TỔ chức thưƠng mại thế giới I. Bối cảnh ra đời của Tổ chức Thương mại Thế giới (wto)



tải về 258.17 Kb.
trang2/4
Chuyển đổi dữ liệu14.08.2016
Kích258.17 Kb.
#19468
1   2   3   4

1. Thương mại Hàng hoá
Hiệp định chủ chốt điều chỉnh lĩnh vực thương mại hàng hoá của WTO là GATT 1994.

Nội dung cơ bản của GATT:
GATT đưa ra các nguyên tắc cơ bản để tiến hành thương mại hàng hoá giữa các nước thành viên, đó là nguyên tắc MFN, NT, không hạn chế số lượng, các hiệp định thương mại khu vực, các điều khoản ưu tiên và ưu đãi dành cho các nước đang và chậm phát triển, các quy tắc về đàm phán, ràng buộc thuế quan và đàm phán lại... GATT cũng có các điều khoản cơ bản về các vấn đề chống bán phá giá, xác định trị giá hải quan, trợ cấp, tự vệ khẩn cấp... tuy nhiên những điều khoản này chưa đầy đủ và chi tiết, sau này chúng đã được cụ thể hoá thành các hiệp định riêng biệt.
Mục tiêu cơ bản của GATT là tạo cơ sở để tiến hành giảm thuế quan không ngừng và ràng buộc chúng. Đến khi kết thúc vòng đàm phán Uruguay, các nước thành viên đã đưa ra các cam kết ràng buộc thuế đối với hầu hết các mặt hàng công nghiệp nhập khẩu.
Sau Vòng đàm phán Uruguay, các nước phát triển cam kết tiến hành cắt giảm thuế quan hàng công nghiệp từ 6,3% xuống còn trung bình là 3,8% trong vòng 5 năm, tính từ 1/1/1995. Giá trị hàng hoá nhập khẩu vào các nước này được miễn thuế hoàn toàn lên tới 44% (từ 20%). Số lượng các sản phẩm phải chịu thuế suất hải quan cao giảm xuống, số dòng thuế nhập khẩu từ tất cả các nước phải chịu thuế suất trên 15% giảm từ 7% xuống còn 5% (riêng đối với các nước đang phát triển thì mức giảm này là từ 9% xuống 5%). Ngày 26/3/1997, 40 nước chiếm 92% thương mại thế giới trong lĩnh vực công nghệ thông tin đã nhất trí miễn thuế và các loại phí khác cho tất cả các sản phẩm công nghệ thông tin nhập khẩu kể từ năm 2000. Số lượng các dòng thuế được ràng buộc cũng tăng nhanh. Các nước phát triển cam kết ràng buộc 99% dòng thuế của họ (từ mức 77%), các nước đang phát triển ràng buộc 73% (từ 21%), các nền kinh tế chuyển đổi 98% từ (73%).
Như vậy, nội dung chủ yếu của GATT là giảm và ràng buộc thuế quan hàng công nghiệp. Ngoài các danh mục ràng buộc thuế quan của các nước thành viên, GATT tạo cơ sở để tiếp tục tiến hành các cuộc đàm phán giảm thuế hơn nữa trong tương lai. GATT còn bao gồm cả các cam kết mở cửa thị trường của các quốc gia. Các cam kết này là một phần không thể tách rời của Hiệp định GATT. Bên cạnh đó, GATT cũng quy định những thủ tục cần thiết như tham vấn, bồi thường khi một nước muốn rút bỏ một ràng buộc thuế quan của mình, trong những trường hợp đặc biệt, cụ thể. GATT cũng có các quy định về các vấn đề như định giá tính thuế, hạn chế số lượng, tự vệ khẩn cấp, trợ cấp, bảo vệ cán cân thanh toán, gia nhập, rút lui, miễn trừ... Tuy vậy, trong khuôn khổ của GATT thì các vấn đề này chưa được đề cập chi tiết, cụ thể, theo kịp tình hình thương mại quốc tế. Vì vậy, sau Vòng đàm phán Uruguay, các nước thành viên đã nhất trí đưa ra các hiệp định cụ thể về các vấn đề này, bao gồm:
- Hiệp định Nông nghiệp (AoA)

- Hiệp định về các Biện pháp Vệ sinh Dịch tễ (SPS)

- Hiệp định Dệt may (ATC)

- Hiệp định về Hàng rào Kỹ thuật Cản trở Thương mại (TBT)

- Hiệp định về các Biện pháp Đầu tư liên quan đến Thương mại (TRIMs) (Phụ lục V)

- Hiệp định Chống Phá giá (Anti-dumping)

- Hiệp định Trị giá Hải quan (ACV)

- Hiệp định về Giám định Hàng hoá trước khi xuống tầu (PSI)

- Hiệp định về Quy tắc Xuất xứ (Rules of Origin)

- Hiệp định về Giấy phép Nhập khẩu (Import Licensing)

- Hiệp định về Trợ cấp và các Biện pháp Đối kháng (SCM)

- Hiệp định về các Biện pháp Tự vệ (AoS)


Lĩnh vực nông nghiệp trong WTO:
Hiệp định GATT điều chỉnh thương mại hàng công nghiệp giữa các quốc gia. Riêng hàng nông sản, do tính chất đặc biệt nhạy cảm của mình, từ trước đến nay vẫn được hưởng nhiều ngoại lệ. Mặc dù chỉ chiếm không quá 10% thương mại thế giới và không quá 5% GDP của rất nhiều nước, đặc biệt là các nước phát triển, nhưng thương mại nông sản luôn là đối tượng đàm phán rất nhạy cảm trong đàm phán thương mại quốc tế.
Thương mại nông sản là lĩnh vực được bảo hộ cao nhất trong chính sách thương mại của các nước thành viên. Trong thời kỳ GATT, thương mại nông nghiệp hầu như vẫn chịu những quy chế riêng và chưa được đưa vào khuôn khổ của hệ thống đa biên. Nói như vậy vì hàng nông sản chịu thuế quan cao nhất, là đối tượng của chính sách bảo đảm an ninh lương thực và nông nghiệp được các nước phát triển áp dụng mức trợ cấp nông nghiệp cao. Nông nghiệp thường là lĩnh vực tranh chấp và thách thức giữa các nước thành viên.
Nhằm tạo ra một khuôn khổ cho thương mại hàng nông sản thế giới và tăng cường trao đổi mặt hàng này, cuối vòng đàm phán Uruguay, các nước đã cùng nhau ký Hiệp định Nông nghiệp. Hiệp định Nông nghiệp đã đạt được những thoả thuận về mở cửa thị trường nông sản, thuế hoá các biện pháp phi thuế và giảm trợ cấp cũng như mức hỗ trợ trong nước của các nước thành viên.

+ Giảm trợ cấp xuất khẩu nông sản:
Các nước công nghiệp sẽ cắt giảm 36% nguồn ngân sách để trợ cấp dành cho xuất khẩu nông phẩm trong vòng 6 năm tính từ 1995; khối lượng hàng hoá được hưởng trợ cấp giảm 21% cũng trong thời gian trên. Trong giai đoạn thực thi 6 năm đó, các nước phát triển được phép sử dụng trợ cấp để giảm giá tiếp thị và vận chuyển hàng hoá xuất khẩu trong những trường hợp nhất định.
Các nước đang phát triển sẽ cắt giảm 24% nguồn ngân sách để trợ cấp dành cho xuất khẩu nông phẩm, khối lượng hàng hoá được hưởng trợ cấp sẽ được giảm 14% trong vòng 10 năm tính từ năm 1995.
Tỷ lệ trên được tính trên mức trung bình hàng năm của thời kỳ cơ sở 1986-90 và bắt đầu từ năm 1995. Các nước không được phép áp dụng thêm bất kỳ biện pháp trợ cấp xuất khẩu nào trước đây chưa tồn tại.
Các nước chậm phát triển không phải đưa ra các cam kết cắt giảm.
Các cam kết cắt giảm đó được coi là sẽ làm cho giá nông sản trên thế giới tăng lên.


  • + Mở cửa thị trường nông sản:



  • - Thuế hoá các hàng rào phi thuế với nông sản. Mức thuế hoá dựa trên việc tính toán tác động bảo hộ của biện pháp phi thuế đó nhằm đưa ra mức thuế quan có tác động bảo hộ tương đương.



  • - Các nước phát triển cam kết sẽ giảm thuế trung bình 36%, mức giảm tối thiểu với mỗi dòng thuế không ít hơn 15% và thực hiện trong 6 năm (1995-2000).



  • - Các nước đang phát triển cam kết sẽ giảm thuế trung bình 24%, mức giảm tối thiểu với mỗi dòng thuế không ít hơn 10% và thực hiện trong 10 năm (1995-2004).



  • Một vài nước có vấn đề an ninh lương thực đặc biệt nhạy cảm như Nhật, Hàn Quốc, Philippines và Israel được áp dụng ngoại lệ đặc biệt khi thuế hoá các biện pháp phi thuế và ngược lại họ có nghĩa vụ đẩy nhanh mức độ mở cửa thị trường cho hàng nhập khẩu. Ví dụ, mức mở cửa thị trường với Nhật được bắt đầu là 4% và có thể lên 8% vào năm 2000.



  • - Các nước cũng cam kết giữ mức mở cửa thị trường tối thiểu không thấp hơn mức trung bình của thời kỳ 1986-90 và không đưa ra thêm hàng rào phi thuế.


+ Trợ cấp trong nước với nông dân: Mức hỗ trợ tổng gộp trong nước (AMS) sẽ được cắt giảm ít nhất 20% (và với các nước đang phát triển là 13,3%) trong thời kỳ thực thi nói trên (6 và 10 năm), tính theo mức trung bình thời kỳ 1986-88.

+ Các biện pháp vệ sinh dịch tễ: các nước được phép tự mình đặt ra tiêu chuẩn vệ sinh nhưng chúng phải dựa trên cơ sở khoa học (khuyến khích sử dụng những tiêu chuẩn được công nhận rộng rãi trên thế giới).
Tuy vậy, đến nay, các nước đang phát triển cho rằng trên thực tế, quyền lợi của họ không được đảm bảo vì Hiệp định Nông nghiệp còn nhiều bất bình đẳng và nhiều nước đã không tuân thủ đầy đủ Hiệp định Nông nghiệp. Cụ thể là thị phần nông sản của các nước này không hề tăng so với trước Vòng đàm phán Uruguay (40% tổng sản phẩm nông nghiệp xuất khẩu thế giới, 43% tổng sản lượng sản phẩm nhập khẩu nông sản của các nước phát triển). Hỗ trợ nông nghiệp của các nước OECD vẫn còn rất cao, năm 1997 là 280 tỷ USD, năm 1998 là 307 tỷ USD, trong đó, EU chiếm tới 142 tỷ, Hoa Kỳ 100 tỷ và Nhật Bản 60 tỷ, năm 1998 là 362 tỷ USD (tăng khoảng 8% so với năm 1997).
Bảng: Mục tiêu cắt giảm trợ cấp - bảo hộ trong thương mại hàng nông sản







Các nước phát triển

(6 năm: 1995 - 2000)





Các nước đang phát triển

(10 năm, 1995 - 2004)




Thuế quan cắt giảm trung bình

- cho tất cả sản phẩm nông nghiệp

- tối thiểu cho từng sản phẩm

- 36%
- 15%


- 24%
- 10%




Trợ cấp trong nước

Tổng mức cắt giảm AMS (Giai đoạn cơ sở: 86-88)



-20%


-13%



Xuất khẩu

- Giá trị trợ cấp

- Khối lượng được trợ cấp (Giai đoạn cơ sở: 86-90)


-36%


-21%

-24%


-14%


Mức cơ sở cho cắt giảm thuế là mức ràng buộc trước ngày 1/1/1995, hoặc đối với những mặt hàng chưa được ràng buộc thì áp dụng mức thực tế vào tháng 9/1986 khi Vòng đàm phán Uruguay bắt đầu.


Theo như thoả thuận, nông nghiệp sẽ là một trong những chủ đề chính được thảo luận tại vòng đàm phán Thiên niên kỷ, dự kiến bắt đầu vào năm 2000. Tuy nhiên, do quyền lợi quốc gia của mình, các nước thành viên muốn đề cập đến vấn đề này ở những góc độ khác nhau. Các nước đang phát triển muốn thảo luận về việc mở cửa thị trường hơn nữa, giảm trợ cấp xuất khẩu và hỗ trợ trong nước cho nông nghiệp. Hoa Kỳ cũng cần mở rộng thị trường xuất khẩu cho nông sản của mình nên muốn tập trung vào việc cắt giảm hỗ trợ của EU đối với nông nghiệp, và đặc biệt chú ý đến vấn đề xây dựng cơ sở pháp lý cho việc xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp là kết quả của công nghệ tiên tiến. Trong khi đó, EU và Nhật Bản cùng một số nước khác lại vẫn muốn giữ quyền trợ cấp, không muốn nhập khẩu sản phẩm công nghệ sinh học với lý do bảo vệ sức khoẻ người tiêu dùng. Do vậy, chắc chắn các nước sẽ còn phải thảo luận rất nhiều về vấn đề nông nghiệp trong vòng đàm phán tới.



Hàng dệt và may
Giống như nông sản, hàng dệt may cũng là một vấn đề hóc búa trong WTO. Trước Vòng đàm phán Uruguay, thương mại hàng dệt may được điều chỉnh bởi Hiệp định Đa sợi (MFA). Hiệp định này cho phép các nước được ký kết các hiệp định song phương hoặc tiến hành các hành động đơn phương để đặt ra hạn ngạch nhập khẩu hàng dệt may. Hệ thống này rất bất lợi cho các nước đang phát triển, vốn rất có tiềm năng về mặt hàng này.
Tại Vòng đàm phán Uruguay, Hiệp định về hàng Dệt - May (ATC) đã được ký kết:
Hiệp định cũng quy định rõ chương trình nhất thể hoá các sản phẩm dệt và may vào hệ thống thương mại đa biên. Chương trình được triển khai trong vòng 10 năm (1995-2005), chia làm 4 giai đoạn. Tỷ lệ tối thiểu các sản phẩm được nhất thể hoá của từng giai đoạn sẽ là 16, 17 và 18% và trước ngày 1 tháng 1 năm 2005, toàn bộ sản phẩm hàng dệt và may sẽ hoàn toàn được hoà nhập vào hệ thống chính sách thương mại đa phương của WTO.
Việc thực thi Hiệp định Dệt - May được thực hiện thành hai tuyến:


  • - Đưa những sản phẩm vào chịu sự điều chỉnh của cơ chế thương mại đa biên và một khi những sản phẩm đó được nhất thể hoá (integrated) thì không được áp dụng hạn chế số lượng nữa.



  • - Nới lỏng các hạn chế số lượng với các sản phẩm còn lại, từ hạn mức cơ sở được xác định (với mức tối thiểu quy định) và áp dụng cơ chế linh hoạt cho nước xuất khẩu sử dụng hạn chế đó. Nước áp dụng hạn ngạch cần thông báo rõ các tiêu thức trên. Trong thời gian chuyển tiếp, dần dần tự do hoá thương mại đưa những mặt hàng trước đây thuộc diện áp dụng hạn ngạch.

Hiệp định cũng cho phép trong thời kỳ chuyển tiếp được áp dụng những biện pháp tự vệ. Chỉ những thành viên đã tiến hành những chương trình “nhất thể hoá” được áp dụng những biện pháp này. Việc áp dụng chỉ có thể được tiến hành trên cơ sở đã thực hiện hai bước liên tiếp: (1) chứng minh được có sự tổn hại hay đe doạ gây tổn hại do nhập khẩu tăng lên đột ngột và (2) có mối liên hệ trực tiếp giữa sự tổn hại đó với sự tăng vọt số lượng nhập khẩu đó.


Mặc dù có những kết quả tích cực như vậy, nhưng cho đến nay, sau 4 năm Hiệp định ATC có hiệu lực, các nước đang phát triển vẫn cho rằng quyền lợi của các nước này không được đảm bảo do việc thực thi hiệp định này vẫn còn nhiều điểm cần phải xem xét. Các nước này yêu cầu các nước phát triển tích cực thực thi ATC hơn nữa.

Bảng: Thực thi Hiệp định Dệt - May



Giai đoạn



% sản phẩm được đưa vào GATT (bao gồm cả việc dỡ bỏ hạn ngạch)

Tốc độ nới lỏng hạn ngạch hiện nay

(nếu mức năm 1994 là 6%)



Giai đoạn I:

1/1/1995 - 31/12/1997



16%

6,69%/năm

Giai đoạn II:

1/1/1998 - 31/12/2001



17%

8,7%/năm

Giai đoạn III:

1/1/2002 - 31/12/2004



18%

11,05%/năm

Giai đoạn IV: từ 1/1/2005

Nhất thể hoá hoàn toàn vào GATT (và xoá bỏ mọi hạn ngạch). Hiệp định ATC chấm dứt.


49%


(tối đa)

Không còn hạn ngạch




áp dụng mức nhập khẩu năm 1990 làm cơ sở.



Cơ quan Giám sát Hàng dệt được WTO thiết lập để đảm bảo việc thực thi Hiệp định ATC một cách nghiêm túc.
Hiệp định về biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại (TRIMs)
Trước đây, khi bắt đầu Vòng đàm phán Uruguay, các bên có tham vọng đi dến một hiệp định đầu tư đa phương tương đối toàn diện, đề cập đến cả các vấn đề chính sách có tác động tới lưu chuyển đầu tư trực tiếp nước ngoài, vấn đề áp dụng các nguyên tắc của GATT là Đãi ngộ quốc gia (cho các công ty nước ngoài được hưởng các quyền lợi tương tự như các công ty trong nước về đầu tư, thành lập và hoạt động trong nội địa) và nguyên tắc Tối huệ quốc (không cho phép các nước phân biệt đối xử giữa các nguồn đầu tư khác nhau) trong đầu tư. Tuy nhiên, những đề xuất, mặc dù được các nước phát triển rất ủng hộ, đã vấp phải sự phản đối mạnh mẽ từ phía các nước đang phát triển, với lý do là khuôn khổ GATT không cho phép đàm phán các vấn đề đầu tư và nếu tiến hành đàm phán thì phải đưa cả vấn đề buôn bán giữa các công ty xuyên quốc gia như giá chuyển nhượng, các biện pháp hạn chế kinh doanh và các hành vi khác vào phạm vi đàm phán. Kết quả là trong vòng đàm phán này, các nước chỉ đề cập đến đầu tư trong một phạm vi hẹp - các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại (TRIMs).
Trong số rất nhiều các biện pháp đầu tư có tác động bóp méo thương mại, Hiệp định TRIMs không cho phép các nước thành viên áp dụng 5 biện pháp được coi là vi phạm nguyên tắc đãi ngộ quốc gia và không hạn chế số lượng sau đây:

Các TRIMS không phù hợp với nguyên tắc đãi ngộ quốc gia, tức là gây ra sự phân biệt đối xử giữa hàng trong nước và hàng nhập khẩu:

- yêu cầu các doanh nghiệp phải mua hoặc sử dụng các sản phẩm có xuất xứ trong nước hoặc từ một nguồn cung cấp trong nước, hoặc

- yêu cầu doanh nghiệp chỉ được mua hoặc sử dụng các sản phẩm nhập khẩu được giới hạn trong một tổng số tính theo số lượng hoặc giá trị sản phẩm nội địa mà doanh nghiệp này xuất khẩu.

Các TRIMS không phù hợp với điều XI - Hiệp định GATT về nghĩa vụ loại bỏ các biện pháp hạn chế định lượng đối với xuất, nhập khẩu:

- hạn chế việc doanh nghiệp nhập khẩu dưới hình thức hạn chế chung hoặc hạn chế trong một tổng số liên quan đến số lượng hoặc giá trị sản xuất trong nước mà doanh nghiệp đó xuất khẩu;

- hạn chế việc doanh nghiệp nhập khẩu bằng cách hạn chế khả năng tiếp cận đến nguồn ngoại hối liên quan đến nguồn thu ngoại hối của doanh nghiệp này;

- hạn chế việc doanh nghiệp xuất khẩu hoặc bán để xuất khẩu các sản phẩm cho dù được quy định dưới hình thức sản phẩm cụ thể hay dưới hình thức số lượng hoặc giá trị sản xuất trong nước của doanh nghiệp.


Các nước được hưởng một khoảng thời gian chuyển tiếp để loại bỏ dần dần các biện pháp nêu trên. Thời gian chuyển tiếp với các nước phát triển là 2 năm, với các nước đang phát triển là 5 năm và các nước chậm phát triển là 7 năm, tính từ ngày 1/1/1995.
(Xem thêm Phụ lục 3)
2. Thương mại dịch vụ
Ngày nay, hoạt động thương mại dịch vụ giữa các nước thành viên WTO được điều chỉnh bởi Hiệp định chung về Thương mại Dịch vụ (GATS). GATS bao gồm:
- Các quy định và nguyên tắc chung được trình bày trong Hiệp định chung

- Các phụ lục của GATS và các quyết định cấp Bộ trưởng

Phụ lục về Miễn trừ MFN

Phụ lục về Di chuyển của tự nhiên nhân của dịch vụ

Phụ lục về Dịch vụ Vận tải hàng không

Phụ lục về Dịch vụ tài chính

Phụ lục về Vận tải biển

Phụ lục về Viễn thông cơ bản

- Các cam kết của từng nước về các lĩnh vực dịch vụ cụ thể, về áp dụng MFN, NT và mở cửa thị trường trong các lĩnh vực đó.
Nội dung cơ bản của Hiệp định GATS

Hiệp định GATS bao gồm 29 điều khoản, quy định các quy tắc và nghĩa vụ cơ bản.


Các lĩnh vực dịch vụ được điều chỉnh bởi GATS bao gồm một diện rộng với 11 ngành và 155 tiểu ngành, được phân định thống nhất theo danh mục CPC (Danh mục phân loại sản phẩm theo tiêu chuẩn Liên hợp quốc).
GATS đề cập đến lĩnh vực rộng lớn này qua bốn phương thức cung cấp dịch vụ:



  1. - Cung cấp dịch vụ qua biên giới: Dịch vụ được cung cấp thông qua sự vận động của bản thân dịch vụ đó xuyên biên giới, tức là được cung cấp từ lãnh thổ nước này sang lãnh thổ nước khác (chỉ có dịch vụ di chuyển, không có sự di chuyển của người cung cấp dịch vụ) - ví dụ truyền hình tại chỗ một hoạt động văn hoá thể thao.



  1. - Tiêu dùng dịch vụ ở nước ngoài - ví dụ đi du lịch và tiêu thụ dịch vụ ở nước ngoài. Dịch vụ được cung cấp trong lãnh thổ của một nước thành viên cho người tiêu dùng dịch vụ của nước khác.



  1. - Hiện diện thương mại - tức là cung cấp dịch vụ qua việc thiết lập cơ sở thường trú hoặc công ty tại lãnh thổ một nước thành viên khác.



  1. - Hiện diện của tự nhiên nhân - tức là việc cung cấp dịch vụ được thực hiện bởi người cung cấp dịch vụ hoặc người làm công của nhà cung cấp dịch vụ (các kỹ thuật viên, nhân viên cung cấp dịch vụ) tại lãnh thổ của một nước khác.




  1. Trong bốn phương thức cung cấp dịch vụ kể trên, hiện diện thương mại được coi là phương thức được các thành viên quan tâm nhất và cũng có nhiều cam kết chi tiết nhất.

Nhìn chung, Hiệp định Thương mại Dịch vụ mới đạt được kết quả có mức độ về mở cửa thị trường; thành công nhất của GATS là đã mở rộng được diện điều chỉnh của hệ thống thương mại đa biên, đặc biệt là bao trùm cả những lĩnh vực như đầu tư trực tiếp của nước ngoài, trình độ chuyên môn, sự di chuyển của tự nhiên nhân và cung cấp dữ liệu qua biên giới. Những tiền đề đó đã hợp pháp hoá khuôn khổ pháp lý ban đầu chung cho các nước và là xuất phát điểm để các quốc gia tiếp tục đàm phán cụ thể hơn về những lĩnh vực đầy tiềm năng này qua các vòng đàm phán trong tương lai.


Về Đãi ngộ Tối huệ quốc (MFN) trong thương mại dịch vụ, đây là nghĩa vụ bắt buộc của các nước thành viên. Các nước cam kết dành cho nhau những "ưu đãi" như nhau đối với mọi lĩnh vực dịch vụ. Tuy vậy, Hiệp định GATS cho phép mỗi thành viên đưa ra những ngoại lệ của MFN. Ví dụ, Việt Nam có thể đưa một cam kết về ưu đãi song biên trong hợp tác du lịch ký với Thái Lan vào danh mục và ưu đãi đó không được mở rộng cho các thành viên WTO.
Về Đãi ngộ quốc gia(NT), sự áp dụng còn tuỳ thuộc vào điều kiện đạt được trong đàm phán. NT không được áp dụng một cách tự động. Trên cơ sở kết quả các cuộc đàm phán tự do hoá dịch vụ và các cam kết của các nước thành viên đến nay, việc áp dụng NT trong thương mại dịch vụ còn rất chừng mực.
Về Cam kết mở cửa thị trường cụ thể của mỗi thành viên trong từng ngành, tiểu ngành dịch vụ: được tổng hợp trong một Danh mục các Cam kết. Danh mục này tuỳ thuộc vào kết quả đàm phán trên cơ sở trao đổi.
Sau Vòng đàm phán Uruguay, nhiều cuộc đàm phán về thương mại dịch vụ đã được tiến hành và đi đến ký kết một số hiệp định về thông tin viễn thông cơ bản, công nghệ thông tin, dịch vụ tài chính v.v... Tính đến nay, đàm phán về dịch vụ viễn thông cơ bản đã kết thúc vào tháng 2 năm 1997 và đàm phán về dịch vụ tài chính đã kết thúc vào trung tuần tháng 12 năm 1997. Trong các cuộc đàm phán này, các thành viên đã đạt được phạm vi cam kết rộng hơn. Các hiệp định này được coi là những bước tiến lớn trong quá trình tự do hoá thương mại dịch vụ kể từ khi WTO được thành lập. Các nước cũng đã hoàn tất việc đưa các cam kết này vào Bảng cam kết theo quy định của điều XXI-GATS. (Xem thêm Phụ lục IV).
Chắc chắn thương mại dịch vụ sẽ đạt tốc độ tăng trưởng vượt xa thương mại hàng hoá trong một vài thập kỷ tới. Đàm phán thương mại dịch vụ sẽ có tầm quan trọng lớn hơn trên diễn đàn WTO, diễn đàn khu vực và liên khu vực. Các nước thành viên cũng đã nhất trí về một Chương trình Nghị sự để tiếp tục đàm phán mở rộng tự do hoá thương mại dịch vụ vào Thiên niên kỷ mới; trong số những chủ đề đã được dự kiến có các biện pháp tự vệ tình huống, mua sắm của chính phủ, trợ cấp, quy chế nội địa về trình độ chuyên môn, v.v...
Nội dung đàm phán thương mại dịch vụ đã được các nước nhất trí đưa ra thảo luận tại Vòng đàm phán mới, với các mục tiêu như sau:
- Tiếp tục mở rộng minh bạch hoá trong lĩnh vực dịch vụ;

- Tự do hoá hơn nữa;

- Tăng cường lợi ích của các nước trên nguyên tác cùng có lợi;

- Tăng cường sự tham gia của các nước đang phát triển vào thương mại dịch vụ và xuất khẩu dịch vụ.


Phạm vi đàm phán trong vòng tới sẽ là:
- Giảm miễn trừ MFN;

- Các quy định nội địa mang tính chất quốc gia của các nước;

- Các biện pháp tự vệ trong trường hợp khẩn cấp;

- Mua sắm của chính phủ...;

- Các trợ cấp ảnh hưởng đến thương mại.
Về các quy tắc, luật lệ, các nước sẽ tập trung vào các vấn đề sau:
- Tuân thủ quy tắc đẩy nhanh tự do hoá như đã nếu trong GATS;

- Công nhận và tiếp tục thức đẩy quá trình tự do hoá đạt được từ các cuộc đàm phán trước đây;

- Đàm phán trên cơ sở song phương, đa phương và nhiều bên;

- Cơ sở đàm phán dựa trên những cam kết của các nước thành viên đưa ra vào lúc kết thúc Vòng Uruguay;

- Tăng cường sự tham gia của các nước đang phát triển.
Về khung thời gian cho đàm phán, nhìn chung nhiều nước ủng hộ việc:
- Thông qua các kết quả đàm phán của các lĩnh vực dịch vụ cùng lức và trên cơ sở chấp nhận toàn bộ, trừ những trường hợp đàm phán về các biện pháp tự vệ khẩn cấp;

- Công việc của nhóm thực hiện đàm phán cần hoàn thành trước cuối năm 2000;

- Cần tiến hành xem xét lại quá trình đàm phán 2 năm sau khi bắt đầu;

- Thời hạn đưa ra yêu cầu ban đầu và bản chào các cam kết cụ thể là nửa đầu năm 2000;



- Thời gian cho vòng đàm phán tới là 3 năm.
Các nước đang phát triển còn nêu ý kiến đề xuất mong muốn các nước phát triển dành những đối xử đặc biệt và ưu đãi hơn, nâng cao khả năng tiếp cận thị trường cho các nước này, trợ giúp kỹ thuật trong dịch vụ, hỗ trợ năng lực dịch vụ trong nước và tăng cường khả năng tiếp cận thị trường đối với các kênh phân phối và mạng lưới thông tin các nước.
Sau khi Hội nghị Bộ trưởng WTO tại Seattle đã không đưa ra được một vòng đàm phán toàn diện như mong đợi, các nước thành viên WTO đã nhất trí tiến hành đàm phán tự do hoá thương mại dịch vụ vào cuối tháng 2/2000.
(Xem thêm Phụ lục 4)
Каталог: sites -> default -> files -> wto
files -> BỘ TÀi chính —— Số: 25/2015/tt-btc cộng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
files -> CỘng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam độc lập Tự do Hạnh phúc TỜ khai của ngưỜi hưỞng trợ CẤP
files -> BỘ giáo dục và ĐÀo tạO –––– Số: 40
files -> BỘ y tế CỘng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam độc lập – Tự do – Hạnh phúc
files -> Mẫu số 1: Ban hành kèm theo Thông tư số 19/2003/tt-blđtbxh ngày 22 tháng 9 năm 2003 của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội Tên đơn vị Số V/v Đăng ký nội quy lao động CỘng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam độc lập Tự do Hạnh phúc
files -> CỦa bộ XÂy dựng số 04/2008/QĐ-bxd ngàY 03 tháng 4 NĂM 2008 VỀ việc ban hành “quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về quy hoạch xây dựNG”
wto -> HIỆP ĐỊnh chung về thuế quan và thưƠng mạI 1
wto -> Anh 01/01/1995 Arập Xê-út
wto -> Cam kết gia nhập wto của Việt Nam về ngành Ô tô Tình hình ngành ô tô khi Việt Nam gia nhập wto?

tải về 258.17 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương