TỪ chỉ VỊ trí trong tiếng nhật và tiếng việT


THö T×M HIÓU C¸CH THøC TRI NHËN THÕ GIíI CñA NG¦êI VIÖT (TR£N NG÷ LIÖU C¢U §è VÒ §éNG VËT)



tải về 6.42 Mb.
trang7/8
Chuyển đổi dữ liệu26.04.2018
Kích6.42 Mb.
#37198
1   2   3   4   5   6   7   8



THö T×M HIÓU C¸CH THøC TRI NHËN THÕ GIíI
CñA NG¦êI VIÖT (TR£N NG÷ LIÖU C¢U §è VÒ §éNG VËT)




KYÛ YEÁU HOÄI THAÛO QUOÁC TEÁ VIEÄT NAM HOÏC LAÀN THÖÙ BA

TIÓU BAN NG¤N NG÷ Vµ TIÕNG VIÖT






GS.TSKH Lý Toàn Thắng*, ThS Nguyễn Thị Thanh Huyền*


1. Dẫn nhập

Theo Humboldt, ngôn ngữ phải được nghiên cứu trong mối quan hệ chặt chẽ với ý thức và tư duy, với văn hoá và cuộc sống tinh thần của con người.

Theo ông, ngôn ngữ không phản ánh trực tiếp thế giới bên ngoài, mà nó cho thấy cái cách thức riêng của mỗi dân tộc trong việc giải thích thế giới. Ngôn ngữ khác nhau thì thế giới quan khác nhau, các ngôn ngữ khác nhau không phải là những cách biểu đạt khác nhau về thế giới mà là những cách nhìn thế giới khác nhau.

Cũng theo Humboldt, cần phải phân biệt giữa “hình thức bên trong” và “hình thức bên ngoài” của ngôn ngữ, của từ; trong đó “hình thức bên trong” gắn với thế giới quan của cộng đồng bản ngữ, còn “hình thức bên ngoài” thì gắn với ngữ âm, ngữ pháp v.v…

Trong lý thuyết định danh ngôn ngữ, áp dụng ý tưởng của Humboldt khi nói đến “hình thức bên trong” của từ người ta thường quy vào cái cách thức người bản ngữ lựa chọn đặc điểm/thuộc tính nào đó của vật làm cơ sở để đặt tên cho nó; điều này rất dễ thấy khi so sánh hai ngôn ngữ khác nhau như tiếng Anh và tiếng Việt, ví dụ: underpants (quần – dưới) tiếng Anh tương đương với quần lót/quần đùi trong tiếng Việt.

Tuy nhiên, có thể thấy rằng trong ngôn ngữ học hiện thời, cái công việc nghiên cứu “hình thức bên trong” này thường chỉ tập trung vào các từ, chứ không nhằm tới những kết cấu lớn hơn. Chính vì thế chúng tôi muốn dùng ngữ liệu của câu đố để mở ra một hướng mới trong địa hạt nghiên cứu về “định danh” và “hình thức bên trong” của ngôn ngữ.

Trong kho tàng văn học dân gian của Việt Nam, câu đố chiếm một số lượng đáng kể, không thua kém gì ca dao, tục ngữ hay các thể loại văn học truyền miệng khác. Câu đố cũng đóng một vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần của những người dân lao động từ thời xa xưa, và cho đến nay nó vẫn là một trò chơi được nhiều người ưa thích, thậm chí ở các diễn đàn website hiện thời có rất nhiều người trẻ tuổi tham gia trò chơi đố vui này.

Câu đố có hai phần: lời đố và lời giải. Trong lời đố bao giờ cũng có những mô tả về một hay một số đặc điểm/thuộc tính của vật được đem ra đố, có tác dụng như những chỉ dẫn để giúp người giải đố dựa vào đó mà suy đoán, tìm ra lời giải.

Người Việt thường đố nhau về những thứ có liên quan đến cuộc sống sinh hoạt hàng ngày, đến lao động sản xuất hay vui chơi giải trí, trong đó có hai mảng lớn nhất là câu đố về văn hoá và câu đố về tự nhiên. Trong câu đố về tự nhiên thì câu đố động vật và câu đố thực vật chiếm số lượng nhiều hơn cả; và chúng tôi lựa chọn mảng câu đố về động vật (400 câu) để tìm hiểu cách thức tri nhận thế giới của người Việt.

Câu đố động vật là câu đố mà vật đố là những con vật, thường là những con vật thân thuộc, gần gũi với đời sống hàng ngày của người dân lao động. Đôi khi, người ta còn đố về các bộ phận của cơ thể con vật như tai, đuôi, sừng… hoặc đố con vật đang ở một trạng thái nào đó như tắm, giao phối… Trong lời đố, con vật thường hay được nhân cách hoá thành con người và được miêu tả giống như một con người vậy. Đôi khi một con vật được nhân cách hoá thành nhiều người. Ví dụ:



Bốn ông đập đất,

Một ông phất cờ,

Một ông vơ cỏ,

Một ông bỏ phân.

(Con trâu)



2. Thuộc tính được chọn làm cơ sở “định danh” trong câu đố động vật

Người Việt thường ra câu đố về những con vật gần gũi thân quen với cuộc sống hàng ngày như: gà, trâu, bò, chó, cua, ghẹ, ốc, nhện, chấy, rận, cá, tôm, dơi, mèo, muỗi, rùa, cóc, ếch, voi, kiến, chuột, đom đóm, rắn, vịt, ong… Trong lời đố, những con vật này thường được miêu tả với một số thuộc tính/đặc điểm nào đấy (chúng tôi tạm gọi là để “định danh” con vật), nhằm định hướng và gợi mở cho người giải đố; cụ thể là trong 400 câu đố được khảo sát, chúng tôi tìm thấy 22 tiêu chí được sử dụng như là cơ sở định danh cho các con vật, với các mức độ khác nhau từ nhiều đến ít. Các đặc điểm này hầu hết được sử dụng kết hợp với nhau, và càng có nhiều đặc điểm trong cùng một câu đố thì bức tranh về con vật càng rõ ràng, chi tiết và cụ thể hơn.

Dưới đây là danh sách các đặc điểm “định danh” trong câu đố động vật được sắp xếp theo thứ tự sử dụng từ nhiều đến ít: 1


  1. Cấu tạo cơ thể: 129/400 câu

  2. Hình thức và hình dạng: 126/400 câu

  3. Môi trường sống: 93/400 câu

  4. Tập tính, lối sống: 69/400 câu

  5. Vai trò, chức năng và mối quan hệ với con người: 61/400 câu

  6. Kích cỡ cơ thể: 60/400 câu

  7. Cách thức di chuyển: 54/400 câu

  8. Màu sắc cơ thể: 53/400 câu

  9. Tiếng kêu: 50/400 câu

  10. Tên gọi: 47/400 câu

  11. Cách thức kiếm mồi và thức ăn: 44/400 câu

  12. Sinh trưởng, sinh dục: 25/400 câu

  13. Nguồn gốc: 14/400 câu

  14. Phản ứng (trước tác động của môi trường, tự nhiên, con người và loài vật khác): 13/400 câu

  15. Số lượng: 12/400 câu

  16. Mối quan hệ với loài vật khác: 8/400 câu

  17. Tính tình: 8/400 câu

  18. Bản năng sinh vật học: 7/400 câu

  19. Giống: 7/400 câu

  20. Vị trí: 4/400 câu

  21. Trí khôn: 2/400 câu

  22. Mùi: 2/400 câu.

Ngoài 22 đặc điểm miêu tả ở trên, người ta cũng sử dụng tục ngữ, ca dao hoặc truyện cổ, Truyện Kiều để tạo lời đố. Mặc dù chiếm số lượng không nhiều (10/400 câu), nhưng cách thức tạo ra câu đố kiểu này thể hiện sự gắn kết giữa các hình thức văn học dân gian và giữa văn học dân gian với văn học viết. Nó cũng thể hiện sự linh hoạt, uyển chuyển trong sáng tạo nghệ thuật của người bình dân Việt Nam. Ví dụ như câu đố về con công như sau:

Ai tô vẽ áo cho mày

Mỗi màu mỗi vẻ đẹp thay lạ lùng

Ơn người bao quản tấc công

Đã không báo đáp đem lòng khinh khi.

Đây là loại câu đố dựa vào nội dung của câu chuyện dân gian về con vật, đòi hỏi người giải đố phải biết nội dung câu chuyện, chứ không thể dựa vào kinh nghiệm của người đố về con vật hay về các đặc điểm của nó.

Trong một lời đố, hầu hết người ta thường miêu tả đồng thời một số thuộc tính của con vật. Chỉ một số ít câu đố là miêu tả riêng lẻ một đặc điểm nào đó của con vật, thường là về cấu tạo cơ thể, hình thức, tên gọi,… So sánh các ví dụ dưới đây:

+ Miêu tả chỉ một đặc điểm về cấu tạo cơ thể của con vật:



Có chân mà chẳng có tay,

Con mắt thì có lông mày thì không.

Có da mà chẳng có lông,

Con mắt thì có mà không có mày.

(Con rạm)

+ Miêu tả nhiều đặc điểm khác nhau của con vật:

Con chi mào đỏ,

Lông mượt như tơ;

Sáng sớm tinh mơ,

Gọi người ta dậy.

(Con gà trống)

Những đặc điểm được sử dụng nhiều nhất là những đặc điểm bề ngoài của con vật hoặc những đặc điểm dễ nhận thấy như cấu tạo cơ thể, hình thức và hình dạng, môi trường sống, tập tính lối sống, vai trò chức năng… Những đặc điểm như bản năng sinh vật học, giống, mùi, trí khôn,… ít được sử dụng nhất.

3. Cách thức liên tưởng, so sánh của người Việt trong câu đố động vật

Khi ra câu đố, thông thường người ta hay sử dụng thủ pháp so sánh: liên tưởng, so sánh con vật được đố hay một/một số đặc điểm nào đó của nó với một đối tượng khác (có thể là con vật có thể không). Sự liên tưởng, so sánh này cũng ít nhiều cho thấy cái “thế giới quan”, cái “cách nhìn thế giới” của riêng cộng đồng bản ngữ đó.

Trên cơ sở những đặc điểm được chọn làm cơ sở định danh trong 400 câu đố động vật đã khảo sát được ở phần trên, chúng tôi tìm hiểu cái cách thức người Việt liên tưởng, so sánh giữa con vật được đem ra đố và đối tượng được đem ra so sánh.

Dưới đây là những đặc điểm thường được liên tưởng, so sánh trong câu đố động vật:



1. So sánh dựa trên sự giống nhau về hình thức: (176/305 đơn vị so sánh; 58%)

Ví dụ:


Cái gì trông tựa con voi,

Nhưng ngà mọc ngược mà vòi lại không?

(Con trâu)

2. So sánh dựa trên sự giống nhau về kích cỡ: (45/305 đơn vị so sánh; 15%)

Ví dụ:


Vừa bằng hạt đỗ,

Ăn cỗ cả làng.

(Con ruồi)

3. So sánh đặc điểm cấu tạo cơ thể: (33/305 đơn vị so sánh; 11%)

Ví dụ:


Giúp người trải mấy ngàn thu,

Sao người lại bảo ta ngu vô cùng?

Sách ta luôn mang trong lòng,

Sao người bảo dốt, lạ lùng lắm thay?

(Con bò)


Ở đây, người ta sử dụng phép đồng âm của hai từ “sách”: 1) Sách có ý nghĩa là quyển sách. 2) Sách có ý nghĩa là một bộ phận cơ thể của con bò.

4. So sánh dựa trên sự giống nhau về màu sắc: (23/305 đơn vị liên tưởng; 7%)

Ví dụ:

Trên đầu một đoá phù dung đội,

Áo màu không cần kéo cắt may;

Tuy không phải anh hùng hảo hán,

Kêu được muôn nghìn cửa mở ngay.

(Con gà trống)

5. So sánh đặc điểm tiếng kêu: (10/305 đơn vị liên tưởng; 3%)

Ví dụ:


Mẹ đi trước đánh cồng đánh bạt,

Con đi sau vừa hát vừa reo.

(Gà mẹ và lũ con)

6. So sánh đặc điểm số lượng: (9/305 đơn vị liên tưởng; 3%)

Ví dụ:


Trong cây, dựng riêng triều đình,

Muôn binh ngàn tướng;

Xây cung điện,

Đắp luỹ đào hào,

Nhỏ to thứ lớp anh hào vũ văn.

(Tổ ong bộng)

7. So sánh đặc điểm về giống: (6/305 đơn vị liên tưởng; 2%)

Ví dụ:


Yểu điệu thục nữ,

Quân tử hảo cầu,

Lấy nhau được ba bốn ngày,

Để khi vợ đẻ cho ngay giường mềm.

Vợ đẻ cho vợ nằm yên,

Trông ra ngoài ngõ kêu liền “răng ca”!

Quẩn quanh bên vợ người ta,

Vợ nhà trông thấy, chạy ra kêu trời.

(Gà trống và gà mái)

8. So sánh đặc điểm môi trường sống: (2/305 đơn vị liên tưởng; 0,7%)

Ví dụ:


Nhà xây ở giữa rừng già,

Sinh con đẻ cháu, hằng hà, nhiều thay!

Thiên hạ bắt được, giết ngay,

Giết ngay thì chớ, còn bảo: mày là đàn ông!

(Con chấy)

9. So sánh đặc điểm về cách thức di chuyển: (1/305 đơn vị liên tưởng; 0,3%)

Ví dụ:


Trên toà son tượng vẽ,

Dưới ba điện long lanh,

Chén chị chén anh, bảo nhau toàn khách,

Mặc áo thái bạch, lên chào thượng thiên,

Học được phép tiên, đi mây về gió.

(Chim bồ câu và cái chuồng của chúng)

Trên đây là 9 đặc điểm/thuộc tính của con vật được miêu tả bằng cách liên tưởng, so sánh với những đối tượng khác có chung đặc điểm ở một mặt nào đó. Kết quả cho thấy hầu hết sự liên tưởng được thực hiện ở những đặc điểm ngoại hình như: hình thức, cấu tạo, kích cỡ, tên gọi, màu sắc… và những thuộc tính này đều thuộc vào số những đặc điểm được sử dụng nhiều hơn cả trong số 22 cơ sở định danh cho con vật (mà chúng tôi đã nghiên cứu ở mục I). Điều này một lần nữa cho thấy người Việt có xu hướng mô tả những đặc điểm hình dáng bề ngoài hay những gì mà người ta có thể quan sát trực tiếp bằng mắt được.

Tuy chỉ sử dụng có 9 thuộc tính, nhưng có tới 305 đơn vị từ vựng về đối tượng được dùng trong sự liên tưởng, so sánh ở các câu đố động vật; và có thể phân loại chúng thành 8 nhóm chính như sau:

1. Nhóm từ liên tưởng chỉ nhà cửa, đình chùa, thuyền bè: 66/305 (22%)

Ví dụ: gạch, nhà, cột đình, cột, kèo, thuyền, đình, mõ, cờ, chuông,…

2. Nhóm từ liên tưởng chỉ con người và các hoạt động của con người: 65/305 (21%)

Ví dụ: nắm tay, bàn tay, gái không chồng, ông thợ mộc, thằng gian, đập đất, phất cờ, quạt mát,…

4. Nhóm từ liên tưởng biểu thị các vật dụng sinh hoạt thường ngày: 53/305 (17%)

Ví dụ: con dao, chiếc chổi, cái lược, dao, cưa, cái kim, sợi chỉ,…

5. Nhóm từ liên tưởng biểu thị trang phục của con người: 46/305 (15%)

Ví dụ: áo khoác, áo giáp, áo gấm, yếm thắm, khăn trắng, áo bào,…

6. Nhóm liên tưởng biểu thị động vật và các bộ phận của chúng: 33/305 (11%)

Ví dụ: con bò, con voi, vịt, gà, trâu, rắn, mắt ngựa, hàm dê, hổ,…

7. Nhóm từ liên tưởng biểu thị thực vật: 27/305 (9%)

Ví dụ: quả mướp, quả chuối tiêu, hột lạc, hạt gạo, lá trầu, trái bầu,…

8. Nhóm từ liên tưởng biểu thị các sự vật và hiện tượng tự nhiên: 9/305 (3%)

Ví dụ: hột cát, hòn đá, tảng đá, rừng già, núi, trời mưa,…

9. Nhóm từ liên tưởng biểu thị vũ khí chiến đấu: 6/305 (2%)

Ví dụ: gươm, giáo, xe tăng,…

Qua số liệu thống kê ở trên có thể thấy: phần lớn con vật trong câu đố của người Việt được miêu tả bằng cách so sánh, liên tưởng đến những yếu tố thuộc về con người (chiếm tới 75% tổng số đơn vị từ liên tưởng), như: nhà cửa (22%); con người và các hoạt động của con người (21%); vật dụng sinh hoạt (17%); trang phục(15%).

Tóm lại, bước đầu tìm hiểu về thế giới động vật trong câu đố của người Việt và cách thức người Việt tri nhận nó, chúng tôi rút ra một vài nhận xét khái quát như sau:

+ Thứ nhất, những con vật xuất hiện nhiều trong câu đố của người Việt là con trâu, con bò, con gà, con vịt, con chuột, con mèo, con chó, con ốc, con ếch, con cua, các loại chim và cá, đom đóm, chuồn chuồn, chấy rận, ruồi, muỗi… Đó là những con vật gắn liền với cuộc sống nơi làng quê từ thủa xa xưa của những người nông dân Việt Nam: với hình ảnh con trâu làm việc cần mẫn trên cánh đồng lúa nước; các loài gia súc như gà, vịt, lợn, chó, mèo nhà nào cũng có; bên cạnh công việc đồng áng, người ta thường mò cua, bắt cá để cải thiện bữa ăn của gia đình; ngoài công việc chính là làm nông nghiệp, họ còn có những nghề phụ như nuôi tằm, dệt vải, v.v…

+ Thứ hai, người ta quan sát con vật rất tỉ mỉ và miêu tả chúng với những thuộc tính khác nhau, thường đó là những đặc điểm mang tính hình thức bề ngoài, nổi bật, dễ thấy.

+ Thứ ba, con vật trong câu đố thường được nhân cách hoá nên các đặc điểm của chúng thường được liên tưởng, so sánh với các đặc điểm của con người, khiến cho người giải đố đôi khi bị lẫn lộn, khó phân định được đâu là cái lốt phủ ngoài, đâu là đặc điểm, tính chất của con vật được đem ra đố.

+ Cuối cùng, cách nhìn loài vật và mô tả chúng trong câu đố về động vật của người Việt Nam thường mang tính khách quan, không hay bày tỏ sự yêu ghét (thậm chí ngay những con vật vốn mất thiện cảm như ruồi, muỗi, chấy, rận, đỉa,… cũng được nói đến trong lời đố một cách nhẹ nhàng, với những đặc điểm vốn có của chúng, đôi khi còn rất hài hước và dí dỏm).



TÀI LIỆU THAM KHẢO

    1. Ninh Viết Giao, Câu đố Việt Nam, NXB Văn học, 2008.

    2. Triều Nguyên, Câu đố của người Việt về tự nhiên, NXB Thuận Hoá, 2007.

    3. Hồ Anh Thái, Câu đố Việt Nam, NXB Hải Phòng, 2004.

    4. Nguyễn Văn Trung, Câu đố Việt Nam, NXB Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh, 2007.

    5. Humboldt W. Izbrannye trudy po jazykoznaniju (dịch từ tiếng Đức), Moskva, von, 1984.

    6. Humboldt W. Jazyk i filosofija jazyka (dịch từ tiếng Đức), Moskva, von, 1985.

    7. Manchester M. L, The Philosophical Foundations of Humboldt”s Liguistic Doctrines, Amsterdam: Benjamins, 1985.





VÒ MéT Sè VÇN MòI HO¸ TRONG TIÕNG VIÖT
Vµ Sù THÓ HIÖN CñA CHóNG TR£N V¡N Tù

G



KYÛ YEÁU HOÄI THAÛO QUOÁC TEÁ VIEÄT NAM HOÏC LAÀN THÖÙ BA

TIÓU BAN NG¤N NG÷ Vµ TIÕNG VIÖT






S.TS Đoàn Thiện Thuật*.


1. Nhìn vào lịch sử chữ Quốc ngữ, nhiều người có những ngộ nhận về sự biến đổi của chữ viết. Mỗi khi thấy cách viết ở một từ nào đó khác ngày nay thì cho đó là sự thay đổi về chữ viết. Thực ra không phải thế. Một từ vào thế kỷ XVII được ghi bằng tl, ml như tlứng, mlời, mlẽ [1] nay được viết bằng tr, l (trứng, lời lẽ) thì đó là những sự kiện của ngữ âm lịch sử chứ không phải của chữ viết. Về văn tự không có gì thay đổi vì các âm /t, l, m/ từ bấy đến nay vẫn được ghi bằng các chữ "t, l, m,". Tôi đã có dịp phát biểu ý kiến của tôi và phê phán những ngộ nhận đó [2]. Ngược lại, có những vấn đề cần phải thảo luận đó là những từ mà từ bấy đến nay cách phát âm không hề thay đổi nhưng cách viết thì trước khác, ngày nay khác. Chẳng hạn như từ mà ngày nay được viết là "trong lòng" thì vào thế kỷ XVII, XVIII được viết là "trão lão". Đó là vấn đề thực sự của chữ viết, song có nhiều người còn nghi ngờ là phải chăng ở đây cũng đã có sự thay đổi về ngữ âm. Vấn đề đặt ra là các từ có vần “ong, ông”, trong thực tế, ngày nay được phát âm như thế nào, và vào ba thế kỷ trước có phát âm như vậy không.

2. Trong việc dạy tiếng Việt cho người nước ngoài một số người vẫn tưởng rằng chữ Việt đọc sao viết vậy, do đó gặp các trường hợp như những từ "trong lòng" không chỉ ra cách phát âm hợp chuẩn của nguyên âm, phụ âm trong các từ ấy và không sửa lỗi phát âm cho học viên, mặc dù bản thân giáo viên phát âm, một cách không tự giác, khác với âm mà chữ viết đã phản ánh trong những trường hợp khác.

Vấn đề âm và chữ đặt ra khái quát là như vậy, song bài này chỉ tập trung thảo luận về một số vần mũi hoá trong tiếng Việt mà cách viết ngày nay tận cùng bằng nh, ng và âm chính là nguyên âm đơn.



3. Để có thể hiểu và giải quyết vấn đề được thấu đáo, trước hết cần nắm vững được mấy đặc tính cơ bản của âm tiết tiếng Việt.

3.1. Âm tiếng Việt xét về mặt cấu trúc có ba thành phần: Thanh điệu, Âm đầu và Vần. Trong Vần có những yếu tố kết hợp với nhau chặt chẽ hơn [3]. Phụ âm đầu có tính độc lập cao, có trường độ cố định và, theo một công trình nghiên cứu ngữ âm thực nghiệm, nó không mang đặc trưng khu biệt về đường nét âm điệu của thanh điệu [4]. Khác hẳn với phụ âm đầu, các yếu tố trong phần vần có tính độc lập thấp, thậm chí mỗi yếu tố không có cho mình một trường độ cố định, nguyên âm dài thì phụ âm cuối ngắn và ngược lại. Quan hệ giữa chúng là quan hệ phụ thuộc qua lại. Cũng công trình thực nghiệm trên cho biết, chẳng hạn trong âm tiết "ban" /a/ dài 19,6 thì /n/= 20,3, trong âm tiết "đăn" /ă/ dài 12,4 thì /m/ = 37,7 (đơn vị đo lường là 1/100 giây) [4].

3.2. Một đặc điểm nữa của âm tiết tiếng Việt là có trường độ cố định trong mỗi loại hình thanh điệu. Bằng phương pháp ngữ âm thực nghiệm, Gordina đã khảo sát các kiểu âm tiết khác nhau, mỗi âm tiết mang lần lượt đủ 6 thanh điệu thì thấy mỗi thanh điệu có một trường độ khác nhau, nhưng các âm tiết (trong đó các âm tiết khép được xếp riêng) mang cùng một thanh điệu bao giờ cũng có trường độ xấp xỉ như nhau "không phụ thuộc vào số lượng và chất lượng của các thành phần của nó [4]. Tác giả còn chỉ rõ "Âm chính có một trường độ âm vị học ngắn thì trường độ được bù vào cho đủ tiêu chuẩn trường độ của âm tiết bằng cách kéo dài âm cuối mang thanh điệu".

Do đặc điểm về trường độ của âm tiết tiếng Việt như vậy ta mới hiểu được vì sao trong tiếng Việt các nguyên âm ngắn như “ă, â” không thể tồn tại trong các âm tiết mở. Lý do dễ hiểu là trong trường hợp đó không có âm cuối để có thể phục hồi lại trường độ tiêu chuẩn của âm tiết.



3.3. Về mặt ngữ âm học cũng như âm vị học, từ lâu người ta đã biết đến cái gọi là cách ngắt âm tiết. Thực chất đó là cách tiếp nối giữa nguyên âm làm đỉnh âm tiết với phụ âm cuối. Có hai cách tiếp nối được gọi là mạnhyếu. Trong cách tiếp nối mạnh, phụ âm cuối xuất hiện vào lúc quá trình cấu âm của nguyên âm chưa đạt đến cao điểm trên đường cong đi lên rồi đi xuống bình thường của nó. Trong cách tiếp nối yếu, quá trình cấu âm của nguyên âm đã kết thúc hoàn toàn trước khi bắt vào phụ âm. Nguyên âm có cách tiếp nối mạnh ngắn hơn nguyên âm có cách tiếp nối yếu [5].

3.4. Trong tiếng Việt có sự đối lập của các nguyên âm ngắn như "ă" trong "ăn" và "â" trong "ân" thực ra cũng có thể nói đó là hậu quả của cách ngắt âm tiết khác nhau hay những cách tiếp nối khác nhau giữa nguyên âm và phụ âm cuối.

Những vần như "inh, ênh, anh *, ung, ông, ong" có cách tiếp nối chặt giống như "âng, ăng". Tuy nhiên, đa số những vần này không nằm trong những cặp từ đối lập kiểu tangtăng, mang măng, và nếu có từ đối lập thì từ ấy lại nằm trong vốn từ ít phổ biến, chẳng hạn "xoong" (đối lập với xong). Số lượng từ ít ỏi này được viết khác đi (chẳng hạn với “oo, ôô”) còn nói chung các từ kia vẫn viết bình thường với "i, ê, a, u, ô, o". Do đó, nguyên âm trong 6 vần nói trên không được nhận biết là ngắn,không bình thường. Khi nói, khi đọc không mấy ai nhận biết được điều đó, nhất là đối với người nói tiếng mẹ đẻ.



3.5. Thực ra, như đã trình bày ở trên, các âm tiết tiếng Việt có trường độ cố định (trong mỗi loại hình thanh điệu), nếu lại có cách ngắt âm tiết chặt, tức cách tiếp nối mạnh, nguyên âm trở nên ngắn đi và trường độ của phụ âm cuối tăng lên. Nguyên âm trong 6 vần đang xét do ngắn đi, không đủ điều kiện để thể hiện được những đặc trưng điển hình của nguyên âm gốc nữa, không còn giữ được âm sắc của các nguyên âm cực đoan, tức cực bổng và cực trầm mà trở thành nguyên âm có âm sắc trung hoà.

Chẳng hạn, "a" trong "anh" là chữ viết trên văn tự, còn bản chất ngữ âm - âm vị học của nguyên âm này là /Ɛ/ (Xem Đoàn Thiện Thuật, Ngữ âm tiếng Việt,


NXB Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội, 1977). Nói khác đi, các nguyên âm hàng trước trở thành hàng giữa và các nguyên âm hàng sau tròn môi trở thành hàng sau không tròn môi. Những nét đặc trưng bị mất đi của nguyên âm được chuyển sang phụ âm cuối. Tính chất "trước" (front) của các nguyên âm "i, ê, a" được thể hiện ở phụ âm cuối bằng nét ngạc hoá và được chữ viết ghi bằng nh (thực ra đó là ng). Tính chất "môi" của các nguyên âm "u, ô, o" được thể hiện ở phụ âm cuối bằng nét môi hoá. Về chữ viết, nét này không được ghi ra, phụ âm cuối vần được viết là “ng” nhưng, trong thực tế, được phát âm là [ŋm].

4. Tất cả những điều đã trình bày cho thấy trong tiếng Việt hiện đại, những vần viết là "ong, ông" đang được phát âm là [-uŋm, ɑuŋm]. Cách phát âm này đã tồn tại từ hơn ba thế kỷ trước. Các giáo sỹ phương Tây vào thế kỷ XVII và cả XVIII đã ghi trung thành cách phát âm các nguyên âm trong các vần này bằng "ao, âô", ví dụ ở từ "trão lão".

Riêng đối vần / uŋ/ ngay từ buổi ban đầu tình hình có khác. Do tính chất tròn môi của nguyên còn được bảo tồn ở mức cao dù nó có cách tiếp nối mạnh. Các giáo sỹ phương Tây khi gặp vần này vẫn nhận diện được nguyên âm là /u/ nên trong tuyệt đại đa số trường hợp vẫn ghi bằng chữ "u", chỉ thảng hoặc mới ghi khác, chẳng hạn "ão" (1,3%) hoặc "oũ" (3,7%).

Điều khác lạ về mặt văn tự so với chúng ta ngày nay là màu sắc mũi của các vần đang xét hầu hết được ghi bằng dấu tilde, vốn sẵn có trong chữ Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha.

Đối với vần /uŋ/, do cách phát âm sâu của /u/ gần gũi với /ŋ/ mà các giáo sỹ phương Tây dễ nhận diện phụ âm này trong cách phát âm của người bản xứ nên ngay từ thế kỷ XVII, bên cạnh cách dùng dấu tilde (80,2%), đã lác đác có cách ghi “ng” ở cuối như ngày nay (14%).



5. Đến đây có một vấn đề đặt ra là cách ghi các vần đang xét với dấu tilde mà ngay nay không còn tiếp tục nữa vậy nó tồn tại đến bao giờ và nguyên nhân nào dẫn đến việc thay thế dấu tilde bằng “ng” ở cuối.

Đầu thế kỷ XIX trong Từ điển Việt - Latinh (Dictionarium Anamitico-Latinum) bản viết tay của P. de Béhaine, tất cả các vần đang xét đều được viết thống nhất với “ng” ở cuối thay cho dấu tilde [7].



Tuy nhiên, theo tư liệu của chúng tôi có được, gồm 42 văn bản viết tay còn lưu trữ tại văn khố của Hội Truyền giáo nước ngoài tại Paris thì đến cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX, cách ghi vần /uŋ/ bằng "ũ" còn chiếm 65%, ghi bằng "ung" chiếm 35%, vần /oŋ/ ghi bằng "oũ" vẫn còn là 80,6%, bằng "ông" là 16,5%, vần /ɔŋ/ ghi bằng "ão" vẫn là 85% và bằng "ong" chỉ có 15%. (Các tỷ lệ phần trăm đều lấy trong cuốn Chữ Quốc ngữ thế kỷ XVIII của Đoàn Thiện Thuật [6]).

Điều đó có nghĩa là đến đầu thế kỷ XIX, bên cạnh cách viết với “ng” ở cuối vẫn còn cách viết với dấu tilde, thậm chí cách viết như của P.de Béhaine đang còn là thiểu số. Cách viết của P.de Béhaine đã thắng thế và được mọi người theo cho đến ngày nay là do sự xuất hiện của cuốn Nam Việt dương hiệp tự vựng (Dictionarium Anamitico-Latinum) của J. L. Taberd in tại Sérampore năm 1838 [8]. Ông đã sửa sang cuốn Từ điển Việt - Latinh của P. de Béhaine và cho xuất bản. Một cuốn từ điển một khi đã được in ra, phổ biến rộng rãi, nó sẽ có tác dụng điển chế hoá, thống nhất cách viết. Mọi người khi gặp lúng túng đều dựa vào đó mà viết nên, chẳng bao lâu sau cách viết của cuốn từ điển sẽ thành phổ cập.

6. Còn lý do của việc thay thế dấu tilde bằng “ng” ở cuối thì không có gì khó hiểu.

6.1. Trước hết là các giáo sỹ phương Tây đến thời kỳ của P.de Béhaine, cũng như sau đó ít năm, đã có đủ thời gian để hiểu biết tiếng Việt khá thành thạo và tiếp xúc với các tiếng địa phương. Họ có dịp đối chiếu cách phát âm của các từ như [ ʈ-uŋm lAuŋm] được ghi là "trão lão" với cách phát âm địa phương [ʈɔŋ lɔŋ] trong đó / ɔ/ cũng như /ŋ/ được phát âm rất rõ, mà khi ghi lại bằng chữ viết chắc chắn phải viết là "trong lòng". Sự tiếp xúc với những từ địa phương cùng biểu thị một khái niệm dẫn đến sự thừa nhận của các giáo sỹ phương Tây là cách viết “ng” ở cuối hợp lý hơn.

6.2. Mặt khác, những người dù còn chưa có được ý thức ngôn ngữ trực giác như người nói tiếng mẹ đẻ, nhưng một khi đã viết được những từ như xứng đáng, thẳng thắn, sung sướng với ng ở cuối vì ở các từ đó /ŋ/ được nghe rất rõ, thì do áp lực của kết cấu cũng suy ra rằng các từ, trước kia được viết là “trão lão” cũng nên viết với “ng” ở cuối.

6.3. Lý do cuối cùng có thể chỉ là một giả thuyết. Đó là giải thuyết âm vị học quy màu sắc mũi của âm tiết về phụ âm cuối là quen thuộc với ý thức ngôn ngữ của người Pháp. Ta không nên quên rằng chính tả Pháp chủ yếu dựa trên cơ sở từ nguyên học. Hầu hết các từ Pháp đều có nguồn gốc Latinh, ví dụ từ "commun" (có nghĩa là "chung") có âm tiết sau là âm tiết mở được phát âm với nguyên âm mũi /oẽ/: [kɔmoẽ] nhưng lại được viết với n ở cuối vì từ này có gốc Latinh là "communis". Có trường hợp cực đoan hơn nữa là hai từ cùng phát âm như nhau, nhưng lại viết khác nhau như "pin" (cây thông) và "pain" (bánh mì) đều được phát âm là /pE/ nhưng từ đầu có gốc Latinh là "pinus", từ thứ hai có gốc Latinh là "panis" nhưng cả hai từ đều được viết với n ở cuối.

Một mặt, cần phải nói rằng trong tiếng Pháp có các nguyên âm mũi thực sự tồn tại như những âm vị độc lập. Mặt khác, thế song hành của những từ có nguyên âm mũi trong cách phát âm và cách viết các từ với phụ âm mũi ở cuối không khỏi tạo trong ý thức của người bản ngữ về cách biểu hiện ngữ âm trên chữ viết mang tính quy luật. Điều đó được biểu hiện trong một số trường hợp như sau: một đại từ nhân xưng ngôi thứ ba số ít có nghĩa là "người ta", khi đứng độc lập chỉ được phát âm với một nguyên âm mũi / õ/, trong khi đó động từ "avoir" (có nghĩa là "có") được chia ở ngôi thứ ba số ít được phát âm độc lập là /a/, nhưng khi ghép hai từ trên lại (để có nghĩa là "người ta có") thì tổ hợp từ ấy được phát âm là / õna/ chứ không phải là /õ - a/. Phép nối vần này là bắt buộc trong ngữ âm tiếng Pháp và như vậy là ở từ thứ nhất vốn chỉ là /õ/ đã có một phụ âm “n” tiềm ẩn (un n potentiel) và khi viết ra người ta đã ghi từ này là "on".



Ở đây không phải chỗ để thảo luận về chính tả Pháp, cũng không phải chỗ để nói về các giải thuyết âm vị học trong tiếng Pháp. Điều muốn nói ở đây là những vần mũi hoá trong tiếng Việt nếu có được ghi với phụ âm cuối “ng” thay cho dấu tilde (vì lý do áp lực của kết cấu, vì những từ có vần đang xét chỉ là những biến thể ngữ âm của những từ cổ, được bắt gặp trong các tiếng địa phương và ở đấy “ng” cuối được nhận diện rất rõ) thì cách viết “ng” ở cuối cũng dễ được người Pháp chấp nhận, trong đó có P.de Béhaine và những người đi sau. Ông ủng hộ cách viết này và đã sử dụng thống nhất trong toàn bộ cuốn từ điển của mình.
J.L. Taberd khi cho xuất bản cũng giữ nguyên cách viết ấy và những người Pháp sau này có đóng góp vào việc phổ biến chữ Quốc ngữ cũng như vậy, thì đó cũng là điều dễ hiểu.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

    1. Alexandre de Rhodes, Từ điển Ananm- Lusitan - Latinh, NXB Khoa học Xã hội, 1991.

    2. Đoàn Thiện Thuật, "Le Quốc ngữ dans un manuscrit de Bento Thiện (17e siècle). Cahiers d' Etudes Vietnamienes No 6/1983 - 84 U.E.R. L.C.A.O Univ. de Paris 7.

    3. Đoàn Thiện Thuật, Ngữ âm tiếng Việt, NXB Đại học và Trung học chuyên nghiệp,
      Hà Nội, 1977.

    4. N. D. Andreev – M.V.Gordina "Hệ thống thanh điệu tiếng Việt (trên tư liệu thực nghiệm". Thông báo khoa học, Đại học Quốc gia Leningrad, No 8/1957 (bằng tiếng Nga).

    5. N. S. Troubetzkoy – Principes de Phonologie, Traduction de J.Cantineau, Librairie C. Klincksieck. Paris, 1957.

    6. Đoàn Thiện Thuật, Chữ Quốc ngữ thế kỷ XVIII, NXB Giáo dục, 2007.

    7. P. de Béhaine, Dictionarium Anamitico- Latium (viết tay) - Bản sao chụp.

    8. J. L. Taberd, Nam Việt Dương Hiệp tự vựng - Dictionarium Anamitico-Latium, Serampore, 1838.



VÞ TRÝ CñA TIÕNG BIH
TRONG C¸C NG¤N NG÷ NHãM CH¡M

P



KYÛ YEÁU HOÄI THAÛO QUOÁC TEÁ VIEÄT NAM HOÏC LAÀN THÖÙ BA

TIÓU BAN NG¤N NG÷ Vµ TIÕNG VIÖT






GS.TS Đoàn Văn Phúc*


1. Mở đầu

1.1. Từ trước đến nay, khi bàn về số lượng, thành phần các ngôn ngữ trong nhóm Chăm (Chamic group), cũng như việc phân chia, sắp xếp tiếng nói của những cộng đồng cư dân thuộc nhóm ngôn ngữ này, thường có hai loại ý kiến:
1) Đa số các nhà nghiên cứu về cơ bản thống nhất với nhau rằng nhóm Chăm gồm có ít nhất 5 ngôn ngữ: Chăm, Raglai, Chru, Giarai, Êđê. 2) Tuy nhiên cũng có những người không đồng tình với ý kiến như vậy. Họ coi nhóm Chăm gồm ít nhất 6 ngôn ngữ: Chàm (Chăm), Raglai, Chru, Giarai, Êđê, và Bih (Rơmah Del, Trương Văn Sinh, 1974). Gorys Keraf - một nhà ngôn ngữ học Indonesia trong cuốn Linguistik Bandingan Historis (Ngôn ngữ học so sánh lịch sử, 1996) - đã đưa ra những quan niệm hơi khác lạ về số lượng, thành phần các ngôn ngữ Chăm. Ông cho rằng các ngôn ngữ Chăm ít nhất gồm 5 ngôn ngữ: 1- Cham (bao gồm Cham và Churu); 2- Raglai; 3- Jarai (bao gồm Giarai, Hơbau, Hơdrong, Arap); 4- Ngôn ngữ pha trộn Jarai-Rade (bao gồm các nhóm: Chur, Krung, Mdhur, Blao - Blô); 5 - Rade ('Ede) bao gồm ít nhất tiếng nói của 9 nhóm Kpa, Atham, Dle Rue, Ktul, Kadung, Drau, Mun, Bi (Pi), Relam (Rlam). Gần đây, Graham Thurgood (1998) cho rằng có lẽ cần phải coi tiếng Chăm Hroi là một ngôn ngữ riêng.

Tiếng Êđê hiện nay bao gồm tiếng nói của những cộng đồng người nào thì ý kiến của các nhà nghiên cứu cũng không giống nhau, nhất là tiếng nói của cộng đồng người Bih và cộng đồng người Mdhur. Trong phạm vi bài này, chúng tôi sẽ chỉ rõ thêm vị trí của tiếng Bih trong các ngôn ngữ nhóm Chăm.



1.2. Để giải quyết vấn đề vị trí của tiếng Bih trong nhóm ngôn ngữ Chăm, điều cơ bản là phải chỉ cho ra được những tương đồng và dị biệt về vỏ ngữ âm - hình thái của một đơn vị ngữ nghĩa cơ bản, về vốn từ cơ bản có cùng gốc giữa tiếng Bih với các ngôn ngữ trong nhóm: Êđê, Giarai, Churu, Chăm, Raglai. Điều quan trọng nhất là chỉ ra được xu thế biến đổi (sự cách tân - innovation) từ một ngôn ngữ mẹ cổ xưa (Proto language) tới các ngôn ngữ Chăm đương đại. Chúng tôi tiến hành so sánh đặc điểm vỏ ngữ âm của đơn vị ngữ nghĩa cơ bản, vốn từ vựng trong ngôn ngữ của cộng đồng người Bih với các ngôn ngữ Chăm, mà đặc biệt so sánh vốn từ cơ bản nhất của tiếng Bih với các thổ ngữ, phương ngữ Êđê nhằm cố gắng chỉ ra những xu hướng biến đổi ngữ âm của chúng. Bảng từ được đưa ra so sánh cơ bản dựa trên bảng 100 từ của M. Swadesh, tuy có những từ cần được sửa đổi cho phù hợp với đặc trưng của các ngôn ngữ khu vực Đông Nam Á. Khi chỉ ra những sự cách tân, chúng tôi đã phải sử dụng một khối lượng tư liệu lớn hơn nhiều lần so với bảng 100 từ mà chúng tôi đối chiếu.

1.3. Tư liệu

a) Những tư liệu về các ngôn ngữ, phương ngữ, thổ ngữ của nhóm Chăm do chính chúng tôi thu thập sẽ được ghi theo phiên âm quốc tế (IPA).

b) Những tư liệu được rút ra từ các công trình của những người đi trước về các ngôn ngữ thuộc nhóm Chăm được chúng tôi để nguyên theo cách ghi âm của họ. Đặc biệt, chúng tôi sử dụng tư liệu phục nguyên các ngôn ngữ: Proto Malayo-Polynesia của I. Dyen (1953), Proto Cham của E. W. Lee (1966, 1974), Proto Malayic của K. A. Adelaar (1985),...

c) Trong một chừng mực nhất định, chúng tôi có sử dụng tư liệu về các ngôn ngữ Nam Đảo thuộc nhánh Indonesia phía tây.



d) Ngoài những tư liệu về các ngôn ngữ Nam Đảo, chúng tôi còn sử dụng tư liệu của một số ngôn ngữ Nam Á có quan hệ tiếp xúc trực tiếp với tiếng Bih, nhất là các ngôn ngữ nhánh Môn - Khmer thuộc ngữ hệ Nam Á4.

2. So sánh đặc điểm ngữ âm tiếng Việt Bih với các phương ngữ Êđê và ngôn ngữ nhóm Chăm

2.1. Các ngôn ngữ ở lục địa Đông Nam Á, trong đó có các ngôn ngữ Chăm, đã và đang biến đổi hình thái từ một ngôn ngữ đa tiết có phụ tố tới một ngôn ngữ đơn tiết không có phụ tố. Đó là sự giản lược các hình vị / từ song tiết (và đa tiết) để trở thành đơn tiết, hoặc một ít hình vị / từ ba âm tiết để trở thành song tiết. Quá trình đó đã ảnh hưởng không nhỏ đến sự sắp xếp cấu trúc nội bộ của những âm tiết còn lại. Quá trình này đã và đang diễn ra rất khác nhau trong từng ngôn ngữ, phương ngữ. Cho dù đã bị đơn tiết hóa, song tiền âm tiết (presyllable) trong hầu hết các ngôn ngữ Chăm vẫn đang tồn tại. Tiền âm tiết ở đây thường được đọc lướt nhẹ, làm cho nguyên âm V của tiền âm tiết bị biến mất trong chuỗi lời nói, thậm chí ngay cả cấu trúc CV của tiền âm tiết cũng nhiều khi bị lược bỏ. Người ta có thể thấy rõ điều đó ở biến thể trong phong cách phát âm của phụ nữ Chăm. Đó là cách phát âm bỏ mất hoàn toàn tiền âm tiết trong từ đa tiết nguyên gốc, bất kể đến căn nguyên của từ này (David Blood, 1961; Bùi Khánh Thế, 1981). Ở tiếng Chăm và Raglai vẫn còn phân biệt ba nguyên âm của tiền âm tiết là://, /i ~ / và /u/
(E. W. Lee, 1974; Bùi Khánh Thế, 1981). Thế nhưng ở tiếng Giarai, Churu thì tiền âm tiết chỉ tồn tại một nguyên âm duy nhất // (Đoàn Văn Phúc, 1992, 1996, 1998). Trong một số trường hợp, tiền âm tiết có âm khởi đầu là âm thanh hầu // thì nguyên âm của nó lại là /a/. Riêng tiếng nói của cộng đồng cư dân Chăm Hroi (ở Bình Định và Phú Yên) thì đang diễn biến theo một chiều hướng khác. Ngôn ngữ này đang trên đường mất thế đối lập các phụ âm vô thanh với phụ âm hữu thanh, tiền thanh hầu hoá5 (mà nhiều người gọi là phụ âm tắc, hữu thanh, thở - (breathy voiced stops consonant - Ladefoget, 1992, 2000; Nguyễn Văn Lợi, 1998, 2002, 2004). Hiện các phụ âm này còn khá phổ biến, đồng thời âm vực của âm tiết đang hình thành để cân bằng thế đối lập âm vị học đó. Đi kèm theo điều này là hàng loạt hiện tượng ngữ âm: đôi hoá nguyên âm, mũi hoá ở nguyên âm, và thậm chí còn có thể đang trong quá trình hình thành thanh điệu. (Về điều này, chúng tôi sẽ có một bài riêng).

2.2. Do sự biến đổi hệ thống hình thái học, nên "cái gọi là tiền âm tiết" ở các ngôn ngữ Chăm nổi lên như một đặc trưng và dấu hiệu làm cơ sở để phân chia chúng thành hai tiểu nhóm khác nhau, trong đó:

- Tiểu nhóm 1: Các ngôn ngữ còn dấu vết của ngôn ngữ đa tiết, gồm: C (CĐ, CT), Hr, Gir, Chr, và Rag. Ngay ở tiểu nhóm 1 cũng có sự khác biệt về xu hướng biến đổi giữa các ngôn ngữ C, Hr, Chr với các ngôn ngữ Gir, Rag.

- Tiểu nhóm 2: Ngôn ngữ đơn tiết: Êđê.

Chính sự khác nhau giữa hai tiểu nhóm này có thể cho ta thấy được quá trình đơn tiết hóa, lược bỏ tiền âm tiết, hình thành các tổ hợp phụ âm hay một phụ âm mới (D. Blood, 1961; E. W. Lee, 1974; Bùi Khánh Thế, 1981, 1995, 1996; Đoàn Văn Phúc, 1983, 1985, 1988, 1992, 1993, 1996, 1998,…) để chúng dần dần trở thành những ngôn ngữ đơn tiết thực thụ. Song có điều đáng lưu ý, chính là ở tiếng nói của một số cộng đồng tộc người như Bih, Md dường như nằm ở vị trí trung gian giữa tiếng nói của một số cộng đồng cư dân Êđê với các cộng đồng tộc người khác thuộc nhóm Chăm. Vì vậy, có lẽ cần so sánh đặc điểm hình thái này của tiếng Bih với tiếng nói các ngôn ngữ Chăm để có thể làm sáng tỏ vị trí của ngôn ngữ này trong nhóm Chăm.

Về đặc điểm ngữ âm-hình thái của tiếng Bih, điều đáng lưu ý là vỏ ngữ âm của từ/hình vị còn mang dấu vết của một ngôn ngữ đa tiết. Chúng ta hãy so sánh một số từ tiếng Bih với một số phương ngữ Êđê và một vài ngôn ngữ nhóm Chăm như các từ dưới đây: Anh Phúc đã chú thích tất cả các chữ viết tắt

Bih Kp Kr Ep Bl Dr Đ Rag Nghĩa

hbw/bw hbw bw băw hbw hbw hbw havw tro

adu/mdu du du do/d du du du iduc mũi

ktu mtu mt mto mtu/mto mtu tu pitu sao

mne mnie mn mne mne mne kamăj kumj đàn bà

Ở tiếng Bih còn có một số ít từ mà vỏ ngữ âm của nó gần với vỏ ngữ âm của các từ trong tiếng Chăm Đông và Rag. Nhưng ở đa số các từ khác, thì vỏ ngữ âm tiếng Bih lại giống với các từ ở các phương ngữ Êđê. Đó là những từ kiểu như: máu, lửa, lạnh, nóng, gan, chấy, đàn ông, răng, đỏ, mưa,...

Bih Các thổ ngữ, phương ngữ Êđê khác Nghĩa

erăh erăh (Kp, Kt, Bl, DR, Ep, Md) máu

eăt eăt (KP, Kt, Ad, Dr, Bl, Ep, Kr) lạnh

ekj ekj (Kp, Ep), ekj (Dr, Bl) kăj (Kr) đàn ông

elan elan (Kp, Kr, Kt, Dr, Bl, ...) đường đi

Như vậy, về phương diện ngữ âm, vỏ ngữ âm của từ tiếng Bih về cơ bản giống với các phương ngữ Êđê mặc dù vẫn còn có một số ít những từ/hình vị lại có vỏ ngữ âm giống với các ngôn ngữ Chăm.



3. Kết quả thống kê từ vựng

Trong các công trình trước đây, dựa trên kết quả thống kê, so sánh 2200 từ thông dụng trong đời sống từ nhiều thổ ngữ tiếng Êđê, căn cứ vào những đặc điểm tương ứng ngữ âm giữa các thổ ngữ, chúng tôi đã chia tiếng Êđê thành hai vùng phương ngữ lớn. Ở mỗi vùng phương ngữ như vậy có thể chia thành nhiều phương ngữ Êđê trên cơ sở các tương ứng ngữ âm của âm đầu, phần vần cũng như tính đơn tiết của các vùng tiếng nói. Lần này, trên cơ sở thống kê từ vựng


(100 từ) của 18 phương ngữ, ngôn ngữ thuộc hai ngữ hệ Nam Đảo và Nam Á (trên cơ sở bảng từ của M. Swadesh), chúng tôi nhận thấy kết quả có khác hơn bởi số lượng từ được so sánh thay đổi. Qua kết quả thống kê từ vựng so sánh tiếng Bih với các phương ngữ Êđê (trang 5) và các ngôn ngữ Nam Đảo, Nam Á khác ở Việt Nam, ta có thể nhận thấy:

KẾT QUẢ SO SÁNH TỪ VỰNG TIẾNG BIH
VỚI CÁC NGÔN NGỮ NAM Á VÀ NAM ĐẢO Ở VIỆT NAM





Bih

Md

Kp

Kr

Ad

Kt

Dr

Bl

Ep

Gir

Chr

Rag

HrV

HrS

HrĐ



CT

MR

MB

Sre

9

6

5

5

7

5

6

5

6

5

8

7

7

7

6

7

7

57

58

MB

11

5

8

7

7

4

6

6

6

4

8

6

8

6

7

6

6

76




MR

10

7

7

6

7

5

5

7

8

6

9

8

10

6

8

8

6







CT

69

73

78

75

73

72

73

74

71

78

79

79

86

84

82

94












68

74

78

76

73

75

74

73

76

80

83

80

83

81

80













HrĐ

87

87

84

80

81

80

73

80

79

78

76

80

87

82
















HrS

82

85

78

79

76

75

82

76

73

78

75

79

85



















HrV

87

90

84

84

83

81

82

80

79

84

79

82






















Rag

68

75

76

72

72

73

74

74

75

78

83

























Chr

75

77

74

75

73

73

72

75

79

80




























Gir

81

82

81

85

82

82

80

83

81































Ep

97

92

99

97

95

96

98

99


































Bl

96

90

98

95

95

95

97





































Dr

95

89

98

97

96

99








































Kt

94

90

98

98

98











































Ad

95

88

98

97














































Kr

94

89

97

















































Kp

95

89




















































Md

88























































HrĐ: Chăm Hroi Đồng Xuân CĐ: Chăm Đông

HrS: Chăm Hroi Sơn Hoà MB: Mnông Bù Nông

MR: Mnông Rơlâm Ad: Êđê Adham

Kr: Êđê Krung Md: Êđê Mdhur

Ep: Êđê Êpan Kp: Êđê Kpă

Bl: Êđê Blô Kt: Êđê Ktul

Dr: Êđê Drao Bih: Êđê Bih

Gir: Giarai Rag: Raglai

Sre: Cơho Srê HrV: Chăm Hroi Vân Canh

3.1. Tính thống nhất của các ngôn ngữ nhóm Chăm

Các ngôn ngữ nhóm Chăm (ở Việt Nam) có tỷ lệ vốn từ chung rất cao, thể hiện tính thống nhất của chúng. Dựa vào kết quả thống kê, ta có thể thấy ranh giới giữa các ngôn ngữ trong nhóm. Chẳng hạn, các thứ tiếng CĐ, CT có tỷ lệ từ chung tới 85% trở lên, người ta khó có thể coi chúng là những ngôn ngữ khác nhau. Trên cơ sở vốn từ chung giữa các phương ngữ, ngôn ngữ, ta có thể vạch một đường ranh giới tạm thời: nếu giữa các ngôn ngữ, phương ngữ có tỷ lệ từ chung dưới 85% thì đó là những ngôn ngữ riêng. Tuy vậy, giữa tiếng Rag, tiếng Chr, và tiếng ChR có tỷ lệ từ chung khá cao: Chr - Rag: 83%, hay Chr - ChR và Rag - ChR cũng có tỷ lệ vốn từ cùng gốc lên tới 81%. Vậy các thứ tiếng này là những ngôn ngữ riêng biệt, hay những phương ngữ khác nhau của cùng một ngôn ngữ bởi cái tỷ lệ đó nhiều khi chỉ có tính chất tương đối mà thôi?



3.2. Ranh giới giữa các ngôn ngữ

Có một ranh giới rõ rệt phân biệt các ngôn ngữ Nam Đảo với các ngôn ngữ Nam Á. Tiếng Bih, một ngôn ngữ có tiếp xúc trực tiếp với một số ngôn ngữ Nam Á trên địa bàn sinh sống cũng chỉ có vốn từ chung gốc với tiếng MR rất thấp (10%), hoặc với tiếng MB cũng vậy (11%), còn với tiếng Cơho (phương ngữ Sr) lại thấp hơn (chỉ có 9%). Vì vậy giữa chúng có một vốn từ chung. Trong số này, có những từ gốc Nam Á, song cũng có những từ gốc Nam Đảo mà các ngôn ngữ Nam Á vay mượn, hoặc có những từ chung của khu vực. Điều này khẳng định rằng, tiếng Bih không có quan hệ dòng họ với các ngôn ngữ Nam Á mà chỉ có quan hệ tiếp xúc, trước hết là với ngôn ngữ tiểu nhóm Bana nam. So với các phương ngữ Êđê và những ngôn ngữ khác trong nhóm Chăm, tiếng Bih có tỷ lệ từ chung với các ngôn ngữ Mnông, Cơho là cao nhất (9% - 11%). Đây là kết quả của mối quan hệ tiếp xúc giữa các ngôn ngữ này trên địa bàn cư trú.



3.3. Về phương diện từ vựng, tiếng Bih sẽ được coi là một phương ngữ của tiếng Êđê. Và trong cái gọi là tiếng Êđê ấy, điều khiến ta băn khoăn chính là tiếng Krung. Đây là phương ngữ của tiếng Êđê hay phương ngữ của tiếng Giarai bởi tỷ lệ vốn từ chung giữa Kr - Gir là 85%. Giữa tiếng Bih với các phương ngữ Êđê có vốn từ chung từ 88% - 97%, trong đó thấp nhất là giữa Bih - Md: 88%, và cao nhất là giữa Bih - Ep: 97%, còn hầu hết từ 94 - 97%. Ngay tiếng Md, một phương ngữ đã từng được nhiều người coi là một phương ngữ của tiếng Gir, nhưng cũng chỉ có tỷ lệ từ chung Md - Gir là 82%, và Kr - Gir: 85%. Không biết tiếng Md ở Gia Lai có vốn từ chung với Gir như thế nào, song thực tế, tỷ lệ từ chung giữa các phương ngữ Êđê là rất cao (Md - Bih, Ad: 88%; Md - Kp, Kr, Dr: 89%; Md - Kt, Bl: 90%; Md - Ep: 92%)6. Nhưng giữa các phương ngữ Êđê và Gir có vốn từ chung khá cao (từ 80% - 85%). Do những người sử dụng tiếng Krung cư trú ở vùng giáp với người Giarai Chor (sinh sống chủ yếu tại thị xã Ayun Pa, các huyện Phú Thiện, Chư Sê, Ia Pa tỉnh Gia Lai và một số khá đông ở các xã Êa Sol, Êa Hleo, Êa Ral, thị trấn Êa Drăng thuộc huyện Êa Hleo tỉnh Đắk Lắk), nên sự vay mượn từ vựng lẫn nhau giữa chúng là một điều tất yếu. Điều này giúp ta lý giải cách nhìn nhận, phân chia các ngôn ngữ nhóm Chăm của Gorys Keraf khi ông cho tiếng nói của các cộng đồng cư dân Md, Bl, Kr là "ngôn ngữ pha trộn Jarai-Rade".

4. Sự cách tân trong các ngôn ngữ nhóm Chăm

4.1. Các ngôn ngữ Đông Nam Á (đặc biệt ở lục địa) đã và đang trải qua sự biến đổi và phát triển. Khi nói tới sự kiện này, các nhà ngôn ngữ học đều khẳng định: các ngôn ngữ trong khu vực đã và đang trải qua một sự thay đổi hệ thống hình thái học, từ một ngôn ngữ đa tiết do quá trình đơn tiết hóa đã rụng mất phụ tố, hay các phụ tố ở đa số các ngôn ngữ không còn khả năng phái sinh từ mạnh mẽ. Do vậy, các ngôn ngữ trong khu vực đã đơn tiết hóa ở những mức độ khác nhau. Có những ngôn ngữ đã đơn tiết hóa triệt để, vỏ ngữ âm của từ - căn tố (về cơ bản) đã trùng với âm tiết. Có thể nói, đơn tiết hóa là một xu hướng biến đổi tích cực diễn ra ở các ngôn ngữ, và các ngôn ngữ nhóm Chăm cũng không thể nằm ngoài xu hướng đó (E. W. Lee, 1974). Trong công trình của mình, E. W. Lee đã chỉ ra rõ hơn cái xu thế biến đổi này. Vì vậy, khi nghiên cứu các ngôn ngữ Chăm, nhiều người đã từng nói tới sự chuyển di loại hình, nhất là các ngôn ngữ Chăm, Êđê. Để thấy rõ hơn, chúng ta xem xét sự cách tân của các ngôn ngữ này từ ngôn ngữ PNĐ. So sánh các ngôn ngữ Chăm, và các phương ngữ Êđê, cũng như tiếng Bih với dạng phục nguyên PNĐ của I. Dyen (1953), Otto Dempwoft (1938), ta thấy có những sự tương ứng khá đều đặn giữa các ngôn ngữ, các phương ngữ của nhóm này:

4.2. Nguyên âm của tiền âm tiết CV ở ngôn ngữ TNĐ bị rụng đi ở tiếng Êđê, nhưng lại trở thành [] ở các ngôn ngữ còn lại trong nhóm, ví dụ:

PNĐ

Êđê

Gir

Chr

Rag



CT

ChR

Nghĩa

*/t/ulaN

kla

tla

tla2

tulac

tala

talang

tala

xương

*taNan

kan

tan

taan2

taan

tain

tan

tan

tay

Trong số này có rất nhiều tiền âm tiết (CV) của từ đa tiết nguyên gốc PNĐ đã bị rụng mất ở tiếng Êđê và các phương ngữ Chăm (đặc biệt là CĐ). Ví dụ:

*apuy

puj

apuj

apuj1

apuj

puj

puj

puj

lửa

*qatey

tie

htaj/taj

bh

hataj

hataj

taj

taj

gan

Nếu theo dõi loạt từ trên ở các phương ngữ Êđê và tiếng Bih thì thấy rõ ràng các từ PNĐ cổ xưa có dạng hơn một âm tiết đã bị đơn tiết hóa do rụng mất nguyên âm -V- trong âm tiết không có trọng âm, làm xuất hiện tổ hợp phụ âm trong tiếng Êđê. Và tiếng Bih cũng biến đổi theo xu hướng này, tuy rằng ở một số ít từ còn dấu vết của hiện tượng đa tiết (có thể là dạng song tiết, hoặc xuất hiện một nguyên âm chêm [] giữa tổ hợp phụ âm), kiểu như:

PNĐ TC Kp Kt Ad Dr Ep Bih Nghĩa

*buluh mlw ml ml ml ml mlw lông

*hiRa/q/ hrăh hrăh hrăh hrăh hrăh hrăh đỏ

*bi/t/uqen mtu mt mt mtu mto/ mtu ktu sao

*/t/ulaN kla tla tla2 (Chr) tala talang tala xương

*tikus kkuih kkuih kkui kuih chuột

*nipis *lupih epih epih epih upih mỏng

So sánh các phương ngữ Êđê thì thấy: PNĐ: */t/ulaN > [kla/ kla]; *taNan > [ kan/ kan ] ở tất cả các phương ngữ Êđê và tiếng Bih, tức là vừa có quá trình đơn tiết hóa nguyên âm V của tiền âm tiết, đồng thời PNĐ * t > k/k, trừ trường hợp là [tla ] ở Md, cũng như ở nhiều ngôn ngữ khác thuộc nhóm Chăm đều trở thành /tla/tala/ tulac/. Rõ ràng, xu hướng đơn tiết hóa và biến đổi âm tắc đầu lưỡi PNĐ > phụ âm tắc, gốc lưỡi ở Êđê và Bih là hết sức phổ biến và thống nhất. Trong khi đó các âm đầu lưỡi này vẫn được giữ nguyên ở các ngôn ngữ Chăm khác, cũng như nhiều ngôn ngữ ở hải đảo.



4.3. Xu hướng biến đổi phụ âm hữu thanh, lưỡi PNĐ > phụ âm hữu thanh trong các ngôn ngữ C

Nếu so sánh những từ có phụ âm hữu thanh lưỡi trên ở ngôn ngữ PNĐ với các ngôn ngữ C thì thấy:



TNĐ TC Kp Bih Gir Chr Hr CĐ CT Nghĩa

*/dD/aRaq erăh erăh drah drah darah arah daah máu

*dilaq elah elah/lah jlah dlah dilah dalah dulah lưỡi

*/n/ihaN *luwa ewa wa lwa gầy

Trường hợp những từ máu, kim, đường, lưỡi, răng, ... lại hoàn toàn khác với những trường hợp ở 4.2. Cái tổ hợp [ e/i ] ở một số phương ngữ Êđê và tiếng Bih chính là hiện thực hóa của phụ âm tắc, thanh hầu, hữu thanh / /. Chỉ có thể coi đây là một phụ âm tắc, thanh hầu, hữu thanh ở tiếng Êđê và các phương ngữ của nó thì chúng ta mới có thể giải thích được sự biến mất của các phụ âm hữu thanh trong PNĐ và trong PC. Tuy bị biến mất nhưng chúng còn để lại dấu vết về tính thanh ở phụ âm đầu của tổ hợp phụ âm trong tiếng Êđê và Bih. Phụ âm này, theo cách nói của A.G. Haudricour thì đó là những "âm dịu hữu thanh". Ví dụ:

TNĐ Kp Kt Ad Dr Ep Bih nghĩa

*/dD/aRaq erăh erăh răh erăh erăh erăh máu

*dilaq elah lah lah elah ilah elah/lah lưỡi

*gigih ej j  ej/ej j j răng

*zalan/dalan elan elan lan elan ilan elan đường

Ở các ngôn ngữ hải đảo cũng đã diễn ra xu hướng biến đổi giống các ngôn ngữ Chăm. Ta hãy xem một vài từ trong các ngôn ngữ Bal, Sn, Mad7:



PNĐ PMl Ed Bih CĐ Bal Sn Mad Nghĩa

*dilaq *dilah elah elah/lah dalah lidah ilat elat lưỡi

*Danaw *danaw enaw enaw dana dano danau ao, hồ

Rõ ràng, đối với những loạt từ kiểu này, tiếng Bih có xu hướng biến đổi giống với các phương ngữ Êđê, tuy rằng trên so sánh chi tiết với từng phương ngữ, thổ ngữ cũng có nét khác biệt nhất định. Sự rơi rụng phụ âm lưỡi, hữu thanh của ngôn ngữ PNĐ, PC và để lại âm tắc, thanh hầu, hữu thanh là phổ biến và thống nhất giữa Bih và các phương ngữ Êđê. Kiểu biến đổi này, ta có thể gặp hàng loạt những từ khác chỉ rõ tương đồng giữa các phương ngữ Êđê và tiếng Bih, như những từ được dẫn ra dưới đây:



PNĐ Kp Ad Bih CĐ CT Chr Nghĩa

*Ratus etuh satuh etuh rituh tuh ratuh2 trăm

*ribuh ebw sa b ebw ribaw baw rbw nghìn

*/dD/uRih erue eru turj drj dj drwj gai

*Danaw enau nau enau naw danaw dnaw ao, hồ

*DaRah era ra era dra (Gir) dra thiếu nữ

*limah ema ma uma m im lma số 5

*lakih ekj k ekj lakăj lakăj lkj đàn ông

*labuq ebuh ebuh ebuh tuh tuh lbuh rơi

*liyah eja eja eja laja laja lja gừng

*la/s/u/n/a/q esun tj esun tj rsun (Gir) lsun tỏi

Chính ở đây, trong các phương ngữ Êđê lại xuất hiện một sự đối lập giữa một phụ âm tắc, thanh hầu, vô thanh [] với một phụ âm tắc, thanh hầu, hữu thanh [/ ]. Nếu theo cách nói của E. W. Lee thì trong tiếng Êđê lại "có một sự đối lập giữa qa và qe như là một sự phát triển thứ cấp". Để minh chứng cho điều này, ta hãy xem những cặp đối lập âm vị học dưới đây trong tiếng Êđê:

ala /la / con rắn êla /la ~ la/ buổi chiều

alah /lah/ lười êlah /lah ~ lah/ lưỡi

ama /ma/ cha, bố êma /ma ~ ma/ 5

4.4. Nguồn gốc của phụ âm môi, hữu thanh PNĐ được phản ánh rõ rệt ở các ngôn ngữ Chăm. Chính các phụ âm môi, hữu thanh của PNĐ > âm tắc môi-mũi, hữu thanh của các phương ngữ Êđê và tiếng Bih chứ không phải là những âm môi bình thường như ở các ngôn ngữ khác của nhóm Chăm. Ví dụ:

PNĐ Kp Kt Dr Bl Bih Gir Chr CĐ Nghĩa

*bulan mlan mlan mlan mlan mlan blan blan2 blan trăng

hay như từ *baqeRu(h) mới thì tuy rằng ở Kp, Bl là: mrw, ở Kt là: mrw/mrw, ở Kr, Ad là mr, ở Dr là mrw/mrw, ở Bih cũng giống như ở Kp, Bl là mrw, song đó vẫn là một phụ âm môi, mũi, hữu thanh [m] chứ không phải là phụ âm môi, hữu thanh bình thường. Ở các ngôn ngữ khác của nhóm C vẫn là âm môi, hữu thanh, tiền thanh hầu hóa, chẳng hạn trong tiếng Chr: brhw, CĐ, ChR: birăw, CT: bahw, Gir: praw, nhưng ở Rag lại trở thành một âm xát, môi-răng, hữu thanh /v/: vahrw (trong khi nhiều ngôn ngữ Nam Đảo ở hải đảo, Ml: baharu; In: baru; Mad: buru; Bal: mara). Trường hợp từ *buluh lông ở trên của PNĐ thì ở các phương ngữ Êđê đều cho thấy có âm tắc môi, mũi [m], hoặc nghe như hiện tượng mũi của phụ âm đi sau, như: Kp: mlw, Kr, Ad, Kt, Dr, Bl, Ep, Md: ml, còn ở tiếng Bih lại vẫn còn giữ hình thái song tiết của PNĐ, nhưng phụ âm đầu từ đã biến thành âm môi, mũi [m] là: mlw. Còn từ này ở các ngôn ngữ nhóm C vẫn giữ nguyên dạng song tiết, và phụ âm đầu tắc môi, hữu thanh *b cổ xưa, như: CĐ, CT, ChR: bilăw, Gir, Chr: blw, Rag: vahrw. Nếu xem xét rộng hơn, ta có thể thấy phụ âm đầu của những từ này đều là các âm tắc (hoặc xát) môi (chứ không phải môi-mũi), hữu thanh trong các ngôn ngữ Nam Đảo khác ở hải đảo, như:

PMl Ml In Min Sw Bal Jav Sn Mad Nghĩa

*bulu bulu bulu bulu bulu bulu wulu bulu bulu lông

*bulan bulan bulan bulan bulan bulan wulan bulan bulen trăng

*basah basah basah basah basa (h) belus baseuh becca ướt

Còn ngay từ *bi/t/uqen (ngôi sao) thì ở hầu hết các ngôn ngữ hải đảo (Ml, IN, Min, Sw, Bal, Sn, Mad) đều cho phụ âm tắc, môi, hữu thanh /b/ là bintang; và chỉ riêng ở tiếng Jav cho âm bên /l/ là lintang.

Càng mở rộng sự so sánh tiếng Bih và các phương ngữ Êđê với các ngôn ngữ Chăm và hải đảo, chúng ta càng nhận được kết quả ủng hộ xu hướng biến đổi âm tắc, hữu thanh, môi PNĐ > âm môi, mũi ở Ê-đê.



5. Tương ứng ngữ âm giữa tiếng Bih với các phương ngữ Êđê

5.1. Như đã nói ở trên, ở tiếng Bih còn tồn tại vỏ ngữ âm của một đơn vị ngữ nghĩa cơ bản là dạng song tiết: tiền âm tiết + âm tiết. Các tiền âm tiết có mô hìng ngữ âm tối đa là CVC (trong đó C: phụ âm; V: nguyên âm), nhưng dạng phổ biến thường gặp là CV. Phụ âm C của tiền âm tiết ở Bih thường hay gặp nhất là / r /, lẻ tẻ có những phụ âm tắc, vô thanh như: p, t, k, . Chẳng hạn như những từ dưới đây:

Kp Kt Ad Bl Bih Nghĩa

ekut kut kt kut rkut vắng (nhà)

eka eka ka mka/eka rka bị thương

ej ej e ej trj kéo sợi

Trong một số trường hợp, trong khi hầu hết các phương ngữ Êđê đã biến đổi âm vô thanh của PNĐ thành âm môi, mũi, hữu thanh thì ở Bih lại vẫn còn dấu vết của âm vô thanh. Chẳng hạn:

mkă mkă mkă mkă pkă đo

ma ma ma ma pu/pa hoa

mkue mku ku mkue pkuec tấm (gạo)

mdie md mde mde pde lúa

mam mam mam mam pam đan

a ka ka ka pa vây

mtra mtra mtra/ma ma pcra soi

mdi mdi mdi mdi pdi làm cao lên

5.2. Những trường hợp hầu hết các phương ngữ Êđê đã biến đổi thành phụ âm tắc, vô thanh, gốc lưỡi /k-/ thì ở Bih vẫn còn giữ lại âm cổ hơn là /t-, c-/, rất gần với cách biến đổi ở tiếng Giarai. Chẳng hạn:

kpă kpă kpă kpă tpă thẳng

knap knap knap tnap (Md) tnap khổ

klj klj kl klj tlj dây

Hay có trường hợp trong khi âm cuối của âm tiết đã biến đổi thành /-/ ở các phương ngữ Êđê, thì ở Bih vẫn giữ hình thái cổ xưa hơn /-k/. Ví dụ:

mnu mnu mnu mn mnuk/mnuk

iă iă ia iă ik gặt

k k k k kk/akok đầu

Và có cả những trường hợp ở hầu hết các phương ngữ Êđê đã thay đổi và dùng từ mới, thì ở Bih và một vài phương ngữ Êđê lại giữ được hình thái cổ của ngôn ngữ gốc. Chẳng hạn từ sườn thì trong khi ở các phương ngữ Kp, Kr, Kt, Ad, Bl, dùng rh, thì ở Ep là suk, ở Bih là esuk, nhưng ở các ngôn ngữ Chăm khác thì Chr: rsu; CĐ: tuk; CT: lasuk.

6. Kết luận

Từ sự phân tích những đặc điểm ngữ âm, so sánh từ vựng, cũng như những biến chuyển ngữ âm giữa tiếng Bih với các ngôn ngữ Chăm, mà đặc biệt là với các phương ngữ Êđê, chúng ta có thể đi đến kết luận rằng:



6.1. Về đặc điểm hình thái (vỏ ngữ âm từ) của tiếng Bih nằm trung gian giữa các ngôn ngữ Chăm và tiếng Êđê. Rất nhiều hình thái ngữ âm của từ gốc PNĐ đã đơn tiết trong tiếng Êđê, nhưng vẫn còn dấu vết đa tiết (hoặc có thể cụm tổ hợp phụ âm) trong tiếng Bih.

6.2. Về đặc điểm từ vựng, tiếng Bih thuộc các ngôn ngữ nhóm Chăm. Sự khác biệt từ vựng giữa các ngôn ngữ này được phân định khá rõ rệt. Cần nghiên cứu kỹ hơn mối quan hệ giữa tiếng Êđê Mdhur với tiếng Giarai và Êđê bởi giữa chúng vẫn còn có sự nhập nhằng nhất định.

6.3. Sự chuyển biến ngữ âm giữa tiếng Bih với các phương ngữ Êđê về cơ bản là đồng nhất, tuy rằng vẫn có một vài sự khác biệt nhất định.

6.4. Mặc dù có những đặc điểm hình thái học hơi khác biệt với các phương ngữ Êđê, nhưng căn cứ vào kết quả thống kê từ vựng và đặc biệt là xu hướng chuyển biến ngữ âm từ ngôn ngữ Proto Nam Đảo tới các ngôn ngữ Chăm đương đại, chúng tôi cho rằng: tiếng nói của cộng đồng người Bih (ở huyện Krông Ana và thị xã Buôn Ma Thuột tỉnh Đắk Lắk) là một phương ngữ của tiếng Êđê.

6.5. Dựa vào tiêu chuẩn thuần tuý ngôn ngữ học, tức đặc trưng hình thái học, có thể phân chia tiếng Êđê thành hai vùng phương ngữ lớn là:

Vùng I: tiếng nói bao gồm tiếng nói của đa số các nhóm, ngành Êđê như: Kpă, Ktul, Krung, Adham, Drao, Blô, Êpan mang đặc trưng của một ngôn ngữ đơn lập-đơn tiết, thể hiện xu hướng đơn tiết hoá ngày càng triệt để hơn.

Vùng II: là tiếng nói của hai nhóm Mdhur và Bih còn mang những dấu vết đặc trưng của một ngôn ngữ đơn lập-đa tiết.

6.6. Ở mỗi vùng phương ngữ, nếu căn cứ vào sự giống nhau từ vựng cũng như những tương ứng ngữ âm của phần cuối âm tiết, thì ta còn có thể phân chia thành các phương ngữ nhỏ hơn.

Phân vùng I.1 bao gồm tiếng nói của các nhóm tộc người Krung, Adham, Kpă.

Phân vùng I.2. bao gồm tiếng nói của các nhóm tộc người Drao, Êpan, Ktul.

Ở vùng II sẽ có hai tiểu vùng là: phương ngữ Mdhur và Bih.

Còn riêng tiếng nói nhóm tộc người Blô (ở huyện M'Drắc) lại là một phương ngữ trung gian giữa phân vùng I.1 với phân vùng I.2. và phương ngữ Mdhur thuộc vùng II. Từ cách nhìn như vậy, ta có thể hình dung sự phân chia các phương ngữ Êđê một cách chi tiết như sơ đồ dưới đây:


Trong tình hình tiếp xúc ngôn ngữ và văn hoá đa chiều như hiện nay, ta có thể phân chia tiếng Êđê thành hai phương ngữ tương đương với hai vùng phương ngữ ở mục 6.5.



TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. K. A. Adalaar, Proto-Malayic, Alblasserdam, 1985.

  2. R. Aymonier – A. Cabaton, Dictionnaire Căm - Franais, Imprimerie Nationale, Paris, 1906.

  3. D. L. Blood, “Phonological Units in Cham”, trong Anthropological Linguistics, Vol. 9, 1967.

  4. D. W. Blood, “Womens Speech Charateristics in Cham”, trong Asian Culture, Vol. 3, 1961.

  5. D. W.Blood, “Reflexes of Proto-Malayo-Polynesian in Cham”, trong Anthropological Linguistics, Vol. 4, 1962.

  6. G. Bochet, J. Dournes, Lexique polyglotte Koho, Franxais, Vietnamien, Roglai, Saigon, France - Asie, 1953.

  7. Bế Viết Đẳng,..., Đại cương về các dân tộc Êđê và Mnông ở Đắk Lắk, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1982.

  8. Rơmah Del và Trương Văn Sinh, "Vài nét về các ngôn ngữ Malayo - Polynedia ở Việt Nam", tạp chí Ngôn ngữ, số, 1, 1974.

  9. Otto Dempwoft, Austronesisches Wortschatzeichnis, Berlin, 1938.

  10. Dorothy M. Thomas, “Proto-Malayo-Polynesian reflexes in Rade, Jarai, and Chru”, trong Studies in Lingusitics, Vol. 17, 1963.

  11. I. Dyen, The Proto-Malayo-Polynesian laryngeals, Baltimore: the Linguistic Society of America, 1953.

  12. A. Ju. Ephimốp, Âm vị học lịch sử các ngôn ngữ Bana nam, Khoa học, Maxcơva, 1990 (bản tiếng Nga).

  13. Gorys Keraf, Linguistik Bandingan Historis, Gramedia, Jakarta, 1996 (tiếng Indonesia).

  14. Hoàng Văn Hành, ..., Từ điển Việt - Kơho, Lâm Đồng, 1983.

  15. A.G. Haudricourt, Observation au sujet des consones A et Ê en Rhadé, BSLP, Vol. 46, fasc 1, 1950, pp. 172 - 176.

  16. Phú Văn Hẳn, Cơ cấu ngữ âm và chữ viết tiếng Chăm Việt Nam và tiếng Melayu Malaysia, Luận án Tiến sỹ Ngữ Văn, Thành phố Hồ Chí Minh, 2003.

  17. E. W. Lee, “Southeast Asian areal features in Austronesian strata of the Chamic languages”, Oceanic Linguistics, Vol. 13, No. 1 & 2, 1974.

  18. G. Moussay – Nại Thành Bô, ..., Dictionnaire Cam - Vietnamien - Franais, Trung tâm văn hoá Chàm, Phan Rang, 1971.

  19. Dominique Nguyen, Từ vựng Hroi - Việt, Paris, 2003.

  20. Đoàn Văn Phúc, "Mấy vấn đề âm vị học đồng đại các ngôn ngữ Chamic", trong Nghiên cứu Đông Nam Á, số 2, 1992.

  21. Đoàn Văn Phúc, "Những vấn đề về các phương ngữ Êđê", trong Nghiên cứu Đông Nam Á, số 1, Hà Nội, 1995.

  22. Doan Van Phuc, Perbandingan kosa kata bahasa Melayu dan bahasa-bahasa kelompok Cham, Konfrensi internasional keenam tentang dialek-dialek Austronessia di Nusantara, Brunei Darussalam, 8/1996.

  23. Đoàn Văn Phúc, "So sánh từ vựng tiếng Mã Lai với các ngôn ngữ Chàm (trên tư liƯu ting Inđônêxia và tiếng Êđê)", tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, số 4, 1996, tr.78 - 87.

  24. Đoàn Văn Phúc, Ngữ âm tiếng Êđê, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1996.

  25. Đoàn Văn Phúc, Ede (= Rade) dialect, Hội nghị khoa học quốc tế lần thứ VIII về các ngôn ngữ Nam Đảo, Taipei, Taiwan, 28/12/1997 - 1/1/1998, 11 tr.(Tóm tắt in trong
    "8 - ICAL Handbook", tr.66).

  26. Đoàn Văn Phúc, Từ vựng các phương ngữ Êđê, NXB Thành phố Hồ Chí Minh, 1998.

  27. Phan Văn Phức – Đoàn Văn Phúc..., Từ điển Việt - Êđê, NXB Giáo dục, 1993.

  28. L. A. Shintani Tadahiko, Boh blu klei Êđê - Yuan - Zapônê (Từ vựng Êđê - Việt - Nhật), Tokyo, 1981.

  29. G. Thurgood, From Ancient Cham to Modern Dialeks Two Thousand Years of Language Contact and Change, University of Hawaii Press, 1999.

  30. Y Cang Niê Siêng, Klei hriăm boh blu Êđê (Ngữ vựng Êđê, Rade vocabulary), California, Manila, 1979.

  31. Ir. Sugiarto, Kamus Indonesia - daerah, Gramedia, Jakarta, 1995.

  32. Bùi Khánh Thế (Chủ biên), Từ điển Mnông - Việt, Đắk Lắk, 1993.

  33. Bùi Khánh Thế (Chủ biên), Từ điển Chăm - Việt, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1995.

  34. Bùi Khánh Thế (Chủ biên), Từ điển Việt - Chăm, Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1996.

  35. Đặng Nghiêm Vạn, ..., Các dân tộc tỉnh Gia Lai - Kon Tum, NXB Khoa học Xã hội,
    Hà Nội, 1981.

  36. Ksor Yin – Trương Hải,…., Từ điển phương ngữ Jrai, Pleiku, 2007.



1   2   3   4   5   6   7   8




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương