TỪ chỉ VỊ trí trong tiếng nhật và tiếng việTTHö T×M HIÓU C¸CH THøC TRI NHËN THÕ GIíI CñA NG¦êI VIÖT (TR£N NG÷ LIÖU C¢U §è VÒ §éNG VËT)
GS.TSKH Lý Toàn Thắng*, ThS Nguyễn Thị Thanh Huyền* 1. Dẫn nhập Theo Humboldt, ngôn ngữ phải được nghiên cứu trong mối quan hệ chặt chẽ với ý thức và tư duy, với văn hoá và cuộc sống tinh thần của con người. Theo ông, ngôn ngữ không phản ánh trực tiếp thế giới bên ngoài, mà nó cho thấy cái cách thức riêng của mỗi dân tộc trong việc giải thích thế giới. Ngôn ngữ khác nhau thì thế giới quan khác nhau, các ngôn ngữ khác nhau không phải là những cách biểu đạt khác nhau về thế giới mà là những cách nhìn thế giới khác nhau. Cũng theo Humboldt, cần phải phân biệt giữa “hình thức bên trong” và “hình thức bên ngoài” của ngôn ngữ, của từ; trong đó “hình thức bên trong” gắn với thế giới quan của cộng đồng bản ngữ, còn “hình thức bên ngoài” thì gắn với ngữ âm, ngữ pháp v.v… Trong lý thuyết định danh ngôn ngữ, áp dụng ý tưởng của Humboldt khi nói đến “hình thức bên trong” của từ người ta thường quy vào cái cách thức người bản ngữ lựa chọn đặc điểm/thuộc tính nào đó của vật làm cơ sở để đặt tên cho nó; điều này rất dễ thấy khi so sánh hai ngôn ngữ khác nhau như tiếng Anh và tiếng Việt, ví dụ: underpants (quần – dưới) tiếng Anh tương đương với quần lót/quần đùi trong tiếng Việt. Tuy nhiên, có thể thấy rằng trong ngôn ngữ học hiện thời, cái công việc nghiên cứu “hình thức bên trong” này thường chỉ tập trung vào các từ, chứ không nhằm tới những kết cấu lớn hơn. Chính vì thế chúng tôi muốn dùng ngữ liệu của câu đố để mở ra một hướng mới trong địa hạt nghiên cứu về “định danh” và “hình thức bên trong” của ngôn ngữ. Trong kho tàng văn học dân gian của Việt Nam, câu đố chiếm một số lượng đáng kể, không thua kém gì ca dao, tục ngữ hay các thể loại văn học truyền miệng khác. Câu đố cũng đóng một vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần của những người dân lao động từ thời xa xưa, và cho đến nay nó vẫn là một trò chơi được nhiều người ưa thích, thậm chí ở các diễn đàn website hiện thời có rất nhiều người trẻ tuổi tham gia trò chơi đố vui này. Câu đố có hai phần: lời đố và lời giải. Trong lời đố bao giờ cũng có những mô tả về một hay một số đặc điểm/thuộc tính của vật được đem ra đố, có tác dụng như những chỉ dẫn để giúp người giải đố dựa vào đó mà suy đoán, tìm ra lời giải. Người Việt thường đố nhau về những thứ có liên quan đến cuộc sống sinh hoạt hàng ngày, đến lao động sản xuất hay vui chơi giải trí, trong đó có hai mảng lớn nhất là câu đố về văn hoá và câu đố về tự nhiên. Trong câu đố về tự nhiên thì câu đố động vật và câu đố thực vật chiếm số lượng nhiều hơn cả; và chúng tôi lựa chọn mảng câu đố về động vật (400 câu) để tìm hiểu cách thức tri nhận thế giới của người Việt. Câu đố động vật là câu đố mà vật đố là những con vật, thường là những con vật thân thuộc, gần gũi với đời sống hàng ngày của người dân lao động. Đôi khi, người ta còn đố về các bộ phận của cơ thể con vật như tai, đuôi, sừng… hoặc đố con vật đang ở một trạng thái nào đó như tắm, giao phối… Trong lời đố, con vật thường hay được nhân cách hoá thành con người và được miêu tả giống như một con người vậy. Đôi khi một con vật được nhân cách hoá thành nhiều người. Ví dụ: Bốn ông đập đất, Một ông phất cờ, Một ông vơ cỏ, Một ông bỏ phân. (Con trâu) 2. Thuộc tính được chọn làm cơ sở “định danh” trong câu đố động vật Người Việt thường ra câu đố về những con vật gần gũi thân quen với cuộc sống hàng ngày như: gà, trâu, bò, chó, cua, ghẹ, ốc, nhện, chấy, rận, cá, tôm, dơi, mèo, muỗi, rùa, cóc, ếch, voi, kiến, chuột, đom đóm, rắn, vịt, ong… Trong lời đố, những con vật này thường được miêu tả với một số thuộc tính/đặc điểm nào đấy (chúng tôi tạm gọi là để “định danh” con vật), nhằm định hướng và gợi mở cho người giải đố; cụ thể là trong 400 câu đố được khảo sát, chúng tôi tìm thấy 22 tiêu chí được sử dụng như là cơ sở định danh cho các con vật, với các mức độ khác nhau từ nhiều đến ít. Các đặc điểm này hầu hết được sử dụng kết hợp với nhau, và càng có nhiều đặc điểm trong cùng một câu đố thì bức tranh về con vật càng rõ ràng, chi tiết và cụ thể hơn. Dưới đây là danh sách các đặc điểm “định danh” trong câu đố động vật được sắp xếp theo thứ tự sử dụng từ nhiều đến ít: 1
Cấu tạo cơ thể: 129/400 câu Hình thức và hình dạng: 126/400 câu Môi trường sống: 93/400 câu Tập tính, lối sống: 69/400 câu Vai trò, chức năng và mối quan hệ với con người: 61/400 câu Kích cỡ cơ thể: 60/400 câu Cách thức di chuyển: 54/400 câu Màu sắc cơ thể: 53/400 câu Tiếng kêu: 50/400 câu Tên gọi: 47/400 câu Cách thức kiếm mồi và thức ăn: 44/400 câu Sinh trưởng, sinh dục: 25/400 câu Nguồn gốc: 14/400 câu Phản ứng (trước tác động của môi trường, tự nhiên, con người và loài vật khác): 13/400 câu Số lượng: 12/400 câu Mối quan hệ với loài vật khác: 8/400 câu Tính tình: 8/400 câu Bản năng sinh vật học: 7/400 câu Giống: 7/400 câu Vị trí: 4/400 câu Trí khôn: 2/400 câu Mùi: 2/400 câu. Ngoài 22 đặc điểm miêu tả ở trên, người ta cũng sử dụng tục ngữ, ca dao hoặc truyện cổ, Truyện Kiều để tạo lời đố. Mặc dù chiếm số lượng không nhiều (10/400 câu), nhưng cách thức tạo ra câu đố kiểu này thể hiện sự gắn kết giữa các hình thức văn học dân gian và giữa văn học dân gian với văn học viết. Nó cũng thể hiện sự linh hoạt, uyển chuyển trong sáng tạo nghệ thuật của người bình dân Việt Nam. Ví dụ như câu đố về con công như sau: Ai tô vẽ áo cho mày Mỗi màu mỗi vẻ đẹp thay lạ lùng Ơn người bao quản tấc công Đã không báo đáp đem lòng khinh khi. Đây là loại câu đố dựa vào nội dung của câu chuyện dân gian về con vật, đòi hỏi người giải đố phải biết nội dung câu chuyện, chứ không thể dựa vào kinh nghiệm của người đố về con vật hay về các đặc điểm của nó. Trong một lời đố, hầu hết người ta thường miêu tả đồng thời một số thuộc tính của con vật. Chỉ một số ít câu đố là miêu tả riêng lẻ một đặc điểm nào đó của con vật, thường là về cấu tạo cơ thể, hình thức, tên gọi,… So sánh các ví dụ dưới đây: + Miêu tả chỉ một đặc điểm về cấu tạo cơ thể của con vật: Có chân mà chẳng có tay, Con mắt thì có lông mày thì không. Có da mà chẳng có lông, Con mắt thì có mà không có mày. (Con rạm) + Miêu tả nhiều đặc điểm khác nhau của con vật:
(Con gà trống) Những đặc điểm được sử dụng nhiều nhất là những đặc điểm bề ngoài của con vật hoặc những đặc điểm dễ nhận thấy như cấu tạo cơ thể, hình thức và hình dạng, môi trường sống, tập tính lối sống, vai trò chức năng… Những đặc điểm như bản năng sinh vật học, giống, mùi, trí khôn,… ít được sử dụng nhất.
Khi ra câu đố, thông thường người ta hay sử dụng thủ pháp so sánh: liên tưởng, so sánh con vật được đố hay một/một số đặc điểm nào đó của nó với một đối tượng khác (có thể là con vật có thể không). Sự liên tưởng, so sánh này cũng ít nhiều cho thấy cái “thế giới quan”, cái “cách nhìn thế giới” của riêng cộng đồng bản ngữ đó. Trên cơ sở những đặc điểm được chọn làm cơ sở định danh trong 400 câu đố động vật đã khảo sát được ở phần trên, chúng tôi tìm hiểu cái cách thức người Việt liên tưởng, so sánh giữa con vật được đem ra đố và đối tượng được đem ra so sánh. Dưới đây là những đặc điểm thường được liên tưởng, so sánh trong câu đố động vật: 1. So sánh dựa trên sự giống nhau về hình thức: (176/305 đơn vị so sánh; 58%) Ví dụ:
Cái gì trông tựa con voi, Nhưng ngà mọc ngược mà vòi lại không? (Con trâu) 2. So sánh dựa trên sự giống nhau về kích cỡ: (45/305 đơn vị so sánh; 15%) Ví dụ:
Vừa bằng hạt đỗ, Ăn cỗ cả làng. (Con ruồi) 3. So sánh đặc điểm cấu tạo cơ thể: (33/305 đơn vị so sánh; 11%) Ví dụ:
Giúp người trải mấy ngàn thu, Sao người lại bảo ta ngu vô cùng? Sách ta luôn mang trong lòng, Sao người bảo dốt, lạ lùng lắm thay? (Con bò)
Ở đây, người ta sử dụng phép đồng âm của hai từ “sách”: 1) Sách có ý nghĩa là quyển sách. 2) Sách có ý nghĩa là một bộ phận cơ thể của con bò. 4. So sánh dựa trên sự giống nhau về màu sắc: (23/305 đơn vị liên tưởng; 7%) Ví dụ:
(Con gà trống) 5. So sánh đặc điểm tiếng kêu: (10/305 đơn vị liên tưởng; 3%) Ví dụ:
Mẹ đi trước đánh cồng đánh bạt, Con đi sau vừa hát vừa reo. (Gà mẹ và lũ con) 6. So sánh đặc điểm số lượng: (9/305 đơn vị liên tưởng; 3%) Ví dụ:
Trong cây, dựng riêng triều đình, Muôn binh ngàn tướng; Xây cung điện, Đắp luỹ đào hào, Nhỏ to thứ lớp anh hào vũ văn. (Tổ ong bộng) 7. So sánh đặc điểm về giống: (6/305 đơn vị liên tưởng; 2%) Ví dụ:
Yểu điệu thục nữ, Quân tử hảo cầu, Lấy nhau được ba bốn ngày, Để khi vợ đẻ cho ngay giường mềm. Vợ đẻ cho vợ nằm yên, Trông ra ngoài ngõ kêu liền “răng ca”! Quẩn quanh bên vợ người ta, Vợ nhà trông thấy, chạy ra kêu trời. (Gà trống và gà mái) 8. So sánh đặc điểm môi trường sống: (2/305 đơn vị liên tưởng; 0,7%) Ví dụ:
Nhà xây ở giữa rừng già, Sinh con đẻ cháu, hằng hà, nhiều thay! Thiên hạ bắt được, giết ngay, Giết ngay thì chớ, còn bảo: mày là đàn ông! (Con chấy) 9. So sánh đặc điểm về cách thức di chuyển: (1/305 đơn vị liên tưởng; 0,3%) Ví dụ:
Trên toà son tượng vẽ, Dưới ba điện long lanh, Chén chị chén anh, bảo nhau toàn khách, Mặc áo thái bạch, lên chào thượng thiên, Học được phép tiên, đi mây về gió. (Chim bồ câu và cái chuồng của chúng) Trên đây là 9 đặc điểm/thuộc tính của con vật được miêu tả bằng cách liên tưởng, so sánh với những đối tượng khác có chung đặc điểm ở một mặt nào đó. Kết quả cho thấy hầu hết sự liên tưởng được thực hiện ở những đặc điểm ngoại hình như: hình thức, cấu tạo, kích cỡ, tên gọi, màu sắc… và những thuộc tính này đều thuộc vào số những đặc điểm được sử dụng nhiều hơn cả trong số 22 cơ sở định danh cho con vật (mà chúng tôi đã nghiên cứu ở mục I). Điều này một lần nữa cho thấy người Việt có xu hướng mô tả những đặc điểm hình dáng bề ngoài hay những gì mà người ta có thể quan sát trực tiếp bằng mắt được. Tuy chỉ sử dụng có 9 thuộc tính, nhưng có tới 305 đơn vị từ vựng về đối tượng được dùng trong sự liên tưởng, so sánh ở các câu đố động vật; và có thể phân loại chúng thành 8 nhóm chính như sau: 1. Nhóm từ liên tưởng chỉ nhà cửa, đình chùa, thuyền bè: 66/305 (22%) Ví dụ: gạch, nhà, cột đình, cột, kèo, thuyền, đình, mõ, cờ, chuông,… 2. Nhóm từ liên tưởng chỉ con người và các hoạt động của con người: 65/305 (21%) Ví dụ: nắm tay, bàn tay, gái không chồng, ông thợ mộc, thằng gian, đập đất, phất cờ, quạt mát,… 4. Nhóm từ liên tưởng biểu thị các vật dụng sinh hoạt thường ngày: 53/305 (17%) Ví dụ: con dao, chiếc chổi, cái lược, dao, cưa, cái kim, sợi chỉ,… 5. Nhóm từ liên tưởng biểu thị trang phục của con người: 46/305 (15%) Ví dụ: áo khoác, áo giáp, áo gấm, yếm thắm, khăn trắng, áo bào,… 6. Nhóm liên tưởng biểu thị động vật và các bộ phận của chúng: 33/305 (11%) Ví dụ: con bò, con voi, vịt, gà, trâu, rắn, mắt ngựa, hàm dê, hổ,… 7. Nhóm từ liên tưởng biểu thị thực vật: 27/305 (9%) Ví dụ: quả mướp, quả chuối tiêu, hột lạc, hạt gạo, lá trầu, trái bầu,… 8. Nhóm từ liên tưởng biểu thị các sự vật và hiện tượng tự nhiên: 9/305 (3%) Ví dụ: hột cát, hòn đá, tảng đá, rừng già, núi, trời mưa,… 9. Nhóm từ liên tưởng biểu thị vũ khí chiến đấu: 6/305 (2%) Ví dụ: gươm, giáo, xe tăng,… Qua số liệu thống kê ở trên có thể thấy: phần lớn con vật trong câu đố của người Việt được miêu tả bằng cách so sánh, liên tưởng đến những yếu tố thuộc về con người (chiếm tới 75% tổng số đơn vị từ liên tưởng), như: nhà cửa (22%); con người và các hoạt động của con người (21%); vật dụng sinh hoạt (17%); trang phục(15%). Tóm lại, bước đầu tìm hiểu về thế giới động vật trong câu đố của người Việt và cách thức người Việt tri nhận nó, chúng tôi rút ra một vài nhận xét khái quát như sau: + Thứ nhất, những con vật xuất hiện nhiều trong câu đố của người Việt là con trâu, con bò, con gà, con vịt, con chuột, con mèo, con chó, con ốc, con ếch, con cua, các loại chim và cá, đom đóm, chuồn chuồn, chấy rận, ruồi, muỗi… Đó là những con vật gắn liền với cuộc sống nơi làng quê từ thủa xa xưa của những người nông dân Việt Nam: với hình ảnh con trâu làm việc cần mẫn trên cánh đồng lúa nước; các loài gia súc như gà, vịt, lợn, chó, mèo nhà nào cũng có; bên cạnh công việc đồng áng, người ta thường mò cua, bắt cá để cải thiện bữa ăn của gia đình; ngoài công việc chính là làm nông nghiệp, họ còn có những nghề phụ như nuôi tằm, dệt vải, v.v… + Thứ hai, người ta quan sát con vật rất tỉ mỉ và miêu tả chúng với những thuộc tính khác nhau, thường đó là những đặc điểm mang tính hình thức bề ngoài, nổi bật, dễ thấy. + Thứ ba, con vật trong câu đố thường được nhân cách hoá nên các đặc điểm của chúng thường được liên tưởng, so sánh với các đặc điểm của con người, khiến cho người giải đố đôi khi bị lẫn lộn, khó phân định được đâu là cái lốt phủ ngoài, đâu là đặc điểm, tính chất của con vật được đem ra đố. + Cuối cùng, cách nhìn loài vật và mô tả chúng trong câu đố về động vật của người Việt Nam thường mang tính khách quan, không hay bày tỏ sự yêu ghét (thậm chí ngay những con vật vốn mất thiện cảm như ruồi, muỗi, chấy, rận, đỉa,… cũng được nói đến trong lời đố một cách nhẹ nhàng, với những đặc điểm vốn có của chúng, đôi khi còn rất hài hước và dí dỏm). TÀI LIỆU THAM KHẢO Ninh Viết Giao, Câu đố Việt Nam, NXB Văn học, 2008. Triều Nguyên, Câu đố của người Việt về tự nhiên, NXB Thuận Hoá, 2007. Hồ Anh Thái, Câu đố Việt Nam, NXB Hải Phòng, 2004. Nguyễn Văn Trung, Câu đố Việt Nam, NXB Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh, 2007. Humboldt W. Izbrannye trudy po jazykoznaniju (dịch từ tiếng Đức), Moskva, von, 1984. Humboldt W. Jazyk i filosofija jazyka (dịch từ tiếng Đức), Moskva, von, 1985. Manchester M. L, The Philosophical Foundations of Humboldt”s Liguistic Doctrines, Amsterdam: Benjamins, 1985. |
|
KYÛ YEÁU HOÄI THAÛO QUOÁC TEÁ VIEÄT NAM HOÏC LAÀN THÖÙ BA TIÓU BAN NG¤N NG÷ Vµ TIÕNG VIÖT |
|
Vấn đề âm và chữ đặt ra khái quát là như vậy, song bài này chỉ tập trung thảo luận về một số vần mũi hoá trong tiếng Việt mà cách viết ngày nay tận cùng bằng nh, ng và âm chính là nguyên âm đơn.
Do đặc điểm về trường độ của âm tiết tiếng Việt như vậy ta mới hiểu được vì sao trong tiếng Việt các nguyên âm ngắn như “ă, â” không thể tồn tại trong các âm tiết mở. Lý do dễ hiểu là trong trường hợp đó không có âm cuối để có thể phục hồi lại trường độ tiêu chuẩn của âm tiết.
Những vần như "inh, ênh, anh *, ung, ông, ong" có cách tiếp nối chặt giống như "âng, ăng". Tuy nhiên, đa số những vần này không nằm trong những cặp từ đối lập kiểu tang và tăng, mang và măng, và nếu có từ đối lập thì từ ấy lại nằm trong vốn từ ít phổ biến, chẳng hạn "xoong" (đối lập với xong). Số lượng từ ít ỏi này được viết khác đi (chẳng hạn với “oo, ôô”) còn nói chung các từ kia vẫn viết bình thường với "i, ê, a, u, ô, o". Do đó, nguyên âm trong 6 vần nói trên không được nhận biết là ngắn, là không bình thường. Khi nói, khi đọc không mấy ai nhận biết được điều đó, nhất là đối với người nói tiếng mẹ đẻ.
Chẳng hạn, "a" trong "anh" là chữ viết trên văn tự, còn bản chất ngữ âm - âm vị học của nguyên âm này là /Ɛ/ (Xem Đoàn Thiện Thuật, Ngữ âm tiếng Việt,
Riêng đối vần / uŋ/ ngay từ buổi ban đầu tình hình có khác. Do tính chất tròn môi của nguyên còn được bảo tồn ở mức cao dù nó có cách tiếp nối mạnh. Các giáo sỹ phương Tây khi gặp vần này vẫn nhận diện được nguyên âm là /u/ nên trong tuyệt đại đa số trường hợp vẫn ghi bằng chữ "u", chỉ thảng hoặc mới ghi khác, chẳng hạn "ão" (1,3%) hoặc "oũ" (3,7%).
Điều khác lạ về mặt văn tự so với chúng ta ngày nay là màu sắc mũi của các vần đang xét hầu hết được ghi bằng dấu tilde, vốn sẵn có trong chữ Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha.
Đối với vần /uŋ/, do cách phát âm sâu của /u/ gần gũi với /ŋ/ mà các giáo sỹ phương Tây dễ nhận diện phụ âm này trong cách phát âm của người bản xứ nên ngay từ thế kỷ XVII, bên cạnh cách dùng dấu tilde (80,2%), đã lác đác có cách ghi “ng” ở cuối như ngày nay (14%).
Đầu thế kỷ XIX trong Từ điển Việt - Latinh (Dictionarium Anamitico-Latinum) bản viết tay của P. de Béhaine, tất cả các vần đang xét đều được viết thống nhất với “ng” ở cuối thay cho dấu tilde [7].
Một mặt, cần phải nói rằng trong tiếng Pháp có các nguyên âm mũi thực sự tồn tại như những âm vị độc lập. Mặt khác, thế song hành của những từ có nguyên âm mũi trong cách phát âm và cách viết các từ với phụ âm mũi ở cuối không khỏi tạo trong ý thức của người bản ngữ về cách biểu hiện ngữ âm trên chữ viết mang tính quy luật. Điều đó được biểu hiện trong một số trường hợp như sau: một đại từ nhân xưng ngôi thứ ba số ít có nghĩa là "người ta", khi đứng độc lập chỉ được phát âm với một nguyên âm mũi / õ/, trong khi đó động từ "avoir" (có nghĩa là "có") được chia ở ngôi thứ ba số ít được phát âm độc lập là /a/, nhưng khi ghép hai từ trên lại (để có nghĩa là "người ta có") thì tổ hợp từ ấy được phát âm là / õna/ chứ không phải là /õ - a/. Phép nối vần này là bắt buộc trong ngữ âm tiếng Pháp và như vậy là ở từ thứ nhất vốn chỉ là /õ/ đã có một phụ âm “n” tiềm ẩn (un n potentiel) và khi viết ra người ta đã ghi từ này là "on".
|
KYÛ YEÁU HOÄI THAÛO QUOÁC TEÁ VIEÄT NAM HOÏC LAÀN THÖÙ BA TIÓU BAN NG¤N NG÷ Vµ TIÕNG VIÖT |
|
Tiếng Êđê hiện nay bao gồm tiếng nói của những cộng đồng người nào thì ý kiến của các nhà nghiên cứu cũng không giống nhau, nhất là tiếng nói của cộng đồng người Bih và cộng đồng người Mdhur. Trong phạm vi bài này, chúng tôi sẽ chỉ rõ thêm vị trí của tiếng Bih trong các ngôn ngữ nhóm Chăm.
a) Những tư liệu về các ngôn ngữ, phương ngữ, thổ ngữ của nhóm Chăm do chính chúng tôi thu thập sẽ được ghi theo phiên âm quốc tế (IPA).
b) Những tư liệu được rút ra từ các công trình của những người đi trước về các ngôn ngữ thuộc nhóm Chăm được chúng tôi để nguyên theo cách ghi âm của họ. Đặc biệt, chúng tôi sử dụng tư liệu phục nguyên các ngôn ngữ: Proto Malayo-Polynesia của I. Dyen (1953), Proto Cham của E. W. Lee (1966, 1974), Proto Malayic của K. A. Adelaar (1985),...
c) Trong một chừng mực nhất định, chúng tôi có sử dụng tư liệu về các ngôn ngữ Nam Đảo thuộc nhánh Indonesia phía tây.
Chính sự khác nhau giữa hai tiểu nhóm này có thể cho ta thấy được quá trình đơn tiết hóa, lược bỏ tiền âm tiết, hình thành các tổ hợp phụ âm hay một phụ âm mới (D. Blood, 1961; E. W. Lee, 1974; Bùi Khánh Thế, 1981, 1995, 1996; Đoàn Văn Phúc, 1983, 1985, 1988, 1992, 1993, 1996, 1998,…) để chúng dần dần trở thành những ngôn ngữ đơn tiết thực thụ. Song có điều đáng lưu ý, chính là ở tiếng nói của một số cộng đồng tộc người như Bih, Md dường như nằm ở vị trí trung gian giữa tiếng nói của một số cộng đồng cư dân Êđê với các cộng đồng tộc người khác thuộc nhóm Chăm. Vì vậy, có lẽ cần so sánh đặc điểm hình thái này của tiếng Bih với tiếng nói các ngôn ngữ Chăm để có thể làm sáng tỏ vị trí của ngôn ngữ này trong nhóm Chăm.
Về đặc điểm ngữ âm-hình thái của tiếng Bih, điều đáng lưu ý là vỏ ngữ âm của từ/hình vị còn mang dấu vết của một ngôn ngữ đa tiết. Chúng ta hãy so sánh một số từ tiếng Bih với một số phương ngữ Êđê và một vài ngôn ngữ nhóm Chăm như các từ dưới đây: Anh Phúc đã chú thích tất cả các chữ viết tắt
Bih Kp Kr Ep Bl Dr Đ Rag Nghĩa
hbw/bw hbw bw băw hbw hbw hbw havw tro
adu/mdu du du do/d du du du iduc mũi
ktu mtu mt mto mtu/mto mtu tu pitu sao
mne mnie mn mne mne mne kamăj kumj đàn bà
Ở tiếng Bih còn có một số ít từ mà vỏ ngữ âm của nó gần với vỏ ngữ âm của các từ trong tiếng Chăm Đông và Rag. Nhưng ở đa số các từ khác, thì vỏ ngữ âm tiếng Bih lại giống với các từ ở các phương ngữ Êđê. Đó là những từ kiểu như: máu, lửa, lạnh, nóng, gan, chấy, đàn ông, răng, đỏ, mưa,...
Bih Các thổ ngữ, phương ngữ Êđê khác Nghĩa
erăh erăh (Kp, Kt, Bl, DR, Ep, Md) máu
eăt eăt (KP, Kt, Ad, Dr, Bl, Ep, Kr) lạnh
ekj ekj (Kp, Ep), ekj (Dr, Bl) kăj (Kr) đàn ông
elan elan (Kp, Kr, Kt, Dr, Bl, ...) đường đi
Như vậy, về phương diện ngữ âm, vỏ ngữ âm của từ tiếng Bih về cơ bản giống với các phương ngữ Êđê mặc dù vẫn còn có một số ít những từ/hình vị lại có vỏ ngữ âm giống với các ngôn ngữ Chăm.
Trong các công trình trước đây, dựa trên kết quả thống kê, so sánh 2200 từ thông dụng trong đời sống từ nhiều thổ ngữ tiếng Êđê, căn cứ vào những đặc điểm tương ứng ngữ âm giữa các thổ ngữ, chúng tôi đã chia tiếng Êđê thành hai vùng phương ngữ lớn. Ở mỗi vùng phương ngữ như vậy có thể chia thành nhiều phương ngữ Êđê trên cơ sở các tương ứng ngữ âm của âm đầu, phần vần cũng như tính đơn tiết của các vùng tiếng nói. Lần này, trên cơ sở thống kê từ vựng
|
Bih |
Md |
Kp |
Kr |
Ad |
Kt |
Dr |
Bl |
Ep |
Gir |
Chr |
Rag |
HrV |
HrS |
HrĐ |
CĐ |
CT |
MR |
MB |
Sre |
9 |
6 |
5 |
5 |
7 |
5 |
6 |
5 |
6 |
5 |
8 |
7 |
7 |
7 |
6 |
7 |
7 |
57 |
58 |
MB |
11 |
5 |
8 |
7 |
7 |
4 |
6 |
6 |
6 |
4 |
8 |
6 |
8 |
6 |
7 |
6 |
6 |
76 |
|
MR |
10 |
7 |
7 |
6 |
7 |
5 |
5 |
7 |
8 |
6 |
9 |
8 |
10 |
6 |
8 |
8 |
6 |
|
|
CT |
69 |
73 |
78 |
75 |
73 |
72 |
73 |
74 |
71 |
78 |
79 |
79 |
86 |
84 |
82 |
94 |
|
|
|
CĐ |
68 |
74 |
78 |
76 |
73 |
75 |
74 |
73 |
76 |
80 |
83 |
80 |
83 |
81 |
80 |
|
|
|
|
HrĐ |
87 |
87 |
84 |
80 |
81 |
80 |
73 |
80 |
79 |
78 |
76 |
80 |
87 |
82 |
|
|
|
|
|
HrS |
82 |
85 |
78 |
79 |
76 |
75 |
82 |
76 |
73 |
78 |
75 |
79 |
85 |
|
|
|
|
|
|
HrV |
87 |
90 |
84 |
84 |
83 |
81 |
82 |
80 |
79 |
84 |
79 |
82 |
|
|
|
|
|
|
|
Rag |
68 |
75 |
76 |
72 |
72 |
73 |
74 |
74 |
75 |
78 |
83 |
|
|
|
|
|
|
|
|
Chr |
75 |
77 |
74 |
75 |
73 |
73 |
72 |
75 |
79 |
80 |
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Gir |
81 |
82 |
81 |
85 |
82 |
82 |
80 |
83 |
81 |
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Ep |
97 |
92 |
99 |
97 |
95 |
96 |
98 |
99 |
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Bl |
96 |
90 |
98 |
95 |
95 |
95 |
97 |
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Dr |
95 |
89 |
98 |
97 |
96 |
99 |
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Kt |
94 |
90 |
98 |
98 |
98 |
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Ad |
95 |
88 |
98 |
97 |
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Kr |
94 |
89 |
97 |
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Kp |
95 |
89 |
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Md |
88 |
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
HrS: Chăm Hroi Sơn Hoà MB: Mnông Bù Nông
MR: Mnông Rơlâm Ad: Êđê Adham
Kr: Êđê Krung Md: Êđê Mdhur
Ep: Êđê Êpan Kp: Êđê Kpă
Bl: Êđê Blô Kt: Êđê Ktul
Dr: Êđê Drao Bih: Êđê Bih
Gir: Giarai Rag: Raglai
Sre: Cơho Srê HrV: Chăm Hroi Vân Canh
3.1. Tính thống nhất của các ngôn ngữ nhóm Chăm
Các ngôn ngữ nhóm Chăm (ở Việt Nam) có tỷ lệ vốn từ chung rất cao, thể hiện tính thống nhất của chúng. Dựa vào kết quả thống kê, ta có thể thấy ranh giới giữa các ngôn ngữ trong nhóm. Chẳng hạn, các thứ tiếng CĐ, CT có tỷ lệ từ chung tới 85% trở lên, người ta khó có thể coi chúng là những ngôn ngữ khác nhau. Trên cơ sở vốn từ chung giữa các phương ngữ, ngôn ngữ, ta có thể vạch một đường ranh giới tạm thời: nếu giữa các ngôn ngữ, phương ngữ có tỷ lệ từ chung dưới 85% thì đó là những ngôn ngữ riêng. Tuy vậy, giữa tiếng Rag, tiếng Chr, và tiếng ChR có tỷ lệ từ chung khá cao: Chr - Rag: 83%, hay Chr - ChR và Rag - ChR cũng có tỷ lệ vốn từ cùng gốc lên tới 81%. Vậy các thứ tiếng này là những ngôn ngữ riêng biệt, hay những phương ngữ khác nhau của cùng một ngôn ngữ bởi cái tỷ lệ đó nhiều khi chỉ có tính chất tương đối mà thôi?
Có một ranh giới rõ rệt phân biệt các ngôn ngữ Nam Đảo với các ngôn ngữ Nam Á. Tiếng Bih, một ngôn ngữ có tiếp xúc trực tiếp với một số ngôn ngữ Nam Á trên địa bàn sinh sống cũng chỉ có vốn từ chung gốc với tiếng MR rất thấp (10%), hoặc với tiếng MB cũng vậy (11%), còn với tiếng Cơho (phương ngữ Sr) lại thấp hơn (chỉ có 9%). Vì vậy giữa chúng có một vốn từ chung. Trong số này, có những từ gốc Nam Á, song cũng có những từ gốc Nam Đảo mà các ngôn ngữ Nam Á vay mượn, hoặc có những từ chung của khu vực. Điều này khẳng định rằng, tiếng Bih không có quan hệ dòng họ với các ngôn ngữ Nam Á mà chỉ có quan hệ tiếp xúc, trước hết là với ngôn ngữ tiểu nhóm Bana nam. So với các phương ngữ Êđê và những ngôn ngữ khác trong nhóm Chăm, tiếng Bih có tỷ lệ từ chung với các ngôn ngữ Mnông, Cơho là cao nhất (9% - 11%). Đây là kết quả của mối quan hệ tiếp xúc giữa các ngôn ngữ này trên địa bàn cư trú.
PNĐ |
Êđê |
Gir |
Chr |
Rag |
CĐ |
CT |
ChR |
Nghĩa |
*/t/ulaN |
kla |
tla |
tla2 |
tulac |
tala |
talang |
tala |
xương |
*taNan |
kan |
tan |
taan2 |
taan |
tain |
tan |
tan |
tay |
*apuy |
puj |
apuj |
apuj1 |
apuj |
puj |
puj |
puj |
lửa |
*qatey |
tie |
htaj/taj |
bh |
hataj |
hataj |
taj |
taj |
gan |
*buluh mlw ml ml ml ml mlw lông
*hiRa/q/ hrăh hrăh hrăh hrăh hrăh hrăh đỏ
*bi/t/uqen mtu mt mt mtu mto/ mtu ktu sao
*/t/ulaN kla tla tla2 (Chr) tala talang tala xương
*tikus kkuih kkuih kkui kuih chuột
*nipis *lupih epih epih epih upih mỏng
So sánh các phương ngữ Êđê thì thấy: PNĐ: */t/ulaN > [kla/ kla]; *taNan > [ kan/ kan ] ở tất cả các phương ngữ Êđê và tiếng Bih, tức là vừa có quá trình đơn tiết hóa nguyên âm V của tiền âm tiết, đồng thời PNĐ * t > k/k, trừ trường hợp là [tla ] ở Md, cũng như ở nhiều ngôn ngữ khác thuộc nhóm Chăm đều trở thành /tla/tala/ tulac/. Rõ ràng, xu hướng đơn tiết hóa và biến đổi âm tắc đầu lưỡi PNĐ > phụ âm tắc, gốc lưỡi ở Êđê và Bih là hết sức phổ biến và thống nhất. Trong khi đó các âm đầu lưỡi này vẫn được giữ nguyên ở các ngôn ngữ Chăm khác, cũng như nhiều ngôn ngữ ở hải đảo.
Nếu so sánh những từ có phụ âm hữu thanh lưỡi trên ở ngôn ngữ PNĐ với các ngôn ngữ C thì thấy:
*/dD/aRaq erăh erăh drah drah darah arah daah máu
*dilaq elah elah/lah jlah dlah dilah dalah dulah lưỡi
*/n/ihaN *luwa ewa wa lwa gầy
Trường hợp những từ máu, kim, đường, lưỡi, răng, ... lại hoàn toàn khác với những trường hợp ở 4.2. Cái tổ hợp [ e/i ] ở một số phương ngữ Êđê và tiếng Bih chính là hiện thực hóa của phụ âm tắc, thanh hầu, hữu thanh / /. Chỉ có thể coi đây là một phụ âm tắc, thanh hầu, hữu thanh ở tiếng Êđê và các phương ngữ của nó thì chúng ta mới có thể giải thích được sự biến mất của các phụ âm hữu thanh trong PNĐ và trong PC. Tuy bị biến mất nhưng chúng còn để lại dấu vết về tính thanh ở phụ âm đầu của tổ hợp phụ âm trong tiếng Êđê và Bih. Phụ âm này, theo cách nói của A.G. Haudricour thì đó là những "âm dịu hữu thanh". Ví dụ:
TNĐ Kp Kt Ad Dr Ep Bih nghĩa
*/dD/aRaq erăh erăh răh erăh erăh erăh máu
*dilaq elah lah lah elah ilah elah/lah lưỡi
*gigih ej j ej/ej j j răng
*zalan/dalan elan elan lan elan ilan elan đường
Ở các ngôn ngữ hải đảo cũng đã diễn ra xu hướng biến đổi giống các ngôn ngữ Chăm. Ta hãy xem một vài từ trong các ngôn ngữ Bal, Sn, Mad7:
*dilaq *dilah elah elah/lah dalah lidah ilat elat lưỡi
*Danaw *danaw enaw enaw dana dano danau ao, hồ
Rõ ràng, đối với những loạt từ kiểu này, tiếng Bih có xu hướng biến đổi giống với các phương ngữ Êđê, tuy rằng trên so sánh chi tiết với từng phương ngữ, thổ ngữ cũng có nét khác biệt nhất định. Sự rơi rụng phụ âm lưỡi, hữu thanh của ngôn ngữ PNĐ, PC và để lại âm tắc, thanh hầu, hữu thanh là phổ biến và thống nhất giữa Bih và các phương ngữ Êđê. Kiểu biến đổi này, ta có thể gặp hàng loạt những từ khác chỉ rõ tương đồng giữa các phương ngữ Êđê và tiếng Bih, như những từ được dẫn ra dưới đây:
*Ratus etuh satuh etuh rituh tuh ratuh2 trăm
*ribuh ebw sa b ebw ribaw baw rbw nghìn
*/dD/uRih erue eru turj drj dj drwj gai
*Danaw enau nau enau naw danaw dnaw ao, hồ
*DaRah era ra era dra (Gir) dra thiếu nữ
*limah ema ma uma m im lma số 5
*lakih ekj k ekj lakăj lakăj lkj đàn ông
*labuq ebuh ebuh ebuh tuh tuh lbuh rơi
*liyah eja eja eja laja laja lja gừng
*la/s/u/n/a/q esun tj esun tj rsun (Gir) lsun tỏi
Chính ở đây, trong các phương ngữ Êđê lại xuất hiện một sự đối lập giữa một phụ âm tắc, thanh hầu, vô thanh [] với một phụ âm tắc, thanh hầu, hữu thanh [/ ]. Nếu theo cách nói của E. W. Lee thì trong tiếng Êđê lại "có một sự đối lập giữa qa và qe như là một sự phát triển thứ cấp". Để minh chứng cho điều này, ta hãy xem những cặp đối lập âm vị học dưới đây trong tiếng Êđê:
ala /la / con rắn êla /la ~ la/ buổi chiều
alah /lah/ lười êlah /lah ~ lah/ lưỡi
ama /ma/ cha, bố êma /ma ~ ma/ 5
4.4. Nguồn gốc của phụ âm môi, hữu thanh PNĐ được phản ánh rõ rệt ở các ngôn ngữ Chăm. Chính các phụ âm môi, hữu thanh của PNĐ > âm tắc môi-mũi, hữu thanh của các phương ngữ Êđê và tiếng Bih chứ không phải là những âm môi bình thường như ở các ngôn ngữ khác của nhóm Chăm. Ví dụ:
PNĐ Kp Kt Dr Bl Bih Gir Chr CĐ Nghĩa
*bulan mlan mlan mlan mlan mlan blan blan2 blan trăng
hay như từ *baqeRu(h) mới thì tuy rằng ở Kp, Bl là: mrw, ở Kt là: mrw/mrw, ở Kr, Ad là mr, ở Dr là mrw/mrw, ở Bih cũng giống như ở Kp, Bl là mrw, song đó vẫn là một phụ âm môi, mũi, hữu thanh [m] chứ không phải là phụ âm môi, hữu thanh bình thường. Ở các ngôn ngữ khác của nhóm C vẫn là âm môi, hữu thanh, tiền thanh hầu hóa, chẳng hạn trong tiếng Chr: brhw, CĐ, ChR: birăw, CT: bahw, Gir: praw, nhưng ở Rag lại trở thành một âm xát, môi-răng, hữu thanh /v/: vahrw (trong khi nhiều ngôn ngữ Nam Đảo ở hải đảo, Ml: baharu; In: baru; Mad: buru; Bal: mara). Trường hợp từ *buluh lông ở trên của PNĐ thì ở các phương ngữ Êđê đều cho thấy có âm tắc môi, mũi [m], hoặc nghe như hiện tượng mũi của phụ âm đi sau, như: Kp: mlw, Kr, Ad, Kt, Dr, Bl, Ep, Md: ml, còn ở tiếng Bih lại vẫn còn giữ hình thái song tiết của PNĐ, nhưng phụ âm đầu từ đã biến thành âm môi, mũi [m] là: mlw. Còn từ này ở các ngôn ngữ nhóm C vẫn giữ nguyên dạng song tiết, và phụ âm đầu tắc môi, hữu thanh *b cổ xưa, như: CĐ, CT, ChR: bilăw, Gir, Chr: blw, Rag: vahrw. Nếu xem xét rộng hơn, ta có thể thấy phụ âm đầu của những từ này đều là các âm tắc (hoặc xát) môi (chứ không phải môi-mũi), hữu thanh trong các ngôn ngữ Nam Đảo khác ở hải đảo, như:
PMl Ml In Min Sw Bal Jav Sn Mad Nghĩa
*bulu bulu bulu bulu bulu bulu wulu bulu bulu lông
*bulan bulan bulan bulan bulan bulan wulan bulan bulen trăng
*basah basah basah basah basa (h) belus baseuh becca ướt
Còn ngay từ *bi/t/uqen (ngôi sao) thì ở hầu hết các ngôn ngữ hải đảo (Ml, IN, Min, Sw, Bal, Sn, Mad) đều cho phụ âm tắc, môi, hữu thanh /b/ là bintang; và chỉ riêng ở tiếng Jav cho âm bên /l/ là lintang.
Càng mở rộng sự so sánh tiếng Bih và các phương ngữ Êđê với các ngôn ngữ Chăm và hải đảo, chúng ta càng nhận được kết quả ủng hộ xu hướng biến đổi âm tắc, hữu thanh, môi PNĐ > âm môi, mũi ở Ê-đê.
ekut kut kt kut rkut vắng (nhà)
eka eka ka mka/eka rka bị thương
ej ej e ej trj kéo sợi
Trong một số trường hợp, trong khi hầu hết các phương ngữ Êđê đã biến đổi âm vô thanh của PNĐ thành âm môi, mũi, hữu thanh thì ở Bih lại vẫn còn dấu vết của âm vô thanh. Chẳng hạn:
mkă mkă mkă mkă pkă đo
ma ma ma ma pu/pa hoa
mkue mku ku mkue pkuec tấm (gạo)
mdie md mde mde pde lúa
mam mam mam mam pam đan
a ka ka ka pa vây
mtra mtra mtra/ma ma pcra soi
mdi mdi mdi mdi pdi làm cao lên
5.2. Những trường hợp hầu hết các phương ngữ Êđê đã biến đổi thành phụ âm tắc, vô thanh, gốc lưỡi /k-/ thì ở Bih vẫn còn giữ lại âm cổ hơn là /t-, c-/, rất gần với cách biến đổi ở tiếng Giarai. Chẳng hạn:
kpă kpă kpă kpă tpă thẳng
knap knap knap tnap (Md) tnap khổ
klj klj kl klj tlj dây
Hay có trường hợp trong khi âm cuối của âm tiết đã biến đổi thành /-/ ở các phương ngữ Êđê, thì ở Bih vẫn giữ hình thái cổ xưa hơn /-k/. Ví dụ:
mnu mnu mnu mn mnuk/mnuk gà
iă iă ia iă ik gặt
k k k k kk/akok đầu
Và có cả những trường hợp ở hầu hết các phương ngữ Êđê đã thay đổi và dùng từ mới, thì ở Bih và một vài phương ngữ Êđê lại giữ được hình thái cổ của ngôn ngữ gốc. Chẳng hạn từ sườn thì trong khi ở các phương ngữ Kp, Kr, Kt, Ad, Bl, dùng rh, thì ở Ep là suk, ở Bih là esuk, nhưng ở các ngôn ngữ Chăm khác thì Chr: rsu; CĐ: tuk; CT: lasuk.
6. Kết luận
Từ sự phân tích những đặc điểm ngữ âm, so sánh từ vựng, cũng như những biến chuyển ngữ âm giữa tiếng Bih với các ngôn ngữ Chăm, mà đặc biệt là với các phương ngữ Êđê, chúng ta có thể đi đến kết luận rằng:
Vùng I: tiếng nói bao gồm tiếng nói của đa số các nhóm, ngành Êđê như: Kpă, Ktul, Krung, Adham, Drao, Blô, Êpan mang đặc trưng của một ngôn ngữ đơn lập-đơn tiết, thể hiện xu hướng đơn tiết hoá ngày càng triệt để hơn.
Vùng II: là tiếng nói của hai nhóm Mdhur và Bih còn mang những dấu vết đặc trưng của một ngôn ngữ đơn lập-đa tiết.
6.6. Ở mỗi vùng phương ngữ, nếu căn cứ vào sự giống nhau từ vựng cũng như những tương ứng ngữ âm của phần cuối âm tiết, thì ta còn có thể phân chia thành các phương ngữ nhỏ hơn.
Phân vùng I.1 bao gồm tiếng nói của các nhóm tộc người Krung, Adham, Kpă.
Phân vùng I.2. bao gồm tiếng nói của các nhóm tộc người Drao, Êpan, Ktul.
Ở vùng II sẽ có hai tiểu vùng là: phương ngữ Mdhur và Bih.
Còn riêng tiếng nói nhóm tộc người Blô (ở huyện M'Drắc) lại là một phương ngữ trung gian giữa phân vùng I.1 với phân vùng I.2. và phương ngữ Mdhur thuộc vùng II. Từ cách nhìn như vậy, ta có thể hình dung sự phân chia các phương ngữ Êđê một cách chi tiết như sơ đồ dưới đây:
Trong tình hình tiếp xúc ngôn ngữ và văn hoá đa chiều như hiện nay, ta có thể phân chia tiếng Êđê thành hai phương ngữ tương đương với hai vùng phương ngữ ở mục 6.5.