗ trợ, tình trạng gia công của nền kinh tế Việt Nam sẽ còn tiếp diễn và sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến sức cạnh tranh của doanh nghiệp Việt đối với khối ngoại.

Đứng trước những cơ hội và thách thức của quá trình hội nhập, Việt Nam phải xây dựng được những thương hiệu sản xuất có tầm cỡ quốc tế, đủ tiềm lực đảm nhận từ khâu thiết kế đến nguyên phụ liệu và bán thành phẩm thì mới có thể nâng cao giá trị sản xuất, tăng sức cạnh tranh, tạo thế đứng vững chắc trên thị trường. 

Sự khiếm khuyết của các chính sách và bước tiến chậm chạp của ngành công nghiệp trong nước là một lỗ hổng lớn cần phải bù đắp. Chúng ta có thể rút ngắn khoảng cách với các nước, biến công nghiệp Việt Nam từ phụ thuộc trở thành độc lập và tạo lực đẩy cho các ngành kinh tế hay không, câu trả lời ở những chính sách đúng đắn và nỗ lực từ hôm nay.



Theo Quốc Khánh/DNSGCT

Tôi xin tiết lộ với quý vị là Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB) cùng với một đối tác tư nhân Việt Nam cũng đang có kế hoạch xử lý mua lại một Ngân hàng Thương mại yếu kém (bị mua lại với giá 0 đồng) của Việt Nam và có thể giới thiệu cho những đối tác khác để hỗ trợ Việt Nam trong xử lý nợ xấu và các Ngân hàng thương mại yếu kém” – hầu như là lần đầu tiên từ khi nhậm chức thủ tướng, ông Nguyễn Xuân Phúc phát ra một thông tin có vẻ bất ngờ và hãnh diện trước rất nhiều đối tác quốc tế tại Diễn đàn Phát triển Việt Nam (VDF) 2016 vào tháng 12-2016.

Nếu từ năm 2013, Ngân hàng nhà nước và Chính phủ Việt Nam bắt đầu hô hào về một chiến dịch bán nợ xấu ngân hàng cho nước ngoài nhưng không hề đề cập đến việc bán ngân hàng trong nước cho quốc tế, thì nay lần đầu tiên được một thủ tướng xác nhận chính thức.

Những thông tin ngoài lề cho biết Thủ tướng VN muốn bán không chỉ 1 ngân hàng mà cả 3 ngân hàng trong nước, những địa chỉ đã bị Ngân hàng NN mua lại với giá 0 đồng vào năm 2015 và 2016.

Vì sao Chính phủ lại quyết định “nhả” ngân hàng trong nước cho nước ngoài vào thời điểm này?

Những quan hệ đen tối

Trong thực tế, hệ thống ngân hàng Việt Nam đã được coi như tiến bước vào chu kỳ phá sản từ năm 2014. Ngân hàng Xây Dựng có số lỗ lũy kế trước khi bị mua lại với giá 0 đồng là hơn 18.000 tỷ đồng. Vào tháng Bảy năm 2014, ba quan chức cao cấp của ngân hàng này đã bị khởi tố và bị bắt giam. Ở Ngân hàng Dầu khí toàn cầu (GP), số lỗ lũy kế cũng lên đến hơn 12.000 tỷ đồng. Chưa kể Ngân hàng Đại Dương của “tư sản đỏ” Hà Văn Thắm đã bị bắt…

Đến năm 2015, theo những tin tức đã từng được coi là “tuyệt mật” nhưng rút cục được công khai trên báo chí, nợ xấu của ba ngân hàng trên là hơn 20.000 tỷ đồng – một con số không cách gì trả nổi so với vốn điều lệ của ba ngân hàng chỉ vào khoảng 10.000 tỷ đồng.

Chính vào thời gian đó, bất chấp lối tuyên truyền một chiều về chiến dịch mua lại ngân hàng thương mại với giá 0 đồng của Ngân hàng nhà nước và được giới tuyên giáo trung ương nhiệt tình hỗ trợ, một tờ báo trong nước vẫn nhận định: “Rất khó nhận diện ngân hàng 0 đồng bởi nhiều ngân hàng không công bố số liệu và cũng chưa hẳn công bố chính xác.” Xét về mặt quy mô, hiện nay vẫn còn khoảng 11 ngân hàng có quy mô vốn điều lệ nhỏ hơn 5.000 tỷ đồng. Bề ngoài có thể “hào nhoáng” nhưng ẩn sâu trong đó là câu chuyện sở hữu chéo dẫn đến vốn ảo, cho vay “sân sau” với nền tảng nợ xấu lớn. Với bài học của ngân hàng mang vỏ bọc đẹp đẽ Ocean Bank, sẽ không ngạc nhiên khi một ngày đẹp trời nào đó có thêm một ngân hàng được đặt trong tình huống mua lại với giá 0 đồng tương tự”.

Năm 2015, việc Ngân hàng nhà nước quyết định mua lại các ngân hàng này với giá 0 đồng đã khiến nảy sinh mối nghi ngờ rất lớn về những quan hệ đen tối nào đó giữa Thống đốc Ng. Văn Bình với các ngân hàng được không cho phá sản, để sau này nhiều người lại muốn “hồi tố” về động cơ thật sự của ông Nguyễn Văn Bình, đặc biệt việc ông Bình luôn vận động và đã suýt dùng tiền ngân sách để “xử lý” các ngân hàng đã rơi vào tầm phá sản.

Không chỉ 3 ngân hàng được mua lại 0 đồng, một số ngân hàng thương mại nhỏ và cả ngân hàng nằm trong top đầu đã lọt vào “danh sách đen”. Chẳng hạn như Ngân hàng HD Bank là loại nhỏ, hay Ngân hàng Agribank thuộc loại lớn.



Trong khi đó, sau gần 3 năm hình thành nhưng hầu như không giải quyết được vấn đề gì về nợ xấu, Công ty quản lý tài sản các tổ chức tín dụng (VAMC) đành thúc thủ. Hàng loạt biện pháp xử lý nợ xấu lại được nêu ra, nhưng tất cả đều chỉ mang tính lý thuyết. Cho đến giờ, toàn bộ nợ xấu mà VAMC mua lại đều chỉ bằng… giấy.

Thực tế khốn quẫn là tỷ lệ nợ xấu thực ở một số ngân hàng nhỏ, cũng là những ngân hàng mà vào thời gian từ năm 2007 đến năm 2011 đã cho vay bạt mạng với lãi suất cắt cổ cùng hàng loạt vụ án ngân hàng, đang cực kỳ xấu, có nơi tỷ lệ nợ xấu chiếm đến hơn phân nửa tổng nợ cho vay.



Những cái xác vật vờ

Ngay sau Đại hội XII của đảng cầm quyền với di họa bắt nguồn từ nhiệm kỳ chính phủ trước, đã xuất hiện khá nhiều thông tin về tình trạng nợ xấu tăng đột biến tại nhiều ngân hàng thương mại. Nói cách khác, nếu như trước đây Ngân hàng NN tìm cách “phù phép” để đẩy các khoản nợ đặc biệt xấu và không thể thu hồi được lên những nhóm nợ cao hơn (có thể thu hồi), thì nay do chẳng có gì thu hồi được nên nợ xấu vẫn còn y nguyên và vẫn hàng ngày lãi mẹ đẻ lãi con, toàn bộ “công tác xử lý nợ xấu” của VAMC từ trước đến nay hầu như vô nghĩa.

Trong khi đó, ngân sách lại khốn quẫn và chẳng còn khoản kết dư nào để trút ra mua nợ xấu. Nếu có, chỉ có thể là một khoản nhỏ để dành để cứu những ngân hàng lớn có cổ phần chi phối của nhà nước, còn các ngân hàng nhỏ sẽ phải tự xoay sở. Đó là lý do mà việc “tái cơ cấu ngân hàng” sẽ có thể trở nên mạnh mẽ bất ngờ trong thời gian tới. Nếu trước đây đã từng có kế hoạch kéo giảm số lượng ngân hàng thương mại từ trên 30 tổ chức xuống còn khoảng 15 tổ chức, thì tới đây có nhiều khả năng chính phủ sẽ phải làm điều này mà không còn lối thoát nào khác.

Chính phủ không “nhả” cũng không được. Trong thực tế, một số ngân hàng chỉ còn là những cái xác vật vờ… Không thể khác, lý do chính mà Phó thủ tướng Vương Đình Huệ bắt buộc phải nói đến việc “thí điểm phá sản ngân hàng” vào kỳ họp Quốc hội cuối năm 2016 là tình trạng nợ xấu trong các ngân hàng thương mại đã hầu như vô phương cứu chữa. Nếu vào cuối năm 2014, con số nợ xấu thực đã lần đầu tiên được Thống đốc Bình thừa nhận là vào khoảng 500 ngàn tỷ đồng, thì đến nay con số này hẳn phải lên đến ít nhất 600 ngàn tỷ đồng, với tốc độ “tăng trưởng” đều đặn 60-80 ngàn tỷ đồng mỗi năm.

2016 đã vụt qua rất nhanh. Hơn hai chục tỷ USD nợ xấu lại móc xích với vài trăm tỷ USD nợ công. Tất cả vẫn bế tắc!

Bài học cho Thủ tướng Phúc

Dường như khi tuyên bố về việc nước ngoài sẽ mua ngân hàng trong nước, thủ tướng “cờ lờ mờ vờ” của Việt Nam có vẻ tự hào như trút được một gánh nặng đã đè lên vai ông quá lâu, đặc biệt trong một nhiệm kỳ chính phủ bị quá nhiều dư luận xem là “kẻ ăn ốc người đổ vỏ”.



Nhưng dường như Thủ tướng Phúc đã chẳng nhìn ra được một thực tế phũ phàng mà Ngân hàng nhà nước đã khoe khoang từ năm 2014 về “các tổ chức nước ngoài xếp hàng chờ mua nợ xấu của Việt Nam”: cho tới nay, toàn bộ 500 hồ sơ chào bán nợ xấu mà Công ty quản lý tài sản các tổ chức tín dụng (VAMC) gửi cho các tổ chức tài chính nước ngoài từ năm 2014 vẫn vô vọng, không có bất kỳ hồi âm chính thức nào. Nếu cả VAMC mà còn không thuyết phục nổi những doanh nghiệp cá mập trong nước “ôm” lại nợ xấu, sẽ chẳng một tập đoàn nước ngoài nào dại dột rước lấy “của nợ Việt Nam”.

Khi còn tại vị, TT Nguyễn Tấn Dũng cũng đã có một chuyến xuất ngoại đến Úc để “khuyến mãi” nước ngoài mua nợ xấu. Nhưng có vẻ gương mặt ông Dũng đã xạm hẳn khi Thủ tướng Tony Abbott không những không quan tâm đến lời chào mua nợ xấu mà còn tuyên bố thẳng tay cắt giảm viện trợ đối với VN. Đến giờ phút này, nợ xấu ngân hàng Việt Nam vẫn không khác gì một thể dịch hỗn tương của căn bệnh ung thư nửa mùa.

Tuyên bố “Tôi xin tiết lộ với quý vị…” của Thủ tướng Phúc lại được đưa ra trong bối cảnh Bộ Công an vừa bắt ông Trần Phương Bình của Ngân hàng Đông Á, tạm kết thúc một năm “đại hạn” cho “ngành kinh tế mũi nhọn” chỉ chăm bẳm mua thật thấp bán thật cao. Thời thế đã khác hẳn 5 năm trước khi lúc giới ngân hàng chỉ ngồi mát ăn bát vàng và đua nhau tung tác những cú đầu cơ lộn ruột xã hội.

Ngay cả lối thoát sang ADB cũng dễ kẹt đầu. Từ nhiều tháng qua, tổ chức tài chính bậc nhất châu Á này luôn “càm ràm” về nợ xấu và ngân hàng mà Thủ tướng Phúc muốn bán vẫn còn quá cao giá…

Một luật sư ở Sài Gòn cho biết rằng chưa bao giờ ông nhận được nhiều đơn đặt hàng về tư vấn phá sản ngân hàng như bây giờ… Tất cả đã quá muộn. Có lẽ chẳng bao lâu nữa, giới chủ ngân hàng sẽ phải khóc thét lên vì khối u nợ xấu phát nhiễm toàn thân khiến gây hại trầm kha cho “sự tồn vong của chế độ”.

Blog VOA
Tổng kết cuối năm 2016, báo chí dòng chính ở Việt Nam biện giải cho Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc về những thành quả khiêm tốn, khi phải tiếp nhận di sản kinh tế xã hội đầy khó khăn từ nhiệm kỳ trước.

8 sự kiện kinh tế - xã hội 2016

Trong 8 sự kiện kinh tế-xã hội năm 2016, báo mạng VnExpress đã có những bình chọn nổi bật nhiều sắc xám như: Tăng trưởng GDP không đạt mục tiêu; Thảm họa môi trường do Formosa xả thải; Nợ Chính phủ vượt trần; Nhiều lãnh đạo cấp cao bị kỷ luật trong vụ Trịnh Xuân Thanh và Bốn tháng 4 vụ máy bay quân sự bị rơi… Ba sự kiện được cho là tích cực bao gồm: Bầu nhân sự cấp cao, Tổng thống Mỹ Obama thăm Việt Nam và sau hết là ghi nhận Số doanh nghiệp mới thành lập nhiều kỷ lục.

Trả lời phỏng vấn nhanh của Nam Nguyên tối ngày 22-12-2016, nhà báo tự do blogger Huỳnh Ngọc Chênh, người được Tổ chức Phóng viên không biên giới trao giải Công dân mạng Thế giới năm 2013, từ Sài Gòn cho biết những đánh giá của riêng ông: Năm 2016, sự kiện quan trọng tác động đến xã hội đến đời sống người dân mạnh nhất vẫn là sự kiện Formosa xả chất thải hủy hoại môi trường cả vùng biển trên 300 km và để lại những tác động cho đến bây giờ vẫn chưa xử lý được. Và sự kiện thứ hai là lũ do hàng loạt thủy điện dọc theo dải đất miền Trung, khi làm thủy điện người ta phá rừng, phá hết rừng đầu nguồn, lợi dụng làm thủy điện để phá rừng và bản thân rừng cũng đã bị phá từ trước, gây ra lũ lụt mà càng ngày lũ càng lớn hơn những năm trước.



Hai sự sự việc này ghép lại tạo ra sự cộng hưởng tạo ra ảnh hưởng đến đời sống xã hội kinh tế của Việt Nam rất lớn. Chưa nói tới di họa để lại của những năm trước, hầu hết công ty quốc doanh lớn làm ăn đều thua lỗ, công ty tập đoàn nào cũng thua lỗ đến vài chục ngàn tỷ. Nói chung năm 2016 là một năm vô cùng khó khăn, từ tài chính cho đến môi trường, cho đến đời sống của người dân.

VnExpress, báo mạng dòng chính nhiều độc giả, cũng là tờ báo sớm nhất công bố 8 sự kiện kinh tế -xã hội năm 2016 từ ngày 21-12. Tờ báo đã dẫn nhập: Chính phủ mới ra mắt trong bối cảnh nhiều thách thức khi GDP nhiệm kỳ trước không đạt mục tiêu, nợ công tăng cao, nhiều tỉnh trải qua sự cố môi trường chưa từng có. Vẫn theo VnExpress, dù vậy, bức tranh kinh tếxã hội 2016 cũng ghi nhận những hứa hẹn bùng nổ khi số doanh nghiệp đăng ký mới đạt kỷ lục.

Trong cuộc phỏng vấn do Nam Nguyên thực hiện tối ngày 22-12-2016, Gs Vũ Văn Hóa, Phó Hiệu trưởng ĐH Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội nhận định: “Năm 2016 dồn dập xảy ra những sự cố rất bất lợi cho sự phát triển kinh tế của đất nước, sự kiện Formosa rồi thứ hai nữa là tình hình bão lụt miền Trung bây giờ vẫn chưa khắc phục xong… hết hạn hán rồi đến lũ lụt và For-mosa, nó đã kéo nền kinh tế vốn là lấy nông nghiệp làm trọng, việc không đạt chuẩn để phát triển như tỷ lệ mong muốn là đương nhiên thôi. Bởi vì một nền kinh tế thu nhập còn đang thấp, thì thiệt hại do thiên tai gây ra, tất nhiên nó ảnh hưởng rất nghiêm trọng đối với nền kinh tế VN

Thảm họa môi trường do Formosa xả thải được VnExpress xếp là sự kiện thứ tư trong 8 sự kiện kinh tế - xã hội năm 2016. Tờ báo mạng tóm tắt: lần đầu tiên trong lịch sử, VN đối diện thảm họa môi trường ảnh hưởng cuộc sống của hàng triệu người và 39.000 ngư dân 4 tỉnh Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, TT-Huế mất việc, tàu thuyền nằm bờ suốt 8 tháng, ngành khai thác thủy sản giảm 20% sản lượng.

VnExpress nhắc lại sự kiện chất thải của Công ty Gang thép Hưng nghiệp Formosa Hà Tĩnh đã hủy diệt hệ sinh thái một vùng đáy biển rộng lớn, Công ty này xin lỗi và bồi thường thiệt hại 500 triệu USD thông qua Chính phủ Việt Nam. Tờ báo mạng nhấn mạnh: bao giờ biển miền Trung phục hồi vẫn là câu hỏi nhức nhối chưa được giải đáp.

Thất vọng cách ch. phủ xử lý

Đáp câu hỏi đánh giá thế nào về phương cách chính phủ VN xử lý cuộc khủng hoảng môi trường biển miền Trung, nhà báo tự do Huỳnh Ngọc Chênh nhận định: “Tôi thấy cách làm của chính phủ có vẻ là để đối phó, dư luận và người dân đòi hỏi tới đâu thì đối phó tới đó. Ban đầu thì bưng bít, không cho biết nguyên nhân cá chết là do Formo-sa, điều tra một thời gian hơi lâu rồi bàn tính với nhau mới công khai chuyện cá chết là từ Formosa, trong khi người dân ai cũng biết chắc là do Formosa xả thải. Ngay cái nguyên nhân cũng đã có dấu hiệu của bưng bít, rồi sau không còn chối cãi nữa, thì mới công nhận do Formosa gây ra thảm họa này và vẫn bưng bít tác hại lớn của thảm họa bằng cách cho cán bộ địa phương này, điạ phương khác xuống tắm biển, ăn cá ngay trong lúc cá đang bị nhiễm độc rồi bảo rằng có thể ăn cá được. Đó là một cách đối phó và gây nguy hiểm cho nhân dân…”

Nhà báo tự do Huỳnh Ngọc Chênh nhắc lại sự kiện mà ông mô tả là chính phủ đi đêm, thảo thuận riêng với Formosa nhận cho Formo-sa chỉ đền bù 500 triệu USD, trong khi thiệt hại gây ra lên tới hàng tỷ USD. Ông Chênh tiếp lời: “Chuyện Nhà nước đứng ra nhận đền bù thiệt hại đó là việc làm không đúng, nó phải là vụ kiện dân sự giữa người dân với lại Formosa. Thiệt hại phải do người dân đứng ra kiện và tòa án độc lập xử lý chuyện này, để đưa ra mức đền bù thỏa đáng theo yêu cầu của người dân. Nhà nước chỉ có thể khởi tố Formosa về vấn đề hình sự khi họ đã làm một chuyện phi pháp như vậy. Nhà nước không thể đưa ra mức đền bù 500 triệu USD vừa rồi mà đến bây giờ nhiều người dân, nạn nhân của Formosa vẫn chưa nhận được số tiền đền bù.

Phục vụ thay vì quản lý?

Trong số những đánh giá có sắc hồng hiếm hoi mà VnExpress bình chọn, tờ báo mạng ghi nhận Chính phủ nhiệm kỳ mới ngay lập tức phải đối mặt với các khó khăn kinh tế; xử lý những sự cố môi trường lớn chưa từng có… Tuy vậy, Chính phủ đã đẩy mạnh cải cách thể chế, cải thiện môi trường kinh doanh, bãi bỏ hàng loạt giấy phép con và về điều mà ban biên tập VnExpress mô tả là tạo hành lang pháp lý thúc đẩy bộ máy chuyển động mạnh mẽ theo hướng từ quản lý sang phục vụ.

Giáo sư Vũ Văn Hóa, Phó Hiệu trưởng Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội nhận định:

Đánh giá chung, hành động đặt ra một chiến lược rất kiên quyết, vấn đề chấn chỉnh lại lề lối làm việc, thúc đẩy sự phát triển của doanh nghiệp và khuyến khích các doanh nghiệp, đặc biệt các doanh nghiệp vừa và nhỏ thì đấy là những biện pháp rất tốt. Tuy nhiên kế hoạch cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, theo tôi vẫn còn chưa có ý kiến quyết đoán về vấn đề này. Bởi vì ở đây phía doanh nghiệp nhà nước vẫn còn số vốn rất lớn nằm trong đó nhưng hiệu quả không có.

Vì vậy tất cả những người am hiểu về kinh tế đều mong muốn chính phủ có động thái kiên quyết hơn, làm thế nào đó trong một thời gian ngắn có thể là đến hết năm 2017 sang đầu năm 2018 có thể cổ phần đại bộ phận các doanh nghiệp nhà nước và NN chỉ giữ lại những doanh nghiệp tối cần thiết… Thực hiện được như vậy sự chuyển biến các doanh nghiệp sẽ nhiều hơn”.

Giáo sư Vũ Văn Hóa đề cập tới điểm thứ hai mà ông lưu ý Chính phủ về sự tiếp vốn hiệu quả của ngân hàng cho doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Vấn đề này theo lời ông, sẽ là trợ lực rất tích cực cho nền kinh tế.

Đối với vấn đề “Nợ Chính phủ vượt trần” mà VnExpress ghi nhận như một trong 8 sự kiện kinh tế - xã hội năm 2016 ở Việt Nam. Tờ báo mạng nhắc lại việc nợ chính phủ đã vượt trần 50% GDP trong năm 2015. Đến cuối năm 2016, tỷ lệ nợ Chính phủ tiếp tục tăng lên mức 53,2% GDP, buộc Chính phủ phải xin Quốc hội nới trần nợ công giai đoạn 2016-2020 và được chấp thuận ở mức 54% GDP.

Đối với gánh nặng nợ nợ công của Việt Nam nói chung, TS Lê Đăng Doanh nguyên Viện trưởng Viện Quản lý Kinh tế Trung ương ở Hà Nội, đã từng nhiều lần báo động:



Mất cân đối ngân sách rất là nghiêm trọng và chi tiêu thường xuyên của bộ máy quá cồng kềnh, trùng lắp chiếm tới 70% tổng số chi ngân sách và số nợ công tăng lên. Mặc dù Bộ Tài chính liên tục công bố là nợ công vẫn an toàn nhưng nhiều người lấy làm lo ngại là chính phủ vay quá nhiều, vượt số nợ công đã công bố rất nhiều, vì vậy câu hỏi đặt ra là vay nhiều như thế để trả khoản nợ nào và trả như thế nào mà gánh nặng trả nợ ấy ngày càng tăng lên.

Khi ghi danh vấn đề nợ Chính phủ vượt trần xếp hàng thứ 5 trong 8 sự kiện kinh tế - xã hội năm 2016 ở VN, VnExpress ghi nhận: tăng vay nợ của Chính phủ năm 2016 chủ yếu nhằm bù bội chi ngân sách, cần tiền trả nợ công, chi đầu tư phát triển cũng như bảo lãnh các tổ chức, doanh nghiệp Nhà nước vay…

Tờ báo sau cùng khuyến cáo: trong bối cảnh gánh nặng trả nợ gia tăng cùng với việc tái cơ cấu thời hạn vay, vấn đề kỷ luật chi tiêu, đầu tư được đặt ra mạnh mẽ nhằm đảm bảo an ninh, nguồn lực tài chính cho VN trung và dài hạn.

Vào mùa Đông năm nay, chế độ chuyên chính cộng sản Hà Nội bị bất ngờ rơi vào tình huống mất kiểm soát trước tin sẽ có đổi tiền. Đích danh người cầm đầu chính phủ bác bỏ điều ông gọi là“tin đồn bịa đặt”. Và ra lệnh công an điều tra. Nhưng chính ông Phúc cũng thừa nhận tin bịa đăt lại có sức làm “ảnh hưởng môi trường đầu tư, kinh tế vĩ mô nước ta”[1]. Dân chúng xôn xao đổ đi mua vàng và Mỹ kim, làm cho thị trường tài chính biến động, tiền tệ đột ngột mất giá. Nhu yếu phẩm và xăng dầu tăng giá vào thời điểm Tết nguyên đán cận kề. Giới chuyên gia tài chính nhìn từ bên ngoài thì thấy “khả năng ứng phó của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Việt Nam có vấn đề”. Còn NHNN và chuyên gia tài chánh vội đưa ra lời kêu gọi dân chúng nên “bình tĩnh”. Vì nền tài chánh Việt Nam “chưa đến nỗi”lâm vào tình cảnh phải đổi tiền lúc này.

Bất chấp lời kêu gọi “bình tĩnh” và bác bỏ việc “đổi tiền” ít nhất 6 lần của giới thẩm quyền, dân chúng tiếp tục đổ xô đi mua Mỹ kim, vàng, làm cho thị trường xáo trộn; đồng bạc Việt Nam mất giá, thị trường tài chánh, tiền tệ giao động mạnh trước Lễ Giáng Sinh.

Vật giá leo thang, kể cả xăng dầu cũng tăng gần 919 đồng mỗi lít, trong lúc giá xăng thế giới giảm! [2] Năm ngoái, 2015 Việt Nam tiêu thụ 19.477.500.000 lít xăng. Tính từ đầu năm đến nay, giá xăng đã tăng 12 lần với tổng cộng hơn 6.000 đồng/lít, 9 lần giảm với tổng cộng gần 5.000 đồng/lít và 2 lần giữ nguyên giá. Trước khi xăng tăng giá, người tiêu thụ phải chịu khoảng 8.800 đồng thuế và phí. Vậy 19.477.500.000 lít * 8.800$ = 171.402 tỷ đồng tương đượng 7,5 tỷ Mỹ kim. Nay đảng CS cho tăng giá sẽ thu về một số tiền rất lớn.

Chuyên gia độc lập và các bà nội trợ ước tính mức mất giá của đồng Việt Nam có thể lên đến 30% nội trong năm 2016.

Vào dịp thị trường biến động, một Mỹ kim có lúc đã lên đến 23.350$ [3]. Năm 1990, mỗi Mỹ kim có tỷ giá 6.482$80 [4]. So với 26 năm trước, tiền đồng Việt Nam đã mất giá gần 360%.

Hôm 14 tháng 12, Cục Dự trữ Liên bang Hoa Kỳ (Federal Reserve System = Fed) tăng lãi xuất cơ bản thêm 0,25%, tức 0,75%. Fed dự báo sẽ có 3 đợt tăng lãi suất trong năm 2017 sắp tới, mỗi lần tăng 0,25%. Đến năm 2018 lãi suất liên bang sẽ ở mức 2,125%. 

Ngay sau khi Fed tăng lãi suất, NHNN cho tăng thêm 11$ trên mỗi Mỹ kim, nhưng thị trường chợ đen đã tăng thêm gấp 7 lần. Các chuyên gia ước tính: tiền đồng Việt Nam có thể mất giá thêm từ 2% đến 3%, tức là vào khoảng 23.500 đến 24.000 đồng cho một Mỹ kim.

Cùng dịp này, ông Nguyễn xuân Phúc, nhân danh Thủ tướng Việt Cộng có cuộc điện đàm chúc mừng Tổng thống đắc cử Hoa Kỳ, tỷ phú Donald Trump. Hai bên thảo luận về những biện pháp để thúc đẩy mối quan hệ kinh tế, thương mại và đầu tư. Tuy nhiên, tin tức nói những đề nghị về trao đổi thương mại từ phía ông Trump đi ngược với lợi ích của cộng sản Hà Nội. (BBC)

Tổng thống đắc cử ông Donald Trump, còn chờ nhậm chức, đã gọi TPP là “thảm họa tiềm tàng cho nước Mỹ”, và lên tiếng đòi “xóa bỏ” Hiệp định này, dù đã được chính phủ Obama thương thảo và ký kết với 11 nước khác nhằm hỗ trợ cho chiến lược chuyển trục của Hoa Kỳ sang khu vực Thái Bình Dương. Hà Nội từng đặt hy vọng rất lớn vào Hiệp định TPP để vực dậy nền kinh tế. Nay thì gió đã đổi chiều!



Trong 9 tháng qua, nhà cầm quyền Hà Nội đã tung ra 250 ngàn tỷ để mua vào 11 tỷ Mỹ kim, nói là để “nâng mức an toàn dự trữ ngoại tệ lên 40 tỷ Mỹ kim” [5]. Động thái này đưa đến tình trạng Mỹ kim khan hiếm, còn các ngân hàng thương mại (NHTM) lại quá dư tiền đồng; đến nỗi các NHTM đang buộc phải giảm lãi suất cho vay để đẩy tín dụng ra lưu thông, bất chấp nợ khó thu hồi sẽ tăng mạnh hơn và biến thành nợ xấu. Hậu quả là khối NHTM mau đi vào khủng hoảng, không thể cứu chữa.

Năm 2016, cộng sản Hà Nội hy vọng nhận được 12 tỷ Mỹ kim từ mọi nơi ngoài Việt Nam gởi về, thường được gọi là kiều hối, nhưng thực tế chỉ có 9 tỷ thôi.

Khi Mỹ kim thiếu hụt, thì giá phải leo thang, NHNN là công cụ của chế độ chính trị độc tôn, phải chờ lệnh Bộ Chính trị, không thể tự mình áp dụng biện pháp “điều tiết tỷ giá” vào lúc thị trường biến động, chỉ dám đưa ra những tuyên bố suông. Các sự kiện này càng làm cho dân chúng tin rằng quỹ ngoại hối của NHNN đang thực sự thiếu minh bạch. Và đây là “nguồn sống” cho tin đổi tiền tiếp tục loan truyền mạnh mẽ.

Rất có thể, đảng CSVN muốn cứu thị trường bất động sản do nhóm đảng viên cao cấp “có phần” từ Bắc chí Nam vẫn tồn kho vài ba chục ngàn căn hộ cùng đất nền bao la, nên Hà Nội tung tiền đồng ra mua Mỹ kim, tạo tình trạng khan hiếm Mỹ kim, dư tiền đồng, khiến cho dân chúng sợ có đổi tiền, gom tiền đồng dồn vào mua địa ốc, như đang thấy hiện tượng xôn xao “ôm đất thì đất còn, chứ giữ tiền thì có thể mất, nếu có đổi tiền”. 

Qua 3 lần đổi tiền ở Việt Nam từ sau 1975, lần nào chế độ cũng công khai lừa dân chúng: ban tối, các đài phát thanh còn quả quyết “không có đổi tiền”. Nhưng đến quá nửa khuya, lệnh giới nghiêm toàn quốc được áp dụng đồng thời với việc đổi tiền, vào các lần: ngày 20 tháng 9 năm 1975; ngày 03 tháng 05 năm 1978 và ngày 14 tháng 09 năm 1985. Cả ba lần đổi tiền, là ba lần chế độ “nặn cạn hầu bao” của từng người dân.

Ở Việt Nam, tuy chế độ không công bố chính thức đặt giá trị đồng tiền của mình với Mỹ kim [6], như là chính sách “ngoại tệ bản vị”. Nhưng trên thương trường, cũng như tâm lý rất phổ biến đã thành nếp sống, đồng Mỹ kim là khí cụ vạn năng trong sinh hoạt kinh tế; có thể tiêu dùng nhiều nơi trên thế giới, giá trị như vàng, để dành không lo mất giá, nên dân chúng muốn giữ vàng hoặc Mỹ kim. Nhiều năm qua, giá Mỹ kim tăng cao hơn lãi xuất tiết kiệm gởi trong ngân hàng thương mại ít nhất 2%.



Có nhiều khuynh hướng khác nhau trong tin đồn đổi tiền: Chuyên gia tài chánh trong nước, hoạt động độc lập, Tiến sỹ Nguyễn trí Hiếu cho rằng: “Mọi người nên bình tĩnh trước tin đồn vì hiện tại không thấy có căn cứ hoặc dấu hiệu nào khiến chính phủ Việt Nam phải tính đến việc đổi tiền”. Tuy vậy, ông cũng nhấn mạnh: “Việt Nam đang chịu áp lực từ bên ngoài và bên trong về tỷ giá”. Muốn giảm thiểu những tin đồn liên quan đến chính sách tiền tệ, ông Hiếu cho rằng “NHNN cần cung cấp thông tin chính thức về vốn tự có của những ngân hàng bị mua với giá zero đồng, cũng như tìm cách giải quyết dứt điểm vấn đề nợ xấu, sở hữu chéo, đầu tư chéo của các ngân hàng.

Chuyên gia tài chính Nguyễn Văn Phú, từ Đại học Strasbourg, Pháp nói với BBC: “Tin đồn đổi tiền sẽ có tác động tiêu cực lên kinh tế Việt Nam, gây thiệt hại cho cả doanh nghiệp lẫn chế độ. Trước mắt là sẽ gây khó khăn cho việc điều tiết chính sách tiền tệ của NHNN. Tuy nhiên việc để biến động tỷ giá giữa tiền đồng và Mỹ kim như hiện nay cho thấy khả năng ứng phó của NHNN là có vấn đề.”



Cho đến lúc kết thúc bài này (15-12), công an Hà Nội đã loan báo bắt được hai thanh niên, một ở Lâm Đồng, một ở Đồng Nai, là nghi can tung tin đổi tiền (?). Ngoài ra, dân chúng cũng thấy 9 chiếc xe container vận tải bịt kín xuống hàng tại trụ sở NHNN chi nhánh Sài Gòn. Những người chứng kiến sự việc đều cho là các xe này cung cấp tiền mới cho kế hoạch đổi tiền.

Có thể Hà Nội đã sẵn sàng kế hoạch đổi tiền, chỉ chờ thời cơ thuận tiện là “ra tay” như các lần trước. Nhưng đổi tiền diễn ra vào dịp trước Tết có thể chưa phải lúc, vì lạm phát đang còn dưới 10%. Hơn nữa, cao trào giận dữ trong dân chúng đang lên rất nhanh. Hậu họa Formosa vẫn còn nguyên. Nạn nhân Formosa còn đang biểu tình khắp nơi đòi đền bù công bằng, và buộc Formosa phải rời khỏi Việt Nam. 

Chuẩn bị cho một chiến dịch đàn áp nạn nhân Formosa, Hà Nội đã đưa sư đoàn 324, đơn vị từng có thành tích đàn áp giáo dân, mở cuộc tập trận bắn đạn thật, với chiến thuật “vượt sông” [7] có phi pháo yểm trợ; với kịch bản đánh vào khu vực thành phố Vinh, nơi có Tòa Giám mục Giáo phận Vinh, ở Xã Đoài (?), để sẵn sàng lập lại lịch sử đàn áp đẫm máu như biến cố Quỳnh Lưu khởi nghĩa 60 năm trước (1956). 

Lần này, cũng đường xưa xóm cũ, nhưng người đã mới, lại thêm cách mạng tin học rất tân tiến hỗ trợ. Bên kia, cũng đơn vị từng nhuốm máu đồng bào với kỹ thuật tác chiến mới, nhân lực mới ra lò. Hai bên đang gờm nhau. Năm xưa kẻ tàn ngược thành công bằng che đậy, lọc lừa. Nay thời cơ đã khác: kỹ thuật tin học sẽ lột trần tính tàn ác của chế độ. Cho nên, kẻ có súng chưa chắc đã ăn người tay không như năm cũ!

Nếu đảng CSVN toan tính, thì dân chúng cũng chẳng ngồi yên. Mùa Tết năm nay, mới chỉ một đòn tin đồn “đổi tiền”, cả chế độ đã phải chịu đựng những ngày vật vã để níu kéo cơ chế gian manh, tàn ngược từng ngày trong cảnh tiết trời đột ngột đổi thay khó đoán. Biểu tượng của đất, trời cũng là phản ảnh lòng người Dân Việt, mà đai diện là các nhóm rải rác khắp nước, mang trong tim tđẩy chế độ cộng sản Hà Nội vào những tình huống bất ngờ. 

danlambaovn.blogspot.com


Hôm 24-12-2016, báo chí đồng loạt đưa thông tin “sét đánh” đối với các hãng hàng không Việt Nam (HKVN): “Phải nghiên cứu báo cáo với nhà chức trách HKVN (Cục HKVN) phương án chuyển các máy bay đỗ lại ban đêm ở Tân Sơn Nhất (TSN) về sân bay Cần Thơ vào ngày 30-1-2017”.

Ai có chút hiểu biết về ngành HKVN sẽ thấy đây là một đòn trí mạng chưa từng có giáng vào các hãng hàng không (HK), vì phải đối mặt với nguy cơ không an toàn, thiệt hại kinh tế vô cùng lớn, ô nhiễm môi trường, giảm khả năng cạnh tranh với các đối tác nước ngoài.

Sân bay Cần Thơ tuy chỉ cách Tân Sơn Nhất hơn 100 km nhưng là quãng đường rất nguy hiểm do máy bay phải thực hiện thêm bốn lần hạ, cất cánh vô ích. Với máy bay cỡ A320 thì vừa cất cánh lại chuẩn bị hạ cánh. Hoạt động hàng không khó nhất là ở công đoạn hạ, cất cánh; hầu hết tai nạn, hư hỏng, ngốn xăng dầu, tạo ra tiếng ồn lớn nhất, gây ô nhiễm là ở giai đọan này. Một máy bay thương mại phải khai thác liên tục để tăng hiệu quả và trơn tru trang thiết bị, tăng an toàn. Khi chuyến bay hạ cánh là lập tức công nhân phải dọn dẹp vệ sinh, thay bố lót ghế, hút bụi, tẩy trùng, nhân viên kỹ thuật kiểm tra, bảo dưỡng, nạp nhiên liệu… để thực hiện chuyến bay kế tiếp. Vậy máy bay đỗ ở Cần Thơ thì nhân viên, dịch vụ kỹ thuật, trang thiết bị chuyên dùng ở đâu? Khi máy bay trở lại TSN thì về nguyên tắc vẫn phải kiểm tra, chăm sóc kỹ thuật, kiểm tra an ninh sau chuyến bay… Nói chung là cực kỳ phức tạp, tốn kém mà không có nước nào làm như vậy.

Thiệt hại quá lớn về kinh tế, thời gian, các hãng HKVN sẽ càng yếu thế trong việc cạnh tranh khốc liệt với các hãng nước ngoài bay cùng đường bay với mình – Một rắc rối quá vô lý với các hãng HKVN mà họ không thể tránh khỏi vì TSN đã quá tải sân đỗ. Dù không có trách nhiệm bao nhiêu trong việc TSN bị tắc nghẽn khai thác một cách oan ức, nhưng cứ nghĩ đến điều này là tôi cảm thấy bực bội và nhục nhã vì sự thiệt hại cho các hãng HKVN quá phi lý.

TSN là một cảng hàng không, cửa ngõ lớn nhất VN, hơn 60% khách đầu tư, du lịch, thương mại, giao lưu… trong nước và quốc tế thông qua cảng hàng không này.

Thế nhưng, với diện tích hiện tại 1.150 ha, ngang cảng HK Check Lap Kok của Hongkong (1.200 ha) trong khi Check Lap Kok đang khai thác 45 triệu khách/năm và có thể đáp ứng mọi nhu cầu thị trường (70-80 triệu khách/năm), thì từ 10 năm trở lại đây, TSN luôn hoạt động trong cảnh khốn quẫn do thiếu các công trình hạ tầng như sân đỗ máy bay, chỗ đỗ xe ô tô… Không thể tính hết đã có bao nhiêu chuyến bay phải bay vòng vèo trên không chờ chỗ đỗ gây uy hiếp an toàn tốn nhiên liệu, ô nhiễm môi trường. Đã có bao nhiêu hãng HK nước ngoài muốn transit hoặc lập căn cứ trung chuyển ở đây nhưng phải từ bỏ?

Vì đâu?


Đó là do một số đại gia, lãnh đạo của quân đội coi sân bay Tân Sơn Nhất là của họ, không cho phép dùng đất dự trữ, nhàn rỗi để mở rộng sân bay vì sự phát triển của đất nước. Trắng trợn hơn, họ còn dùng 157,6 ha đất vàng ở đây (nếu tính giá thị trường ở khu vực hiện nay 50 triệu đ/m2 thì 157,6 ha đất đó có giá trị 78.800 tỷ VNĐ) để làm sân golf, nhà hàng, khách sạn, chung cư… kinh doanh như thách thức tất cả những ai có trách nhiệm với nước, với dân. Cũng không loại trừ khả năng họ cố ý bóp nghẹt sự phát triển sân bay TSN để buộc nhà nước phải sớm chuyển HK dân dụng về Long Thành, dành lại khu đất vàng này cho họ với lèo tèo vài chuyến bay quân sự nhưng chiếm cả hơn ngàn ha…

Ngay từ cuối năm 2007, khi TSN quá tải sân đỗ, ngành HKVN đã đề nghị và được ông nguyên thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đồng ý ngành HK dân dụng quy hoạch sang phía quân sự 30 ha đất dự trữ (với bất cứ sân bay nào cũng phải có diện tích dự trữ để đáp ứng nhu cầu trăng trưởng hạ tầng và tĩnh không) để làm 30 chỗ đỗ máy bay, nhưng phía quân đội “không thỏa thuận”. Ông Dũng nhượng bộ rồi âm thầm cho phép quân đội lấy đất làm các công trình thương mại. Khi sự việc “rò rỉ”, các đại biểu Quốc hội chất vấn, ông thủ tướng và đại gia chủ đầu tư đưa ra lời hứa: “Nếu khi nào nhà nước cần lấy đất (157,6 ha) thì không phải bồi thường cho doanh nghiệp”!

Thật là một sự vô pháp luật, xúc phạm thô bạo đối với nhân dân!

Sao có thể đánh đổi được những đồng tiền đền bù với việc dùng tài sản quốc gia vào mục đích riêng và cản trở sự phát triển của đất nước? Lấy đất nhà nước phục vụ cá nhân sai pháp luật, đã không trả lại, mà còn tính đến chuyện đòi hay không đòi bồi thường! Sau khi bị dư luận, đại biểu quốc hội, hội đồng nhân dân thành phố HCM, nhân sĩ, trí thức phản đối, năm 2009 xuất hiện quyết định 1946/2009/TTg quy định quy hoạch sân golf đến năm 2020 của chính phủ trong đó khoản d, mục 2 (quan điểm) nói rõ dứt khoát: “không được xây dựng sân golf trên đất lúa, màu… khu đô thị”, nhưng lại “gài” vào khoản c điểm 4 (tiêu chí xây dựng): “…quy hoạch sân golf CHỦ YẾU ở vùng trung du, miền núi…”. Tức là vẫn có ngoại lệ, và cái ngoại lệ ấy là TSN, Gia Lâm –hai khu đất vàng trong trung tâm thành phố– và phần lớn đất dự trữ các sân bay này đã được “hy sinh quên mình” phục vụ một số đại gia, tướng, tá.

Đây là vụ sử dụng đất đai nhà nước sai mục đích gây tai họa cho đất nước. Nhưng tại sao sự phi lý ấy vẫn tồn tại? Vậy ở VN ai đang làm chủ? Đảng CS hay mấy đại gia trong lực lượng vũ trang?

N.Đ.A.

Tác giả gửi BVN



Quốc hội Mỹ ngày 8-12 thông qua một dự luật nhân quyền ‘bước ngoặt’ nhắm vào các cá nhân vi phạm nhân quyền và các giới chức tham nhũng trên toàn cầu. Luật Magnitsky quy trách nhiệm nhân quyền toàn cầu do TNS John McCain và Ben Cardin giới thiệu tại Thượng viện được thông qua chưa tới một tuần sau khi dự luật tương tự do dân biểu Chris Smith và Jim Mc Govern ra mắt tại Hạ viện được chuẩn thuận với tỷ lệ áp đảo.

Giới hoạt động nhân quyền xem đây là một thành công lớn, một trợ lực quan trọng cho công cuộc cổ súy dân chủ-nhân quyền tại các nước lâu nay bị chỉ trích vi phạm nhân quyền như Việt Nam.

Tiến sĩ Nguyễn Đình Thắng, một trong những nhà hoạt động trong 6 năm qua đã tích cực vận động cho dự luật này được thông qua Quốc hội Mỹ, chia sẻ với VOA Việt ngữ về nội dung và ảnh hưởng của dự luật trừng trị các cá nhân vi phạm nhân quyền trên thế giới đang chờ được Tổng thống ký ban hành, dự kiến trước cuối năm nay.

TS Nguyễn Đình Thắng: Luật này được thông qua ở Hạ lẫn Thượng viện với tỷ số quá bán 2/3, cho nên nếu bị Tổng thống phủ quyết, Quốc hội có thể phủ nhận phủ quyết đó rồi bỏ phiếu lại, cuối cùng cũng phải thông qua. Thứ hai, luật này kèm trong luật chi ngân sách quốc phòng trên 600 tỷ Mỹ. Cho nên, nếu phủ quyết luật này thì các chương trình quốc phòng sẽ bị đình trệ.

VOA: Tầm quan trọng của luật này ra sao?

TS Nguyễn Đình Thắng: Rất quan trọng vì nó hoàn toàn là phương thức mới trong việc chế tài. Trước đây, việc chế tài gắn vào cả quốc gia, nên các nước, kể cả Hoa Kỳ, rất ngần ngại. Chế tài cả quốc gia khó khăn, ảnh hưởng nhiều chính sách khác như hợp tác quốc phòng hay mậu dịch v.v… Ngoài ra, còn có quan ngại rằng chính người dân bị đàn áp ở quốc gia bị chế tài lại chịu ảnh hưởng nhiều hơn trong khi kẻ vi phạm lại phây phây. Bây giờ, luật chế tài này nhắm trực tiếp từng cá nhân các giới chức chính quyền vi phạm nhân quyền trầm trọng.

VOA: Những biện pháp chế tài thấy rõ nhất trong luật này?

TS Nguyễn Đình Thắng: Gồm hai điểm chính. Thứ nhất, cấm nhập cảnh Hoa Kỳ kể cả đi công vụ. Nếu muốn được bãi miễn lệnh cấm này thì Tổng thống phải có sự bãi miễn đặc biệt và phải giải thích với Quốc hội. Thứ hai, chính phủ Mỹ đóng băng tất cả các tài sản của những cá nhân vi phạm nhân quyền, cho dù họ che giấu bằng bất kỳ hình thức nào hay gửi gắm ai đứng tên. Vì sao? Vì trong rất nhiều các nước độc tài, kẻ vi phạm nhân quyền cũng chính là những tay tham nhũng lớn, giấu của cải ở các nước phương Tây. Quan trọng hơn, luật áp dụng với tất cả các loại nhân quyền được quốc tế công nhận. Theo luật này, những người cưỡng đoạt tài sản của nhân dân cũng bị xem là những kẻ vi phạm nhân quyền trầm trọng. Chúng ta biết rằng tình trạng dân oan bị mất đất ở Việt Nam rất phổ biến. Thứ ba, những giới chức tham nhũng mà đi trừng trị những người tố cáo tham nhũng cũng bị xem là vi phạm nhân quyền trầm trọng.

VOA: Những kẻ vi phạm đó làm thế nào lọt vào danh sách chế tài?

TS Nguyễn Đình Thắng: Con đường thứ nhất, một số Ủy ban của Hạ và Thượng viện Hoa Kỳ có quyền đề cử danh sách lên Tổng thống. Tổng thống có 120 ngày để ra quyết định chế tài hay không. Nếu Tổng thống từ chối không chế tài thì phải giải thích cho Quốc hội biết lý do. Vai trò của xã hội dân sự trong vấn đề này rất quan trọng, vì các tổ chức theo dõi nhân quyền trên thế giới cũng có quyền đóng góp ý kiến cho Quốc hội và cho hành pháp Mỹ. Con đường thứ hai, khâu phụ trách Lao động-Nhân quyền-Dân chủ trong Bộ Ngoại giao Mỹ cũng có quyền nộp danh sách lên Tòa Bạch Ốc đề nghị chế tài.

VOA: Mối quan hệ Việt-Mỹ lâu nay dựa trên nền tảng nhân quyền làm điều kiện tiên quyết. Luật này ra đời, quan hệ Việt-Mỹ có thể bị tác động thế nào?

TS Nguyễn Đình Thắng: Chắc chắn sẽ bị ảnh hưởng. Ngay cả khi hành pháp Mỹ muốn che chắn bớt cho chính phủ VN vì những lợi ích khác ngoài nhân quyền thì cũng sẽ khó hơn. Khi Quốc hội Mỹ có hồ sơ rõ ràng rằng những giới chức này đã vi phạm nhân quyền trầm trọng theo đúng định nghĩa của luật thì rất khó để bên hành pháp có thể lờ đi.

VOA: Liệu luật này sẽ làm mối quan hệ Việt-Mỹ chùn lại hay là chất xúc tác để thăng tiến hơn?

TS Nguyễn Đình Thắng: Trên nguyên tắc, nó không ảnh hưởng mọi vấn đề đối tác về quốc phòng, mậu dịch, viện trợ v.v... Thế nhưng khi các giới chức lãnh đạo Việt Nam nằm trong danh sách chế tài này không qua được Mỹ để công vụ thì sẽ là một sự lúng túng ngoại giao. Luật này đang lan ra rất nhiều nước. Cùng ngày Quốc hội Mỹ thông qua, Quốc hội Estonia cũng thông qua và Tổng thống đã ban hành luật. Hiện cũng có đề nghị luật này ở Canada, Anh quốc, và sắp sửa được đưa ra ở Quốc hội Na-uy.

VOA: Với tình hình nhân quyền VN, luật này đóng vai trò thế nào?

TS Nguyễn Đình Thắng: Sẽ rất quan trọng nếu chúng ta làm đúng việc, đúng cách. Chẳng hạn trong thời gian qua, chúng tôi có cách thức ‘kết nghĩa’. Cứ mỗi cộng đồng trong nước bị đàn áp như Hòa Hảo, Cao Đài, Tin lành, hay Công giáo v.v… chúng tôi lại kèm một nhóm ‘kết nghĩa’ để kết nối, cập nhật thông tin với nhau, liên tục theo dõi. Nếu có một dấu hiệu nào bị đàn áp thì họ lập tức thu thập thông tin và chuyển cho chúng tôi. Chúng tôi sẽ lập báo cáo nộp cho LHQ hay Bộ Ngoại giao Mỹ. Đó là trước đây. Bây giờ, với luật mới, chúng ta có thể dùng những thông tin đó để đề nghị chế tài những giới chức can dự hay chỉ thị đàn áp người dân. Thành ra, đây là biện pháp để bảo vệ trực tiếp cho người dân bằng sự răn đe rằng người vi phạm sẽ bị chế tài.



Bộ trưởng Công an Việt Nam nói “động cơ không trong sáng” và “non yếu về nghiệp vụ” là những điểm yếu của các cán bộ công an dẫn đến các vụ án oan sai. Tuy nhiên, một số luật sư cho rằng cơ chế tố tụng, tư pháp thiên lệch về kết tội là nguyên nhân quan trọng.

Theo báo chí Việt Nam, trong một cuộc họp báo hôm 21-12, nói về một số vụ oan sai trong thời gian qua, Thượng tướng Tô Lâm, Bộ trưởng Bộ Công an, đã chỉ ra những nguyên nhân là cán bộ điều tra có “động cơ không trong sáng”, cũng như “thiếu giác ngộ về luật pháp, non yếu về nghiệp vụ”.

Bộ trưởng Lâm nói thêm: có một nguyên nhân khách quan khác là hiện nay một cán bộ điều tra phải giải quyết rất nhiều vụ án. Ông cho biết “trung bình một năm mỗi cán bộ điều tra thụ lý 10 vụ án… Cá biệt, có địa phương, một điều tra viên phải điều tra 50 vụ án 1 năm”.

Bộ trưởng Công an nói số vụ án oan chỉ chiếm “tỷ lệ rất nhỏ” trong hàng vạn vụ án đã được khám phá. Song ông khẳng định: “Lực lượng công an cũng không thể chấp nhận được việc để xảy ra oan sai đối với người vô tội” vì “làm oan cho người dân tức là vi phạm luật pháp”.

Thời gian qua, báo chí đã đưa tin về một số vụ án oan gây chấn động dư luận Việt Nam. Trong đó, nổi bật là các ông Huỳnh Văn Nén, Nguyễn Thanh Chấn và Hàn Đức Long từng bị kết án tử hình vì tội giết người trong các vụ án riêng rẽ rồi sau đó được minh oan nhờ các nỗ lực của gia đình và luật sư.

Luật sư Ngô Ngọc Trai nói với VOA rằng lỗi của các điều tra viên chỉ là một phần nguyên nhân. Ông cho rằng nguyên nhân quan trọng là cơ chế tố tụng và pháp lý của VN có “thành kiến với nghi phạm”:

“Nguyên nhân chính là cái quan điểm, lề lối làm việc của các cơ quan tư pháp. Người ta sử dụng các lời khai để kết tội. Các quy định pháp luật hiện tại cũng còn những cái bất cập. Mặc dù vụ án không hề có nhân chứng hay vật chứng kết tội, nhưng người ta vẫn kết tội được do sử dụng lời khai và lời khai cũng được coi là chứng cứ để kết tội. Chế định tư pháp chưa giúp bênh vực, bảo vệ các quyền của bị can, bị cáo. Mà quy trình, thủ tục tư pháp nặng về giúp cho việc kết tội”.

Luật sư Trai phân tích về những việc cần làm để tránh án oan sai:

“Ví dụ như quyền im lặng chẳng hạn, đấy là một cách thức phòng tránh, giúp cho tránh bức cung, nhục hình để giúp tránh oan sai. Hoặc là quy định về ghi âm, ghi hình khi thực hiện việc hỏi cung. Nó là chế định mới để giúp phòng tránh án oan sai nhưng lâu nay chúng ta cũng chưa có làm. Hoặc là vai trò của luật sư phải lớn hơn. Lâu nay vai trò luật sư yếu kém quá. Hành lang pháp lý có nhiều rào cản cản trở luật sư quá”.

Trong khi đó, luật sư Phạm Công Út cho rằng một trong những biện pháp có thể giúp ngăn ngừa án oan sai là tách việc tạm giam, tạm giữ và việc hỏi cung ra cho những cơ quan khác nhau quản lý thay vì để cho Bộ Công an quản lý cả hai. Ông Út cũng nêu ra một nguyên nhân sâu xa là công tác tuyển sinh, đào tạo người cho ngành công an:

“Cơ chế cần phải thay đổi cái khâu tuyển dụng, bởi những người hoạt động tư pháp là những người phải có tâm, có tài. Các ngành CA, kiểm sát, tòa án, đặt biệt là ngành công an thì vấn đề lý lịch một người nào đấy vào ngành công an đó là điều đầu tiên đặt ra chứ người ta chưa nói đến cái tài hay cái tâm. Do đó là đã loại trừ đi những con người có thể là thực tài, có khả năng bẩm sinh trong hoạt động điều tra phá án. Chuyện đó đã hạn chế người tài đi vào ngành đó. Do đó, nếu thay đổi cơ chế này thì nó thay đổi được hình ảnh làm án oan hay không”.

Bộ trưởng Công an cho biết trong năm 2016, bộ của ông đã điều tra khám phá gần 43.000 vụ phạm pháp hình sự; bắt giữ xử lý trên 80.000 đối tượng, cao hơn so với năm 2015. Cùng với đó, có gần 17.000 vụ tội phạm kinh tế đã bị phát hiện, xử lý. Về các vụ án ma túy, công an đã phá án gần 19.000 vụ với hơn 28.000 đối tượng phạm tội về ma túy đã bị bắt giữ.

http://www.voatiengviet.com
Năm 2016 đã bước qua, những sự kiện lớn lao như lũ lụt, nhân tai thủy điện, thảm họa môi trường Formosa… đã át tất cả mọi thứ, tràn ngập sự quan tâm của dân chúng. Thế nhưng bản ghi nhớ của năm, vẫn còn những câu chuyện về tù đày, oan khiên đang hằn vào con người cần phải được nhắc lại. Đó là những ghi chép về VN với phần tối đen, vật vã trên hành trình đòi quyền làm người và sự công chính.

Có những số phận treo lơ lửng chờ cái chết, khản giọng kêu oan, và có cả những vụ án tưởng là đã được minh oan, nhưng rồi sự trí trá trong bồi thường, nhận sai của chính quyền từng địa phương khiến họ lại tiếp tục trở thành nạn nhân. 2016 khép lại, nhưng những câu chuyện như vậy vẫn còn tiếp diễn.

Những đại án này, nhắc cho chúng ta nhớ, rằng vài vụ án được đưa ra ánh sáng, chỉ là phần nổi của tảng băng chìm, rằng đâu đó trong các nhà lao, việc đánh đập bức cung, nhục hình vẫn tiếp diễn và vẫn có những con người đang đau đớn gào thét đòi công lý trong lằn ranh của sự sống và cái chết.

Huỳnh Văn Nén

Là vụ án tốn nhiều giấy mực của báo chí, và chấn động dư luận. Ông Nén là người duy nhất trong lịch sử tố tụng Việt Nam mang 2 án oan. Gần 17 năm ngồi tù, cuối năm 2015, ông được minh oan và trả tự do. Trước tòa, ông Nén khai là đã bị điều tra viên Cao Văn Hùng bức cung tra khảo, nhục hình để ép nhận tội. Theo luật sư Phạm Công Út, sau khi ra tù, kết quả giám định tâm thần từ Bệnh viện tâm thần Trung ương 2 (Đồng Nai) cho thấy ông Huỳnh Văn Nén bị rối loạn cảm xúc không biệt định 21%. Cùng với các tổn thương về gan, mắt... thì tổng tổn thương trên cơ thể ông Nén được xác định 63%.  Mất tất cả, kể cả sức lao động, nên Luật sư yêu cầu bồi thường 18 tỉ đồng. Nhưng Tòa án tỉnh Bình Thuận nói chỉ bồi thường 2,6 tỉ đồng với lý do ông Nén phải cung cấp đủ các hóa đơn, chứng minh thiệt hại.



Hàn Đức Long

Ông Hàn Đức Long từng bị Công an tỉnh Bắc Giang cáo buộc các tội danh giết người, hiếp dâm, hiếp dâm trẻ em và 4 lần bị tuyên án tử hình. Sau một thời gian dài nỗ lực kêu oan của luật sư, đặc biệt với công sức của luật sư Ngô Ngọc Trai, ngày 20-12-2016, Viện Kiểm sát Nhân dân tỉnh Bắc Giang đã tuyên bố trả tự do cho ông Hàn Đức Long sau 11 năm giam giữ với những phần tra khảo, bị buộc phải diễn tập các hành động giết người cho khớp với cáo trạng.  Từ năm 2007 đến năm 2011, qua 4 phiên tòa, ông Hàn Đức Long bị TAND tỉnh Bắc Giang và TAND Tối cao tuyên phạm tội Hiếp dâm trẻ em và Giết người, hình phạt chung là tử hình. Tại phiên xử và trong suốt thời gian bị bắt, ông Long liên tục khóc và kêu oan trước tòa.



Trần Văn Thêm

Ông Trần Văn Thêm, 81 tuổi, chịu án oan tử hình từ hơn 40 năm, đã được nhà chức trách xin lỗi, sau khi ông được minh oan và trả tự do vào ngày 11-8-2016. Khi hồ sơ được giở lại, người ta nhìn thấy các chứng cứ để buộc tội ông Thêm hết sức lỏng lẻo và tùy tiện. Dù bị đánh đập, hành hạ liên tục để ép cung, ông Thêm vẫn thà chết chứ không nhận tội giết người cướp của. Câu chuyện này một lần nữa cho thấy nạn lạm quyền, bức cung phổ biến nghiêm trọng của các cơ quan tố tụng. Ls Ng.V. Hòa, người đại diện cho ông Thêm đang đòi bồi thường cho ông số tiền hơn 12 tỉ đồng.



Nguyễn Thanh Chấn

Vụ án Nguyễn Thanh Chấn xảy ra giữa tháng 8/2003, khi có một phụ nữ bị hiếp dâm và giết chết. Ông Chấn bị bắt vì bị cho là nghi can và các cuộc điều tra nhanh chóng trong ngục tối bằng roi, gậy và nắm đấm mang lại kết quả là Tòa án tuyên phạt ông Nguyễn Thanh Chấn mức án tù chung thân do giết người “có tính chất côn đồ”. Điều đáng nói, thủ phạm gây ra án oan cho ông Hàn Đức Long và ông Nguyễn Thanh Chấn đều là Kiểm sát viên VKSND tỉnh Bắc Giang, cùng là tên Đặng Thế Vinh. Chính vì “bài bản” chung của Vinh, đã khiến có tình tiết tại tất cả các phiên tòa, cả hai ông Chấn và Long đều một mực kêu oan và tố bị các điều tra viên ép cung, dùng nhục hình để nhận tội và ép làm các việc như viết đơn tự thú, thực nghiệm hiện trường theo ý đồ của điều tra viên. Ls Ng. Đức Biền, người bào chữa cho ông Chấn nói mức đòi bồi thường mà gia đình đưa ra là 9.3 tỉ đồng.

Nguyễn Văn Chưởng

Vụ án Nguyễn Văn Chưởng là một trong 5 vụ án nghiêm trọng của năm 2015, có dấu hiệu oan sai rõ, mà Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã từng lên tiếng chất vấn Chánh án Tòa án Nhân dân Tối cao vào ngày 13-3-2015. Luật sư Hoàng Văn Quánh, người bào chữa cho anh Nguyễn Văn Chưởng (Sinh năm 1983) đã đưa ra chứng cứ rằng khi vụ án giết người xảy ra, Chưởng đang ở nơi cách đó hàng chục cây số. Thế nhưng công an điều tra dựa vào đó, kết luận rằng Chưởng ở xa vì “là người chủ mưu”. Cho đến nay Ng. Văn Chưởng vẫn đang kêu oan chống án tử hình, thậm chí viết thư bằng máu gửi đến công luận. Từ trại giam Trần Phú ở Hải Phòng, tử tù Chưởng gửi thư cho mẹ và gia đình, tường thuật lại toàn bộ vụ việc, khẳng định Chưởng đã bị tra tấn, ép cung nên mới phải nhận tội: “Thế là họ đánh con tới tấp, không để cho con nói được câu nào nữa, họ thôi đánh thì con mới thở được và nói là sao các chú đánh cháu, cháu có làm gì đâu? Và họ nói “Không làm gì thì tao mới đánh chứ làm gì thì đã không bị đánh” và họ lại tiếp tục đánh con tiếp và dùng còng số 8 treo… chỉ có hai đầu ngón chân cái chạm xuống đất… Khi ở trên trại Kế, Bắc Giang, con đã nghĩ là mình không thể sống được đến lúc ra trước tòa để nói lên toàn bộ sự thật nên con đã thêu lên tất cả quần áo chữ Chưởng VT tức “Chưởng vô tội”. Cả vỏ gối con cũng thêu nữa, còn áo phông trắng con thêu bài thơ kêu oan…”.



Hồ Duy Hải

Là một số phận mong manh trước án tử hình, trước một ngày thi hành án (ngày 4-12-2014) tử tù Hồ Duy Hải (sinh năm 1985) đã được Chủ tịch Nước ký quyết định tạm hoãn thi hành án, để làm rõ những tình tiết có dấu hiệu oan sai mà báo chí đề cập. Tại phiên thảo luận ngày 20-3 về án oan sai, đoàn giám sát của Quốc hội thống nhất khẳng định rằng vụ án Hồ Duy Hải có đủ căn cứ để kháng nghị giám đốc thẩm xem xét lại, cụ thể là mọi chứng cứ kết tội Hải giết người đều là giả, thậm chí dấu vân tay thủ phạm cũng không khớp. Thế nhưng vẫn có một áp lực kỳ lạ nào đó muốn đưa Hồ Duy Hải vào cửa tử. Ngày 1-6-2016, báo Tuổi Trẻ còn lật lại vụ án này và viết rằng “Sau 18 tháng được tạm hoãn thi hành án tử hình, đến nay vẫn chưa có cơ quan nào trả lời chính thức về số phận của người tử tù này ra sao”. Ls Trần Hồng Phong - người bào chữa cho Hồ Duy Hải - cũng khẳng định ông đã gửi đơn đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm đối với bản án bởi nhiều tình tiết bất thường chưa được làm rõ.

Bà Nguyễn Thị Rưỡi - cô Hồ Duy Hải nói rằng: “Dư luận xôn xao rằng, Hồ Duy Hải cháu nhà tôi là chết thay cho con một quan chức hay một đại gia nào đó. Thông tin này được phóng viên báo Nông Thôn Ngày Nay đã nói cho tôi”. Còn Mẹ của Hồ Duy Hải, bà Nguyễn Thị Loan nói những tin tức mà bà biết trong suốt 7 năm đi kêu oan cho con “Có người viết thư mật cấm các nhà báo không được viết về vụ Hồ Duy Hải.” Bà kể rằng “Nguyên phó giám đốc Công an Tp. HCM “cũng bức xúc và nói với các nhà báo rằng ‘tử hình dễ thế sao’”?





Hội Nhà Báo Việt Nam hôm 16 tháng 12 công bố 10 qui định đạo đức nghề nghiệp mà người làm báo phải cam kết và có trách nhiệm thực hiện, sẽ có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 2017.

Qui định mâu thuẫn với đạo đức nhà báo

Buổi họp báo chiều ngày 16-12 do Hội Nhà Báo VN tổ chức để thông báo chương trình hành động của hội đối với Nghị quyết Trung ương IV khóa XII về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn đảng, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng  chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.

Đây cũng là dịp để Hội Nhà Báo Việt Nam công bố 10 điều qui định về đạo đức nghề nghiệp của người làm báo, trong đó điều thứ nhất là trung thành với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam Xã hội Chủ nghĩa dưới  sự lãnh đạo của đảng cộng sản Việt Nam, vì lợi ích của đất nước, vì hạnh phúc của nhân dân, góp phần nâng cao uy tín, vị thế Việt Nam trên trường quốc tế.

Điều thứ mười bản qui định đạo đức nghề nghiệp của người làm báo là phải cam kết thực hiện những qui định đã nêu ra vì đó là bổn phận, nguyên tắc hành nghề, lương tâm và trách nhiệm của báo chí trong nước.

Đây là những qui định về đạo đức nghề nghiệp mà xem ra lại mâu thuẫn với đạo đức nghề nghiệp của người làm báo, là nhận xét của ông Trần Ngọc Quang, nay là một nhà báo độc lập, từng làm cho báo của Bộ Y tế và báo đảng thuộc tình đảng bộ Phú Yên: Cái này là qui định của một hội nhà báo đang ăn lương của đảng cộng sản. Làm báo theo cái lối o bế như vậy nó mâu thuẫn với đạo đức nghề nghiệp. Làm báo là những cái cần ăng ten của xã hội, phải dự báo được cho toàn xã hội những cái nhạy cảm nhất. Đó là sự phát hiện của tất cả những cái gì mà nó trái với đạo lý, trái với chân lý. Còn  nếu cứ làm theo một cách chỉ đạo, làm báo theo cái lối đó thì tất cả đều qua kiểm duyệt hết. Hội Nhà Báo Việt Nam nằm trong một số những tổ chức mà đảng lập ra, làm báo mà lại là đảng viên cộng sản thì đấy là việc họ qui định với họ. Người ta không thích nghe nói thẳng nói thật vì nó trật lỗ tai, nói thẳng với đảng góp ý với đảng thì đảng không nghe, đấy là bi kịch của một đất nước.

Đối với ông Bùi Văn Bồng, nguyên trưởng đại diện báo Quân Đội Nhân Dân vùng đồng bằng sông Cửu Long, những điều bó buộc như làm báo vì lợi ích của đất nước, vì hạnh phúc của nhân dân, phải thực hiện đúng tôn chỉ, mục đích, nội qui, qui chế của cơ quan báo chí nơi công tác, không xuyên tạc, không gây chia rẽ kích động xã hội, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc vân vân... mà Hội Nhà Báo Việt Nam công bố, cũng quá nặng tính tuyên truyền hơn là những qui định hay nguyên tắc nghề nghiệp: Không có gì mới, bởi vì trong các trường dạy làm báo của đảng, người làm báo phải tuân thủ đường lối chính sách của đảng rồi mới đi vào tu nghiệp tức là đi vào chuyên môn. Thế còn bây giờ họ gắn với cái “tự diễn biến” và “tự chuyển hóa” thì lại còn đi ngược với chủ nghĩa Mác. Trong khi triết học Mác nói tự thân vận động là nỗ lực chủ quan của mỗi con người, là cần thiết trong cuộc sống con người và rõ ràng là tư tưởng thì không thể cố định được mà phải có diễn biến, con người sống là phải có chuyển hóa, chuyển đổi, đổi mới.



Không cho cá nhân tự thân để mà đưa ra một cách sống hay một lối sống hay cách diễn đạt tư tưởng gì cả mà cứ phải áp đặt từ trên xuống dưới, đưa vào một khuôn phép chung chung theo tôi rất vô nghĩa. Một nhà báo luôn luôn phải tôn trọng sự thật, phản ánh đúng sự thật khách quan, đúng thực tế cuộc sống. Cái thứ hai: nhà báo phải có quan điểm tư tưởng để tự chủ nêu ra những vấn đề mà không chịu sự áp đặt náo khác. Đó là quyền tự do báo chí, tự do tư tưởng, tự do hành nghề của nhà báo. Định hướng, áp đặt là vi phạm nguyên tắc của báo chí mà chính đảng cũng đã vạch ra tức là phát huy tự do tư tưởng.

Không thể kiểm soát báo mạng

Nhà báo Bùi Văn Bồng còn chỉ trích rằng những qui định đạo đức nghề nghiệp mà Hội Nhà Báo Việt Nam nêu ra qua Luật Báo Chí 2016 đang khoanh hẹp dần tự do của người làm báo, đưa người làm báo vào một cái rọ quản lý tư tưởng không hơn không kém.

Không ngạc nhiên mà chỉ thấy buồn cười là suy nghĩ của nhà báo Võ Văn Tạo, từng cộng tác với nhiều tờ báo lớn trong nước như Tuổi Trẻ, Thương Mại, Nông Thôn Ngày Nay, VietnamNet, Lao Động, Kinh Tế Sài Gòn, hiện nay là thành viên của Văn Đoàn Độc Lập, một tổ chức xã hội dân sự trong nước:

Ở các nước khác, tiêu chuẩn đầu tiên và cốt lõi của nghề báo là trung thực, khách quan, công bằng. Việt Nam thì khác, buộc phải trung thành với đảng, với chủ nghĩa  xã hội, những cái thứ mà lâu nay nó đã cũ rích rồi. không hợp với xu thế phát triển của nhân loại  văn minh. Điểm lại thì hệ thống cộng sản bao giờ cũng coi trọng công tác tuyên truyền, báo chí theo quan niệm của đảng chỉ là công cụ tuyên truyền của đảng thôi chứ không phải là báo chí theo chuẩn mực chung của thế giới được. Thế thì tại sao phải ra những qui định trong lúc này?

Những năm gần đây, mặc dù bị kềm kẹp như thế, nhưng đội ngũ anh em làm báo cũng cố gắng vùng vẫy trong mức độ nào đó, khi có điều kiện thì người ta cũng cố gắng làm cái gì mà lương tâm người ta nghĩ là tốt. Những bài báo đó có thể không đúng ý đảng nhưng nếu xét về mặt chuyên nghiệp về mặt ích nước lợi dân thì có.

Trước tình hình đó thì họ rất hoảng hốt và tôi nghĩ việc ban hành 10 qui định về đạo đức của người làm báo Việt Nam nhằm mục đích một lần nữa xiết chặt công tác tuyên truyền nhằm bảo vệ vị trí độc tôn của đảng cộng sản đang cai trị đất nước lâu dài.

Báo chí trong nước đưa tin 10 qui định về đạo đức nghề nghiệp người làm báo Việt Nam đã được thống nhất và đồng loạt thông qua trong hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Hội Nhà Báo VN ngày 15 tháng 12, tiếp đó được Hội Nhà Báo công bố trong buổi họp ngày 16 với quyết định phải học tập, quán triệt và thực hiện. Theo nhà báo độc lập Trần Ngọc Quang, ban hành là một chuyện, thành công hay không lại là một chuyện khác vì công nghệ thông tin đã thay đổi nhiều: Qui chế này cũng chỉ là điều vớt vát, bây giờ công nghệ thông tin đã thay đổi rồi, hệ thống báo viết báo giấy còn tồn tại mấy trăm tờ như vậy là gánh nặng cho ngân sách thôi. Bây giờ người ta đọc báo mạng, có trình độ hay không có trình độ, cầm điện thoại là có thể đọc báo rồi. Kiểm soát báo mạng là khó, cả một hệ thống kỹ thuật để kiểm soát báo mạng là không kiểm soát được.

Được biết  Ban Kiểm tra Hội Nhà Báo Việt Nam là đơn vị có trách nhiệm theo dõi, đôn đốc việc triển khai và thực hiện 10 qui định đạo đức nghề nghiệp người làm báo Việt Nam, sẽ có hiệu lực ngày 1 tháng 1 năm 2017 tới đây.
Chỉ còn vài ngày nữa là chúng ta sẽ nói lời chia tay với năm 2016. Có thể nói, 2016 là một năm đầy biến động đối với dân tộc Việt Nam. Sự kiện đầu tiên là cuộc tranh giành quyền lực trong nội bộ đảng CSVN với sự ra đi của ông Nguyễn Tấn Dũng. Sử dụng những thủ đoạn về điều lệ tranh cử và đề cử, ông Nguyễn Phú Trọng đã dễ dàng loại Nguyễn Tấn Dũng ra khỏi vòng đua. Thế là Việt Nam tiếp tục bị kìm hãm dưới bàn tay sắt của một lãnh tụ bảo thủ, giáo điều, mù quáng với ảo tưởng về chủ nghĩa xã hội.

Sự kiện quan trọng thứ hai là phán quyết của Tòa Trọng tài về vụ kiện Đường 9 Đoạn. Tòa xử cho nguyên đơn Phi Luật Tân thắng vẻ vang mang lại hy vọng cho Việt Nam trước dã tâm và tham vọng của Trung Quốc tại Biển Đông. Nhưng sự xuất hiện của tân Tổng thống Duterte đã làm đảo lộn mọi vấn đề. Bên thắng kiện không muốn nhắc tới phán quyết của vụ kiện nên Trung Quốc dễ dàng vô hiệu hóa phán quyết của Tòa qua một số sách lược ngoại giao khéo léo.

Thứ ba là TPP. Khi 12 quốc gia thành viên đặt bút ký TPP tại Auckland vào ngày 4-2-2016 sau hơn 7 năm đàm phán vất vả, có nhiều hy vọng là Việt Nam sẽ có cơ hội thoát Trung ít nhất là về mặt kinh tế cũng như tình trạng nhân quyền gồm có quyền lao động và tiếp cận môi trường trong sạch sẽ được cải thiện. Nhưng hy vọng này tiêu tan cùng với chiến thắng của Donald Trump. Với chiều hướng theo đuổi chủ nghĩa biệt lập của Trump, Việt Nam khó tránh khỏi ngày càng bị lệ thuộc và đi sâu vào quỹ đạo của Trung Quốc. Không có TPP, Việt Nam cũng không có động cơ đẩy mạnh cải cách và áp dụng các chuẩn mực quốc tế về trách nhiệm bảo vệ quyền lao động và môi trường.

Nhưng có lẽ sự kiện quan trọng nhất trong năm là biến cố Formosa. Từ đầu tháng 4, hiện tượng cá chết hàng loạt xảy ra tại Vũng Áng Hà Tĩnh, trụ sở của Công ty TNHH Gang thép Hưng nghiệp Formosa Hà Tĩnh và nhanh chóng lan sang các tỉnh miền Trung gồm có Quảng Bình, Quảng Trị, và Thừa Thiên-Huế. Vào ngày 30-6, chính quyền chính thức công bố 3 chi tiết quan trọng. Thứ nhất, Formosa là thủ phạm xả thải gây ra thảm họa cá chết hàng loạt và làm cả một vùng biển rộng lớn nhiễm độc. Thứ hai là Formosa đã đồng ý bồi thường 500 triệu Mỹ kim và thứ ba là việc truy tố Formosa vi phạm pháp luật sẽ do các cơ quan tư pháp xem xét.

Nhưng cho tới nay vẫn chưa thấy có dấu hiệu nào là Formosa sẽ bị truy tố. Trong một thể chế mà chỉ có một đảng kiểm soát cả 3 vế chính quyền hành pháp, lập pháp và tư pháp thì việc này không có gì đáng ngạc nhiên. Còn số tiền 500 triệu do đảng thỏa hiệp với Formosa cũng chẳng dựa trên chứng cứ thực tế nào cả. Điều đáng chú ý là trong tháng 8 thì có nguồn tin là nhà nước miễn và hoàn thuế cho Formosa và các nhà thầu liên hệ tổng số tiền cũng khoảng 500 triệu đô Mỹ tương đương với số tiền bồi thường của Formosa.

Theo báo cáo của chính chính phủ Việt Nam thì có hơn 100,000 nạn nhân bị ảnh hưởng trực tiếp. Trong số này có hơn 40,000 ngư dân. Ngoài ra, có khoảng 176,000 người bị ảnh trực gián tiếp hoặc phụ thuộc. Nếu chia đều 500 triệu cho tổng số 276,000 nạn nhân thì mỗi người sẽ nhận chưa tới 2,000 đô Mỹ.


Trong tháng 9, chính phủ công bố Quyết định 1880 ấn định số tiền bồi thường cho 7 nhóm đối tượng gồm có khai thác hải sản, nuôi trồng thủy sản, sản xuất muối, hoạt động kinh doanh thủy sản ven biển, dịch vụ hậu cần nghề cá, dịch vụ du lịch, thương mại ven biển và thu mua, tạm trữ thủy sản. Số tiền bồi thường khác nhau cho chủ tàu lắp máy có công suất khác nhau. Số tiền bồi thường ngư dân làm trên tàu được ấn định trung bình khoảng 4 triệu đồng một tháng (tức khoảng 180 đô Mỹ). Điều đáng nói là chỉ bồi thường trong 6 tháng từ tháng 4 tới tháng 9, tức là 24 triệu tương đương với 1,000 đô Mỹ. Nhưng sau 6 tháng thì lấy gì để sống? Mà biển thì vẫn chết với "những con thuyền nằm nhớ sóng khơi xa".

So với sự khuất tất và tắc trách của nhà nước, các tổ chức xã hội dân sự (XHDS) độc lập đã thể hiện đúng trách nhiệm và vai trò đối với ngư dân nạn nhân của Formosa. Chỉ trong 3 tuần lễ sau khi hiện tượng cá chết được phát hiện, 20 tổ chức XHDS vào ngày 29-4-2016 đã cùng ký tên vào bản tuyên bố yêu cầu nhà cầm quyền có biện pháp kiểm soát và ngăn chận hành vi xả thải phá hoại môi trường của Formosa. Sau cuộc họp báo của chính quyền vào ngày 30-6-2016 công bố thủ phạm Formosa, 18 tổ chức XHDS đã phổ biến một bản tuyên bố lên án thái độ lấp liếm và dung túng của nhà cầm quyền đối với Formosa cũng như tự ý chấp nhận số tiền bồi thường 500 triệu.

Cùng lúc, một vài tổ chức XHDS khác đã tiến hành các công tác cứu trợ khẩn cấp cũng như nêu thảm họa này lên công luận quốc tế. Một số luật sư thiện nguyện giúp soạn thảo đơn yêu cầu chính quyền rút giấy phép xả thải của Formosa và các mẫu đơn liệt kê thiệt hại cho ngư dân sử dụng. Nhà Thờ là một phần của XHDS tạo điều kiện để các luật sư có chỗ làm việc giúp đỡ nạn nhân điền đơn. Thành viên của các tổ chức XHDS khác lặn lội xuống từng làng chài giải thích về các biện pháp pháp lý chính đáng mà ngư dân có thể theo đuổi. Tính đến nay thì các tổ chức XHDS đã giúp thành lập hơn 15,000 hồ sơ nạn nhân của Formosa chuẩn bị chờ cơ hội để nộp kiện dù bị nhà cầm quyền đe dọa và quấy nhiễu. Có lẽ Việt Nam là quốc gia duy nhất trên thế giới này mà nạn nhân của một cuộc thảm họa môi trường lại bị chính nhà nước của họ đe dọa và tước quyền khiếu kiện.

Trong cuộc đấu tranh pháp lý của nạn nhân Formosa, có hai sự kiện nổi bật đáng chú ý nhất là vào ngày 29-9-2016, Linh mục Đặng Hữu Nam đã dẫn một đoàn giáo dân hơn 600 người từ Nghệ An vào Hà Tĩnh để nộp đơn kiện tại tòa án nhân dân thị xã Kỳ Anh. Hai tuần sau đó, tòa này trả lại đơn kiện viện dẫn lý do "không nộp đủ chứng cứ" và việc này đã được giải quyết qua Quyết định 1880 của chính phủ.

Sự kiện thứ hai là cuộc biểu tình lên tới hàng chục ngàn người vào ngày 2-10. Dù có một vài xô xát không đáng kể nhưng tựu chung đây là một cuộc biểu tình ôn hòa và thành công. Theo lời của Linh mục Trần Đình Lai, nếu muốn người dân Hà Tĩnh đã có thể san bằng Formosa. Nhưng họ đã không để lại một cọng rác sau cuộc biểu tình.

Các tổ chức XHDS đã đóng một vai trò rất lớn trong việc hỗ trợ người dân trực tiếp đứng lên nói lên tiếng nói và đòi hỏi quyền lợi của mình. Đó là cả một quá trình trong chế độ độc tài toàn trị. Sự kiện này đánh dấu một bước tiến đáng kể của xã hội dân sự. Vào ngày 19-10, nhóm Green Trees (trước đây có tên là Hà Nội Xanh) đã nộp lên Quốc hội một bản báo cáo "Toàn cảnh Thảm họa Môi trường biển Việt Nam". Tập tài liệu gần 200 trang này ghi lại một cách có hệ thống theo trình tự thời gian mọi vấn đề liên hệ gốm có chính sách đầu tư ngoại quốc, pháp lý, môi trường, truyền thông Việt Nam và quốc tế, trách nhiệm của chính quyền và vai trò của các tổ chức XHDS. Tài liệu này cũng đã được dịch sang tiếng Anh và tiếng Trung.

XHDS đã thể hiện được tiềm năng qua thảm họa Formosa. Nhưng chặng đường sắp tới vẫn còn đầy gian nan. Có thể chia các tổ chức XHDS thành 4 loại. Thứ nhất là các tổ chức tranh đấu cho quyền dân sự và chính trị chẳng hạn như Hội Anh Em Dân Chủ, Con Đường Việt Nam, Hội Cựu Tù Nhân Lương Tâm, Hội Phụ Nữ Nhân Quyền. Thứ hai là các tổ chức mang tính văn hóa và tác nghiệp gồm có Văn Đoàn Độc Lập, Hội Nhà Báo Độc Lập, Hội Giáo Chức Chu Văn An. Thứ ba là các tổ chức tôn giáo gồm có Tăng Đoàn Giáo Hội Phật Giáo VNTN, Nhóm Linh Mục Nguyễn Kim Điền, Giáo Hội Phật Giáo Hòa Hảo Thuần Túy, Giáo Hội Liên Hữu Lutheran Việt Nam - Hoa Kỳ và một số tổ chức tôn giáo khác. Thứ tư là các tổ chức tranh đấu cho quyền xã hội và kinh tế chẳng hạn như Phong Trào Lao Động Việt, Green Trees, Phong Trào Liên Đới Dân Oan, Hội Bầu Bí Tương Thân. Các tổ chức XHDS này đã góp phần nâng cao dân trí, cung cấp thông tin chính xác và trung thực, tham gia cứu trợ tại thực địa và gióng lên tiếng nói phản biện cũng như phê bình những sai sót của nhà cầm quyền. Nói chung, họ đều chia sẻ ước vọng xây dựng một nước Việt Nam dân chủ và tiến bộ để nâng cao đời sống hàng ngày và bảo vệ quyền lợi chính đáng của người dân. Họ là nền tảng của một thể chế dân chủ đa đảng và đa nguyên mà Việt Nam phải theo đuổi để sánh bước vươn lên cùng với các quốc gia khác trên thế giới.

Tuy nhiên, các tổ chức XHDS đang phải đối diện với rất nhiều khó khăn và thách thức. Trước hết là từ nhà cầm quyền và hệ thống an ninh luôn rình rập, quấy nhiễu, bắt bớ, đánh đập hoặc cô lập kinh tế. Khó khăn lớn nhất là về mặt tài chánh. Tổ chức XHDS độc lập không có tư cách pháp nhân và không thể gây quỹ cũng như nộp đơn xin tài trợ với nhà nước hoặc các cơ quan tài trợ quốc tế. Vì không có tài chánh nên không thể tuyển dụng nhân sự có khả năng hoạt động chuyên nghiệp.

Người Việt hải ngoại đóng một vai trò cực kỳ quan trọng trong việc xây dựng và phát triển tổ chức XHDS hoạt động chuyên nghiệp, có bài bản và hiệu quả. Các đoàn thể, tổ chức XHDS Việt Nam tại hải ngoại có thể yểm trợ tài chánh giúp các tổ chức XHDS trong nước có phương tiện huấn luyện và tuyển dụng những người hoạt động có kỹ năng cao. Chúng ta có thể giới thiệu hoặc cùng đứng đơn với các tổ chức XHDS trong nước xin yểm trợ kỹ năng và tài trợ từ các cơ quan quốc tế cho các dự án liên quan tới nhân quyền, bảo vệ môi trường và quyền của người lao động. Không chỉ các tổ chức XHDS trong nước cần phải liên kết và hỗ trợ lẫn nhau mà các đoàn thể, tổ chức XHDS Việt Nam tại hải ngoại cũng cần làm việc đó để gia tăng sức mạnh hầu có thể đóng góp hiệu quả hơn. Cụ thể trước mắt là vấn nạn Formosa. Trong thời gian qua, cộng đồng người Việt hải ngoại đã tích cực gây quỹ cứu trợ đồng bào miền Trung sau các trận lũ lụt. Đây là một nghĩa cử rất đẹp thể hiện tinh thần lá lành đùm lá rách. Nhưng nỗ lực gây quỹ yểm trợ cho các tổ chức XHDS trong nước giúp nạn nhân Formosa khiếu kiện thì lại rất khiêm nhường. Lụt miền Trung thì năm nào cũng có. Không chỉ thiên tai mà còn có nhân tai chẳng hạn như việc tập đoàn thủy điện Hố Hô tùy tiện xả lũ gây ra cái chết của hơn 20 người. Nếu người dân không có sự yểm trợ của các tổ chức XHDS mạnh dạn đứng lên khiếu kiện thì việc này chắc chắn sẽ tái diễn. Nhóm Cây Xanh gồm có hơn 20 thành viên trẻ và năng động đã bỏ nhiều công sức soạn thảo tài liệu "Toàn cảnh Thảm họa Môi trường biển Việt Nam" nhưng không có tiền để in và phổ biến rộng rãi. Chỉ với thiện chí mà không có phương tiện thì Việt Nam sẽ rất khó thay đổi.

Đúng là tương lai của đất nước Việt Nam phải do chính người Việt trong nước định đoạt. Nhưng với hoàn cảnh khó khăn của các tổ chức XHDS trong nước hiện nay, vai trò của người Việt hải ngoại là cực kỳ quan trọng nếu không muốn nói có tính quyết định trong tiến trình đấu tranh cho một nước Việt Nam dân chủ, đa nguyên và tiến bộ.



danlambaovn.blogspot.com
Việt Nam sẽ phát triển nền nông nghiệp công nghệ cao với gói tín dụng từ 50 tới 60 nghìn tỷ đồng. Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc phát biểu như vừa nêu tại Hội nghị Xây dựng nền công nghiệp nông nghiệp Việt Nam tổ chức chiều 18-12-2016 tại Tp. HCM.

Nhà nghèo chơi sang

Theo tài liệu của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, nền nông nghiệp công nghệ cao được hiểu là một nền nông nghiệp được ứng dụng các công nghệ mới trong sản xuất. Điển hình như tự động hóa, cơ giới hóa, công nghệ thông tin IT, công nghệ vật liệu mới, công nghệ sinh học, các giống vật nuôi, cây trồng mới có năng suất và chất lượng cao, phát triển bền vững trên cơ sở canh tác hữu cơ.

Những khái niệm như vừa nêu được cho là quá xa vời đối với những người không phải là chuyên viên, đặc biệt đối với nông dân trực tiếp làm nông nghiệp. Câu hỏi đặt ra là bằng cách nào một nền nông nghiệp còn trầy trật với cơ giới hóa và kỹ thuật sau thu hoạch yếu kém, cũng như chính sách ruộng đất chia nhỏ cho hàng chục triệu nông dân lại có thể đại nhảy vọt lên nền nông nghiệp công nghệ cao.

Giáo sư Võ Tòng Xuân, nhà nông học nổi tiếng hiện là Hiệu trưởng Đại học Nam Cần Thơ nhận định: “Tôi không ủng hộ lắm về chủ trương này. Thứ nhất ngân sách không có tiền mà ‘ông cụ’ hứa như thế… 50-60 nghìn tỷ là con số quá lớn. Thứ hai nông nghiệp công nghệ bình thường hiện nay mình sử dụng chưa có hết, nông dân và doanh nghiệp chưa áp dụng hết. Sản phẩm bây giờ chất lượng rất xấu bởi vì mình chưa áp dụng kỹ thuật hiện tại mình có. Bây giờ tổ chức cho doanh nghiệp và nông dân kết hợp lại sử dụng những công nghệ hiện hữu của mình thì sẽ kinh tế hơn nhiều.

Theo Giáo sư Võ Tòng Xuân, Việt Nam có bệnh hình thức: các tỉnh không chịu thua kém nhau, cho nên 63 tỉnh mà có hơn 100 đài truyền hình. Trong nông nghiệp, chỗ này chỗ kia tự hào có nông nghiệp công nghệ cao, thực chất là vài cái nhà kính, nhà màn (green house), rồi có phòng cấy mô tissue culture để nhân giống, cứ làm như thế gọi là công nghệ cao như cái mốt vậy thôi. Giáo sư Võ Tòng Xuân tiếp lời: “Ví dụ bây giờ đâu có ai áp dụng GPS satellite để điều khiển máy cày dưới đất kéo bộ phận đi bón phân từng lô một cách chính xác, cái đó Việt Nam không có, mình chưa làm được vì đất quá manh mún. Bây giờ trong hướng chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp, vẫn nên làm theo hướng công nghệ bình thường đã có sẵn mà rẻ tiền hơn.

Trong khi kế hoạch tái cơ cấu nền nông nghiệp Việt Nam được đề ra từ 2013 vẫn chưa thấy kết quả gì cụ thể. Thu nhập của nông dân vẫn ở hàng dưới cùng của xã hội. Việt Nam tuy xuất khẩu nhiều gạo nhưng kim ngạch mỗi năm 2 tới 3 tỷ USD cũng chưa đủ bù ngoại tệ để nhập khẩu nguyên liệu làm thức ăn chăn nuôi như bắp, đậu nành cũng như phân bón hóa học cần thiết cho trồng trọt.



TS Đặng Kim Sơn, nguyên Viện trưởng Viện Chính sách và Chiến lược Phát triển Nông nghiệp Nông thôn nhận định về sự chậm trễ của chương trình tái cơ cấu nông nghiệp: “Bản thân tái cơ cấu nông nghiệp không thể đi một mình được mà nó phải đi với tái cơ cấu nền kinh tế, công nghiệp phải chuyển sang ủng hộ nông nghiệp, kinh tế đô thị cũng phải phối hợp với kinh tế nông thôn, còn không nó sẽ tách rời ra hai mảng và người dân xu hướng chung là họ sẽ di cư ra khỏi nông thôn đi về thành thị. Như thế không chỉ riêng nông thôn có khó khăn mà thành thị cũng tắc nghẽn, quá tải, không thể nào phát triển bền vững được.”

Chính sách mới về đất đai

Tại Hội nghị Xây dựng nền công nghiệp nông nghiệp Việt Nam tổ chức chiều 18-12-2016 tại Tp. HCM, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc không đề cập gì tới kế hoạch tái cơ cấu nông nghiệp đang dở dang không kết quả. Hoặc là ông muốn chuyển hướng tái cơ cấu nông nghiệp bằng hình thức phát triển nông nghiệp công nghệ cao. Các thông tin liên quan đến vấn đề này chưa được thể hiện rõ ràng.

Theo những gì báo điện tử Chính phủ và các báo dòng chính tường thuật, người đọc có thể liên tưởng tới một cuộc cách mạng nông nghiệp lần thứ hai ở Việt Nam sắp diễn ra. Nó có thể sửa chữa những mặt tiêu cực của cuộc cải cách chia nhỏ ruộng đất, được thực hiện ở miền Bắc trong thập niên 1950-1960. Do chính sách ruộng đất xã hội chủ nghĩa, Việt Nam hiện hữu 70 triệu thửa ruộng manh mún, bình quân một hộ nông dân canh tác ít hơn 0,7 ha.

Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc xác định là cần sửa điều 193 Luật Đất Đai về điều kiện nhận chuyển nhượng, nhận góp vốn, thuê quyền sử dụng đất nông nghiệp để thực hiện dự án đầu tư sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp và Thông tư 23 của Bộ Tài nguyên Môi trường về đất đai để tạo điều kiện phát triển nông nghiệp. Theo tường thuật của báo chí, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nói nguyên văn: “Phải tổ chức lại sản xuất của các hợp tác xã, hộ cá thể, chứ để các hộ nhỏ li ti như hiện nay thì khó cạnh tranh trong kinh tế thị trường.

Cùng với gói tín dụng phát triển nông nghiệp công nghệ cao từ 50 tới 60 nghìn tỷ đồng, điểm mới mẻ về chủ trương liên quan đến đất đai được Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc bật mí. Theo đó chính phủ sẽ thí điểm thành lập ngân hàng về qũy đất và xem xét việc hình thành thị trường quyền sử dụng đất để nâng cao hiệu quả khai thác sử dụng đất.

Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc phát biểu là Chính phủ quyết định một gói tín dụng lên tới 50–60 nghìn tỷ đồng cho phát triển nông nghiệp công nghệ cao với cơ chế vay thuận lợi, thông thoáng nhất, cùng với việc mở ra thị trường sử dụng đất, để có thể sản xuất nông nghiệp hiện đại, đa chức năng và cạnh tranh quốc tế.

Giới phản biện đặt vấn đề là không thấy Thủ tướng đề cập tới việc chuyển dịch lao động, bởi vì với sản xuất nông nghiệp tập trung qui mô lớn thì đã phát sinh dư thừa lao động nông nghiệp, chưa kể tới phát triển nông nghiệp công nghệ cao sẽ càng loại bỏ rất nhiều nhân công hơn nữa.

Giáo sư Võ Tòng Xuân cho rằng, sẽ thực tế hơn và lợi ích kinh tế hơn nếu không phung phí tiền bạc vào nông nghiệp công nghệ cao, sản phẩm của nhà giàu. Thay vào đó đẩy mạnh sản xuất tập trung quy mô lớn theo kỹ thuật nông nghiệp hiện nay. Điều quan trọng theo lời nhà nông học dày kinh nghiệm là phát triển hình thức hợp tác xã kiểu mới có thể canh tác trên diện tích hàng ngàn ha, nông dân vẫn làm chủ ruộng đất của mình nhưng sản xuất đồng nhất với chi phí thấp nhất và theo nhu cầu thị trường.

Mừng Năm Mới: Dẹp tan ảo ảnh: Cộng sản là mùa xuân của loài người. Thực hiện chương trình: Dân chủ là tương lai của Đất nước !

Kính gửi bà con dân oan, và cộng đồng trong và ngoài nước.

Tôi tên là Cấn Thị Thêu, dân oan Dương Nội. Ngày 10-6-2016 tôi đã bị công an Việt Nam bắt giam, hôm đó gia đình tôi còn đang ngủ thì có hàng trăm công an, cảnh sát cơ động mang theo công cụ hỗ trợ đến bao vây nhà tôi và đọc lệnh bắt giam tôi. Quy chụp cho tôi tội gây rối trật tự ngày 8-4-2016 tại Bộ Tài nguyên và Môi trường.

Đến ngày 20-9 và ngày 30-11-2016 nhà cầm quyền Việt Nam lập hai phiên toà sơ thẩm và phúc thẩm, đại diện cho những kẻ có tội để xét xử tôi là người vô tội và tuyên phạt tôi 20 tháng tù giam. Việc nền tư pháp thối nát Việt Nam bắt giam tôi, phạt tù tôi, quy chụp cho tôi tội gây rối trật tự công cộng trong lúc tôi đi gửi đơn để đòi quyền lợi chính đáng cho gia đình tôi và dân làng là minh chứng rõ nét nhất của chế độ công an trị, quản lý dân bằng công an, bằng côn đồ, bằng bạo lực và nhà tù để cướp đất của chúng tôi, đẩy chúng tôi vào cảnh nghèo đói và thất nghiệp.

Quá bức xúc và bất bình trước việc nhà cầm quyền Việt Nam bắt oan sai đối với tôi nên khi bước chân vào trại giam số 1 Hoả Lò tôi đã tuyệt thực 13 ngày để phản đối chế độ công an trị, phản đối bọn kẻ cướp có tổ chức. Tôi đã bị đi tiểu ra máu và nôn ra máu nhiều ngày liền.

Giữa lúc sức khoẻ tôi đang bị suy kiệt và yếu đi từng ngày thì có những người công an đến nói với tôi: “Nếu chị chết thì ở bên ngoài không ai biết đến chị”. Tôi nói với họ rằng: các người nhầm rồi, chế độ cộng sản là một chế độ hèn với giặc, ác với dân, đã cướp bóc đất đai, tài sản của nhân dân chúng tôi, chế độ cộng sản đã chỉ đạo cho công an và côn đồ mang theo cả xe ô tô buýt đuổi bắt người dân vô tội ở giữa đường, cho nên lòng dân đã oán thán ngút trời. Vì vậy nếu tôi có chết vì bất kỳ lý do gì ở trong trại giam thì tôi yêu cầu trại giam cứ quẳng xác tôi ra ngoài cổng trại, và tôi tin rằng cái chết của tôi sẽ không vô nghĩa, ít nhất nó cũng biến thành giọt nước, để ly nước nhanh tràn, để cho đất nước Việt Nam phải thay đổi, để chấm dứt thảm trạng dân oan tại Việt Nam.

Nhân đây tôi cũng xin nhắn nhủ tới những người đang còn thờ ơ, vô cảm trước những bất công của xã hội hãy nhanh chóng bước ra làn ranh giới do dự, đứng về phía những người đấu tranh để tăng thêm sức mạnh thì mọi người sẽ nhận được rất nhiều. Ngay như bản thân tôi, tôi chỉ đóng góp một chút rất nhỏ cho công cuộc đấu tranh để đòi quyền lợi chính đáng cho gia đình tôi và những người cùng cảnh ngộ mà hôm nay tôi đã nhân được vô vàn tình cảm yêu thương của toàn thể quý bạn bè, anh chị em, của dân oan Dương Nội, của dân oan 3 miền, của các vị Luật sư, của các tổ chức xã hội dân sự, của các trang mạng xã hội, của cộng đồng trong và ngoài nước, của cộng đồng người Việt hải ngoại, của các tổ chức tôn giáo, của giáo xứ Thái Hà, của các Đại sứ quán các nước, của các tổ chức nhân quyền quốc tế, của khối Liên minh Châu Âu, của Tổng thống Pháp, của các hãng truyền thông trong và ngoài nước… đã đồng loạt lên tiếng đấu tranh đòi tự do cho tôi, nhiều người đã bất chấp sự ngăn cản, đàn áp, đánh đập của công an, đã trực tiếp xuống đường đấu tranh để đòi tự do cho tôi, các tổ chức tôn giáo, giáo xứ Thái Hà đã tổ chức lễ cầu nguyện cho tôi.

Tôi thực sự xúc động và thấy rằng: sống ở trên đời này ai cũng chỉ sinh ra có một lần và được sống trong một cuộc đời duy nhất, nhưng để sống được sống trong vòng tay yêu thương, đùm bọc mà cộng đồng dành cho tôi như trong suốt thời gian vừa qua thì cho dù tôi chỉ được sống một giây, một phút trên cõi đời này thì tôi cũng cảm thấy mãn nguyện và hạnh phúc vô cùng. Cho dù tôi có phải chết vì cuộc đấu tranh mà tôi đang theo đuổi thì tôi cũng sẵn sàng và không bao giờ phụ lòng tin yêu mà cộng đồng dành cho tôi. Một chút tù tội của tôi không thấm tháp gì so với những hi sinh, vất vả mà cộng đồng trong và ngoài nước đang ngày đêm tranh đấu để đòi tự do cho tôi.

Ngày hôm nay từ trại giam số 1 Hoả Lò, Hà Nội, tôi xin được gửi đến toàn thể quý bạn bè, anh chị em, dân oan Dương Nội, dân oan 3 miền, các vị Luật sư, các tổ chức xã hội dân sự, các trang mạng xã hội, cộng đồng trong và ngoài nước, cộng đồng người Việt hải ngoại, các Đại sứ quán các nước, các tổ chức nhân quyền quốc tế, khối LLiên minh Châu Âu, Tổng thống Pháp, các hãng truyền thông trong và ngoài nước lời tri ân và cảm ơn sâu sắc nhất. Món nợ ân tình này tôi và gia đình tôi sẽ khắc cốt ghi tâm, ơn trời biển này tôi và các con tôi sẽ muôn đời ghi nhớ.

Cuối cùng tôi xin kính chúc toàn thể quý ân nhân mạnh khoẻ, bình an và may mắn. Xin chào tạm biệt và xin gặp lại quý ân nhân sau khi tôi thoát khỏi ngục tù cộng sản.

Hoả Lò ngày 6/12/2016

Nguồn: FB Trịnh Bá Phương
Hàng loạt các quan chức cấp cao của Việt Nam lợi dụng hình thức đi nước ngoài khám bệnh hoặc đi du học để rời khỏi VN ngay sau khi có quyết định truy tố trước pháp luật do những sai phạm trong quá trình làm việc. Sự việc này cùng với những phiên toà vừa diễn ra cũng ở VN để xét xử nhóm người vượt biên sang Úc và New Zealand nhưng bị chính phủ bắt giữ và trả về nói lên điều gì trong xã hội VN hiện tại?

Cuộc di dân thứ ba?

Lịch sử Việt Nam ghi dấu hai cuộc di tản được cho là vĩ đại nhất chưa từng có trong lịch sử thế giới: Cuộc tản cư 1954 kéo dài gần 3 tháng sau ngày ký Hiệp định Geneva chia cắt hai miền Nam, Bắc; và cuộc di tản diễn ra từ ngày 30 tháng 4 năm 1975 kéo dài cho đến hơn mười năm sau đó.

Bài viết của tác giả Vũ Cao Đàm trên trang Bauxite Việt Nam vào ngày 22-4-2015 cho rằng “cuộc di tản sau 1975 thường được nói đến sau khi chế độ Việt Nam Cộng Hoà sụp đổ.” Và cũng chính tác giả này đã đưa ra nhận định: “Theo tôi, đó chỉ là điểm khởi đầu cho cuộc di dân thứ ba. Cuộc di dân này đang còn tiếp diễn cho đến ngày hôm nay và chưa có dấu hiệu chấm dứt.

Những diễn biến trong nước trong năm nay có thể xem như là minh chứng cho nhận định trên của tác giả Vũ Cao Đàm.



Cuộc trốn chạy tìm hạnh phúc

Toà án La Gi, tỉnh Bình Thuận vào tháng 5-2016 đã xét xử vụ án 46 người, trong đó có cả trẻ em mà cháu nhỏ nhất là 4 tuổi, vào đầu tháng 7-2015 đã dùng thuyền để vượt biên đến Úca nhằm tìm qui chế tỵ nạn. Thế nhưng tàu của họ bị hải quân Úc chặn bắt ngoài biển và sau đó bị đưa về VN. Cho dù thủ phủ Canberra có được cam kết từ Hà Nội sẽ không trả thù những người ra đi, thế nhưng cuối cùng toà án tỉnh Bình Thuận vẫn tuyên án tù bốn người trong số họ.

Một phiên toà khác diễn ra vào ngày 13-12 vừa qua ở toà án tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu, tuyên án nhóm người dùng thuyền đưa người vượt biên đến New Zealand nhưng bị lực lượng chức năng Úc bắt và trả về Việt Nam vào tháng 6-2016. Hai trong số bốn bị cáo với tội danh “vượt biên” này bị kết án tù giam và hai người còn lại hưởng án treo.

Luật sư Võ An Đôn, người nhận bào chữa miễn phí cho bị cáo của cả hai phiên toà cho biết lý do những người này phải chọn con đường mà cách đây hơn 40 năm, hàng ngàn người Việt Nam đã phải chọn, đó là họ mong muốn có việc làm và cuộc sống tốt hơn: “Với tư cách là luật sư bào chữa cho những người vượt biên thì tôi cũng rất thông cảm cho hoàn cảnh của họ. Bởi vì người ta chỉ mong muốn điều tốt cho gia đình và bản thân của người ta. Mong muốn có việc làm, có thu nhập, con cái được học hành tốt hơn cho cuộc sống tốt hơn. Nhưng hiện tại thì ở xã hội Việt Nam không đáp ứng được nhu cầu đó nên người ta tìm cách vượt biên sang các nước khác có điều kiện tốt hơn. Đó là một nhu cầu của con người thôi.

Cái nhu cầu được mưu cầu hạnh phúc tưởng chừng như rất cơ bản này, hơn 40 năm trước, hàng ngàn người VN phải đi tìm bằng cách ít nhất 1 lần bỏ nơi chôn nhau cắt rốn, “khấn nguyện mười phương tám hướng”, xin được đổi lấy bằng chính mạng sống của họ.

Bà Trần Thị Thanh Loan, bị cáo trong phiên toà tỉnh Bình Thuận tháng 5 vừa qua bày tỏ nguyên nhân mà bà cùng chồng và 4 người con trong đó đứa nhỏ nhất mới 4 tuổi, phải tìm cách vượt biển là vì khó khăn trong cuộc sống: “Lúc đó tụi em hoàn cảnh khó khăn, nhà cửa không có. Trước đó làm lên cái nhà thì bị bên cưỡng chế người ta đập phá hết rồi, rồi làm ăn cũng khó khăn nữa. Em thấy vậy thì em đi, lúc đó cũng không suy nghĩ gì nữa.



Bà Trần Thị Lụa, cũng là bị cáo trong phiên toà đó cho biết: “Ở đây khổ quá thì mới đi. Làm ở đây khổ quá không đủ để nuôi con, sống không có đủ cho nên muốn qua làm có đồng tiền, đời sống con cái khác hẳn ở Việt Nam.

Những cuộc vượt biên với mục đích nhằm tìm đến cái nhu cầu cơ bản của con người ấy đều thất bại. Tất cả những người vì đời sống tốt đẹp hơn cho thế hệ con cháu đời sau đều trở thành bị cáo của những phiên toà diễn ra nơi chính mảnh đất họ dứt áo ra đi vì không còn hy vọng tìm thấy hạnh phúc.

Ở cuộc di dân thứ 3, họ phải chịu những bản án tù giam.

Cuộc tháo chạy sau khi bị cáo buộc tội

Hoà vào dòng người vượt biên chạy trốn khỏi chế độ là một cuộc tháo chạy khác từ những quan chức từng cai trị và gián tiếp xua đuổi họ khỏi đất nước Việt Nam.

Đó là cuộc tháo chạy của Trịnh Xuân Thanh, nguyên phó chủ tịch tỉnh Hậu Giang, nguyên Chủ tịch hội đồng quảng trị Tổng công ty cổ phần xây lắp dầu khí Việt Nam; của Vũ Đình Duy, nguyên Tổng giám đốc công ty Cổ phần Hoá dầu và Xơ sợi dầu khí; của Lê Chung Dũng, nguyên Phó Tổng Giám đốc công ty điện lực dầu khí Việt Nam. Đây là những quan chức cấp cao từng nắm giữ quyền và trách nhiệm đối với sự phát triển kinh tế của đất nước.

Tại phiên chất vấn quốc hội ngày 16- 11, đại biểu Ngô Văn Minh đặt câu hỏi với Bộ trưởng Nội vụ về v/đ của Trịnh Xuân Thanh, bị cáo buộc làm trái các nguyên tắc gây hậu quả nặng nề: “Đề nghị cho biết có bao nhiêu cán bộ luân chuyển theo đường ‘tiểu ngạch’ như Trịnh Xuân Thanh”

Sự việc của Trịnh Xuân Thanh là diễn biến được Giáo sư Đoàn Viết Hoạt, người từng ngồi tù ở Việt Nam hơn 20 năm, từ Washing-ton D.C cho là “mở đường” cho những cuộc chạy trốn bằng hình thức ra nước ngoài chữa bệnh hoặc du học hoặc… mất tích.

Ông cho chúng tôi biết: việc bỏ chạy của cả quan chức lẫn người dân trong thời đại này là báo động một chế độ không thể tồn tại lâu dài được. Nói về những cuộc “di dân” trong thế kỷ 20 này, ông nhận xét có một điểm chung: “Nó nói lên thực trạng của đất nước sau hơn nửa thế kỷ nằm dưới sự cai trị của chế độ CS. Đó là đất nước đã vào tình trạng mà người dân không tìm thấy tự do và hạnh phúc ngay trên đất nước của mình, họ chỉ có thể tìm thấy tự do và hạnh phúc ở ngoài đất nước Việt Nam. Đó là tình trạng bi thảm và tình trạng đó không thể nào tiếp tục tồn tại được.

Không chỉ riêng người dân ở mọi thành phần, mà cả những diễn biến đang xảy ra trong bộ máy nhà nước VN cho thấy ngay cả những người quan chức trong ban lãnh đạo cấp cao của ĐCS vẫn không cảm thấy yên: “Vấn đề là cơ chế đó đã tạo ra sự rạn nứt và sự rạn nứt đó, để được an toàn và tự do thì họ không còn có thể ở trong nước được nữa. điều đó không xảy ra cách đây 30 năm hay 20 năm đối với cán bộ và đảng viên cao cấp của đảng Cộng sản. Cái đất nước đã đến cái giai đoạn mà cả những người cầm quyền lẫn người dân đã không còn có thể yên ổn ở trong nước được. Vì thế tôi nghĩ là nó có tính chất tương đối giống nhau là vậy.

Sự khác biệt

Cùng mang hình thức giống nhau là trốn chạy khỏi đất nước, thế nhưng tính chất của hai hình thức này hoàn toàn khác nhau. Giáo sư Đoàn Viết Hoạt nhận định: “Có khác nhau. Một bên là do tham nhũng hối lộ, một bên là do vì thiếu sự tự do hạnh phúc.

Quan chức tháo chạy khỏi đất nước vì lý do bị cáo buộc tội tham nhũng hối lộ. Người dân trốn chạy khỏi đất nước vì không tìm thấy tự do hạnh phúc và cuộc sống tốt đẹp.

Người Việt ra đi, bị bắt, bị giam hãm trở lại từ nơi phát xuất. Riêng nhóm người đang được chính quyền Việt Nam cho là tội phạm bỏ chạy khỏi nước rồi phải trả lời ra sao khi có người hỏi họ về lý do khiến phải rời bỏ quê cha đất tổ?

  Đài Á Châu Tự Do
GẦN 9 NĂM TÙ GIAM CHO 4 NGƯỜI XUẤT CẢNH QUA NEW ZEALAND

GNsP 13-12-2016

Tòa án Nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu tuyên 106 tháng tù giam cho 4 thuyền nhân với tội danh “tổ chức, môi giới cho người khác trốn đi nước ngoài”, theo điều 349 BLHS năm 2015. Hình phạt cụ thể tòa tuyên án ông Nguyễn Tuấn Kiệt 3 năm tù giam, Nguyễn Giao Thông 3 năm 6 tháng tù giam, bà Huỳnh Thị Mỹ Vân 18 tháng tù treo và ông Vũ Tuấn Khanh 10 tháng tù treo.

Chứng cứ tòa đưa ra để kết tội 4 thuyền nhân này là cho rằng đã mua ghe, lương thực và rủ người khác cùng đi xuất cảnh. Có hai Luật sư tham gia bào chữa trong vụ án này, gồm Luật sư Võ An Đôn và Luật sư Nguyễn Khả Thành. Cả 2 ở Phú Yên.

Luật sư Võ An Đôn cho GNsP biết diễn biến phiên tòa: “VKS tỉnh Bà Rịa–Vũng Tàu truy tố các bị cáo về “tội tổ chức, môi giới cho người khác trốn đi nước ngoài”, tại khoản 3 Điều 349 BLHS 2015 có khung hình phạt từ 7-15 năm tù. VKS cho rằng những người này đã mua lương thực, mua ghe, rủ rê người khác đi vượt biên. VKS truy tố các bị cáo khoản 3 là không đúng vì bất lợi cho các bị cáo. Qua phần tranh luận, các Luật sư tham gia bào chữa cho các bị cáo cho rằng, hành vi vượt biên của bị cáo xảy ra vào thời điểm 18-05-2016 thì Bộ luật Hình sự mới [năm 2015] chưa có hiệu lực thi hành và áp dụng BLHS mới gây bất lợi cho bị cáo. Cho nên, cuối cùng, Hội đồng xét xử đã nghị án và tuyên án là áp dụng tất cả các bị cáo vào khoản 1 đ. 349 BLHS 2015.”

Ls Đôn cho biết thêm: “Trong giai đoạn khởi tố, cơ quan điều tra Bà Rịa –Vũng Tàu truy tố những người này theo Điều 275 BLHS 1999, còn VKS truy tố [nhóm người này] theo đ. 349 BLHS 2015. Bởi vì VKS cho rằng, tổng thể điều 349 BLHS 2015 có mức hình phạt nhẹ hơn Điều 275 BLHS 1999. Nhưng khi áp dụng vào trường hợp cụ thể này thì nó lại nặng hơn gấp đôi. Nghĩa là nếu áp dụng điều luật cũ thì trong trường hợp này chỉ từ 2-7 năm tù giam, nhưng áp dụng điều luật mới thì từ 7-15 năm. Cho nên tòa đã chấp nhận truy tố khoản 1 Điều 349 BLHS 2015 từ 01-05 năm. Nếu tòa áp dụng khoản 3 [điều 349 BLHS 2015] là vi phạm pháp luật, bởi vì nó bất lợi, trong khi đó luật hình sự chưa có hiệu lực thi hành và luật hướng dẫn chỉ áp dụng những điều khoản có lợi [cho người dân] còn bất lợi thì không được áp dụng.”

Về vụ án, do hoàn cảnh kinh tế nghèo và gặp nhiều khó khăn, vợ chồng ông Nguyễn Tuấn Kiệt và bà Huỳnh Thị Mỹ Vân cùng nhiều người khác góp sức vượt biển sang New Zealand với mong muốn có cuộc sống ổn định và tốt hơn. Vào ngày 18-05-2016, từ cảng Long Hải, 21 người gồm đàn ông, phụ nữ và trẻ em cùng đi trên một chiếc ghe đánh cá vượt biển như dự định. Tuy nhiên, khi đến lãnh hải Úc đã bị hải quân bắt giữ vào ngày 10-06-2016. Sáu ngày sau, vào ngày 16-06-2016, chính phủ Úc đã trao trả 21 thuyền nhân về VN.

Luật sư Đôn nhấn mạnh: khi các thuyền nhân này về đến VN, đại diện Chính phủ Úc hứa: “Phía VN cam kết người vượt biên trả về sẽ không bị bắt bớ, tù đày, tạo điều kiện cho các bạn có công ăn việc làm, con em các bạn được đến trường và sớm hòa nhập cộng đồng”.

Tuy nhiên, khi các thuyền nhân vừa bước xuống phi trường, giới chức địa phương đã đưa 21 thuyền nhân về trụ sở Công an tỉnh Bà Rịa–Vũng Tàu để điều tra, lấy lời khai. Ông Kiệt và ông Thông bị bắt tạm giam từ đó cho đến ngày xét xử.



Rõ ràng “đừng nghe những gì cộng sản nói, mà hãy nhìn kỹ những gì cộng sản làm” vẫn còn tính thời sự.

Huyền Trang, GNsP



S 258 Trang


tải về 0.78 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương