SÁch giáo lý CỦa giáo hội công giáo sách giáo lý CỦa giáo hộI



tải về 4.7 Mb.
trang28/68
Chuyển đổi dữ liệu31.07.2016
Kích4.7 Mb.
#11671
1   ...   24   25   26   27   28   29   30   31   ...   68

Năm Phụng Vụ
1168 2698.

Khởi từ Tam Nhật Vượt Quanhư nguồn ánh sáng, thời đại mới của Phục Sinh chiếu tỏa cả năm Phụng Vụ. Thời gian của cả năm trước và sau Tam Nhật Vượt Qua được Phụng Vụ thánh hóa thành "năm hồng ân của Chúa" (Lc 4,19). Nhiệm cục cứu độ được thực hiện trong thời gian, nhưng từ khi nhiệm cục đó đượchoàn tất trong biến cố Đức Giê-su Phục Sinh và Thánh Thần được thông ban, thì cùng đích của lịch sử đã được tiền dự, và NướcThiên Chúa xuất hiện trong lịch sử loài người.


1169 1330 560.

Phục Sinh không chỉ là một ngày lễ như bao lễ khác, nhưng là ngày "lễ trên các lễ", cũng như bí tích Thánh Thể là "bí tích trên các bí tích". Thánh A-ta- na-xi-ô gọi lễ Phục Sinh là "ngày Chúa Nhật Trọng Đại" (Thư các đại lễ 329), cũng như Giáo Hội Đông Phương gọi Tuần Thánh là "Tuần Lễ Trọng Đại". Mầu Nhiệm Phục Sinh, mầu nhiệm Đức Ki-tô toàn thắng sự chết, đem lại cho thời gian già cỗi của chúng ta, sức sống mãnh liệt, cho đến khi mọi sự phải quy phục Đức Ki-tô .
1170.

Tại Công Đồng Chung Ni-xê-a (năm 325), các Giáo Hội đồng ý mừng lễ Phục Sinh vào Chúa nhật tiếp sau ngày rằm Thượng nguyên (14 Nisan). Vì khác nhau trong cách tính ngày 14 tháng Nisan. Ngày mừng lễ Phục Sinh trong các Giáo Hội Đông Phương và Tây Phương không luôn trùng hợp. Do đó, hai bên đang tìm cách thỏa thuận để có thể mừng Chúa Phục Sinh chung một ngày.


1171 524.

Năm Phụng vụ khai triển mầu nhiệmVượt Qua dưới nhiều khía cạnh, đặc biệt là chu kỳ các lễ xoay quanh mầu nhiệm Nhập Thể (Truyền Tin, Giáng Sinh, Hiển Linh) gợi lại những biến cố khởi đầu ơn cứu độ và cho chúng ta hưởng nhờ hoa trái đầu mùa của mầu nhiệm Phục Sinh.


Lễ kính Các Thánh trong năm Phụng Vụ

1172 971 2030.

"Trong khi cử hành các mầu nhiệm của Chúa Ki-tô theo chu kỳ hằng năm, với một tình yêu mến đặc biệt, Hội Thánh tôn kính Đức Ma-ri-a vinh hiển, Mẹ Thiên Chúa, Đấng đã liên kết với công trình cứu chuộc của Con Người bằng mối dây bất khả phân ly. Nơi Mẹ, Hội Thánh ngưỡng mộ và tán tụng thành quả tuyệt diệu của công trình cứu chuộc, và vui mừng chiêm ngắm nơi Mẹ, như trong một hình ảnh tinh tuyền trọn hảo, điều mà toàn thể Hội Thánh ước mong và trông đợi (SC 103).


1173 957.

Ngoài ra, Hội Thánh còn thêm vào niên kỳ những lễ kính nhớ các thánh tử đạo và các thánh khác. Hội Thánh công bố mầu nhiệm Phục Sinh nơi các ngài, vì các ngài đã cùng chịu thương khó và cùng được vinh hiển với Đức Ki-tô. Hội Thánh trình bày cho các tín hữu những gương mẫu của các ngài để các gương sáng này lôi kéo mọi người đến với Chúa Cha qua Chúa Ki-tô; và nhờ công nghiệp các ngài, Hội Thánh lãnh nhận được những hồngân của Thiên Chúa (SC 104).


Các Giờ Kinh Phụng Vụ
1174 2698.

Mầu nhiệm Chúa Ki-tô, Nhập Thể và Vượt Qua, được cử hành trong thánh lễ, đặc biệt trong thánh lễ Chúa nhật, thấm nhập và biến đổi thời gian trong ngày nhờ việc cử hành Các Giờ Kinh Phụng Vụ, còn gọi là Kinh Nhật Tụng. Trung thành với giáo huấn tông truyền dạy chúng ta phải "cầu nguyện không ngừng" (1Th5,1-17; Ep 6,l8), "Kinh Nhật Tụng được lập ra để thánh hiến trọn ngày đêm bằng lời ngợi khen Thiên Chúa" (SC 8). "Kinh Nhật Tụng là kinh nguyện công khai của Hội Thánh" (SC 98), qua đó các tín hữu (giáo sĩ, tu sĩ và giáo dân) thực thi chức tư tế vương giả dành cho những ai đã được rửa tội. Được cử hành "dưới hình thức được Hội Thánh chuẩn y", Các Giờ Kinh Phụng Vụ "chính là tiếng của Hiền Thê nói với Đấng Phu Quân, và hơn nữa là lời cầu nguyện của Chúa Ki-tô và Thân Thể Người dâng lên Chúa Cha" (SC 84).


1175.

Các Giờ Kinh Phụng Vụ phải trở thành lời kinh nguyện của toàn thể Dân Chúa. Trong lời kinh đó, chính Đức Ki-tô "tiếp tục thực thi chức vụ tư tế qua Hội Thánh" (x. SC 83). Mỗi người tham dự vào kinh nguyện đó tùy theo vị thế riêng trong Hội Thánh và tùy hoàn cảnh sống : các linh mục với tư cách là mục tử được mời gọi chuyên cần cầu nguyện và phục vụ Lời Chúa (x. SC 86,96; PO 5); các tu sĩ do đặc sủng của đời sống thánh hiến (x. SC 98); mọi tín hữu tùy theo khả năng: "những mục tử phải lo cho các Giờ Kinh chính yếu, nhất là giờ Kinh Chiều, được cử hành chung trong nhà thờ vào những ngày Chúa nhật và lễ trọng. Cũng khuyên cả giáo dân đọc Kinh Nhật Tụng,hoặc cùng với các linh mục hoặc khi tụ họp chung với nhau hoặc riêng một mình" (SC 100).


1176 2700.

Việc cử hành Các Giờ Kinh Phụng Vụ không những đòi buộc phải hòa hợp lời kinh với tâm hồn cầu nguyện, mà còn "phải lo cho mình có kiến thức dồi dào hơn về Phụng Vụ và Thánh Kinh, nhất là về Thánh Vịnh" (SC 90).


1177 2586.

Các thánh thi và lời cầu được xen vào giữa các Thánh Vịnh để diễn tả ý nghĩa của các thời khắc trong ngày, của mùa Phụng Vụ và của ngày Đại Lễ. Ngoài ra, việc đọc Lời Chúa trong mỗi Giờ Kinh (với các câu Xướng Đáp theo sau) và việc đọc sách các giáo phụ và các bậc thầy linh đạo trong một số Giờ cho thấy rõ hơn ý nghĩa của mầu nhiệm đang cử hành, giúp thấu hiểu các Thánh Vịnh và dọn đường cho tĩnh nguyện. Việc "đọc sách thiêng liêng", nghĩa là vừa đọc vừa suy niệm Lời Chúa để cầu nguyện, bắt nguồn từ việc cử hành Phụng Vụ.


1178 1378.

Thánh lễ được nối dài bằng Các Giờ Kinh Phụng Vụ. Các Giờ Kinh này không loại trừ nhưng còn cổ vũ các việc đạo đức khác của Dân Chúa, nhất là việc thờ lạy và chầu Thánh Thể.


IV. CỬ HÀNH Ở ĐÂU ?
1179 586.

Việc thờ phượng theo Thần Khí và Sự Thật (Ga 4, 24) của Giao Ước Mới không bị ràng buộc vào một nơi nhất định. Tất cả trái đất đều là thánh và được giao phó cho con cái loài người. Khi cáctín hữu tụ tập một nơi, điều quan trọng là chính họ là "những viên đá sống động để xây nên ngôi đền thờ của Thánh Thần" (1Pr 2,4-5). Thân Thể của Đức Ki-tô Phục Sinh là ngôi đềàn thiêng liêng phát sinh nguồn nước hằng sống. Được tháp nhập vào Đức Ki-tô nhờ Thánh Thần, "chính chúng ta là đền thờ thánh thiêng của Thiên Chúa hằng sống" (2 Cr 6,16).


1180 2106.

Khi tự do tôn giáo không bị hạn chế (x. DH 4), các Ki-tô hữu có thể xây dựng những nơi dành riêng cho việc thờ phượng Thiên Chúa. Những thánh đường hữu hình này không chỉ là những nơi hội họp, nhưng biểu thị và biểu lộ Hội Thánh đang sống trong địa phương đó, ngôi nhà của Thiên Chúa ở giữa những người đã được hòa giải và liên kết với nhau trong Đức Ki-tô.


1181 2691

Thánh đường là "nhà cầu nguyện, nơi cử hành và cất giữ Thánh Thể, cũng như để tín hữu tụ họp, nơi có sự hiện diện của Con Thiên Chúa, Đấng Cứu Chuộc chúng ta, Đấng đã được hiến dâng vì chúng ta trên bàn thờ tế lễ. Nhà này cần phải được bảo quản sạch sẽ, xứng hợp với việc cầu nguyện và những buổi cử hành thánh lễ" (x. PO 5; x SC 122-127). Trong "nhà Chúa", các biểu tượng phải chân thật và hài hòa để giúp mọi người nhận ra Đức Ki-tô đang hiện diện và hoạt động nơi đây (SC 7) :


1182 617,1383.

Bàn thờ của Giao Ước Mới là Thập Giá Đức Ki-tô (x. Dt 13,10), nơi phát xuất các bí tích của mầu nhiệm Vượt Qua. Bàn thờ là trung tâm của thánh đường, trên đó "hy tế thập giá được hiện tại hóa dưới những dấu bí tích. Bàn thờ cũng là bàn tiệc Dân Chúa được mời đến tham dự" (x. IGMR 259). Trong một số nghi lễ Đông Phương, bàn thờ còn tượng trưng cho Ngôi Mộ của Đức Ki-tô (vì Người đã thực sự chết và sống lại).
1183 1379,2120.

Nhà Tạm "phải được đặt nơi xứng đáng và vinh dự nhất trong nhà thờ" (MF). Nhà Tạm phải có nét trang trọng, được đặt nơi tôn nghiêm và chắc chắn (SC 128) để giúp các tín hữu dễ dàng thờ phượng Chúa Giê-su đang hiện diện thực sự trong bí tích Thánh Thể.
Dầu Thánh theo truyền thống được bảo quản và tôn kính tại một nơi chắc chắn trong cung thánh vì xức dầu là dấu bí tích của ấn tín ơn Chúa Thánh Thần. Dầu Dự tòng và Dầu Bệnh nhân cũng có thể đặt chung ở đó.
1184.

Ghế của giám mục (ngai tòa) hay của linh mục chủ tế "phải nói lên nhiệm vụ của Ngài là chủ tọa cộng đoàn và điều hành buổi cầu nguyện" (IGMR 271).
103

Giảng đài : "Phẩm giá của Lời Chúa đòi phải có một nơi thích hợp trong nhà thờ, để Lời Chúa được loan báo và giáo dân tự nhiên hướng về đó trong phần phụng vụ Lời Chúa" (IGMR 272).
1185.

Cuộc triệu tập của Dân Chúa bắt đầu bằng bí tích Thánh Tẩy, nên thánh đường phải có giếng rửa tội để cử hành bí tích Thánh Tẩy và có những bình nước thánh để nhắc các tín hữu nhớ đến những lời hứa ngày rửa tội.


Việc canh tân đời sống đòi hỏi Ki-tô hữu phải sám hối, nên thánh đường phải có nơi thích hợp để tiếp đón hối nhân đến bày tỏ lòng thống hối và lãnh nhận ơn tha thứ.
2717

Thánh Đường cũng phải là nơi giúp tín hữu hồi tâm và thinh lặng cầu nguyện để nối dài và nội tâm hóa thánh lễ.


1186 1130.

Thánh Đường còn mang ý nghĩa cánh chung. Để vào Nhà Chúa, người tín hữu phải bước qua ngưỡng cửa, như thể từ thế giới tội lỗi bước vào thế giới của Đời Sống Mới mà Thiên Chúa nuốn dành cho mọi người. Thánh Đường hữu hình tượng trưng cho Nhà Cha; ở đó, Chúa Cha "sẽ lau sạch nước mắt họ" (Kh 21,4). Vì vậy, Thánh Đường là nhà của tất cả con cái Thiên Chúa, luôn mở rộng đón mời mọi người.


TÓM LƯỢC
1187.

Phụng Vụ là công trình của Đức Ki-tô toàn diện, gồm có Đầu và Thân Thể. Vị Thượng Tế của chúngta không ngừng cử hành Phụng Vụ trên trời, cùng với Mẹ Ma-ri-a, các tông đồ, chư thánh và đông đảo những người đã được hưởng Vinh Quang Nước Trời.
1188.

Trong Phụng Vụ, toàn thể cộng đoàn đều cử hành, mỗi người theo chức năng của mình. Toàn Thân Thể Đức Ki-tô, đều có chức tư tế cộng đồng. Nhưng một số tín hữu đã lãnh nhận bí tích Truyền Chức để đại diện Đức Ki-tô là Đầu của Thân Thể.
1189.

Phụng Vụ sử dụng các dấu chỉ và biểu tượng lấy từ thiên nhiên (ánh sáng, nước, lửa), từ đời sống con người (rửa, xức dầu, bẻ bánh) và từ lịch sử cứu độ (các nghi thức Vượt Qua). Được đưa vào lãnh vực đức tin và được Chúa Thánh Thần sử dụng, những yếu tố thiên nhiên, những nghi thức của loài người và những nghi lễ tưởng niệm ơn cứu chuộc đã trở thành phương thế Đức Ki-tô dùng để cứu độ và thánh hóa nhân loại.
1190.

Lời Chúa là phần thiết yếu trong các cử hành Phụng Vụ. Lời Chúa được công bố và lời đáp trả tin yêu của Dân Chúa xác định ý nghĩa của mỗi cử hành.
1191.

Thánh Ca và Thánh Nhạc liên kết chặt chẽ với hoạt động Phụng Vụ, nên khi sử dụng chúng ta phải theo các tiêu chuẩn : "diễn tả lời cầu nguyện cách dịu dàng hơn, cổ võ sự đồng thanh nhất trí của cộng đoàn và làm nổi bật tính chất thánh thiêng của buổi cử hành".
1192.

Ảnh tượng thánh được chưng bày trong thánh đường, nơi nhà riêng để khơi dậy và nuôi dưỡng đức tin vào mầu nhiệm Chúa Ki-tô. Chúng ta tôn thờ chính Chúa Ki-tô qua ảnh tượng về Người và công trình cứu chuộc của Người. Chúng ta tôn kính Mẹ Thiên Chúa, các thiên thần và các thánh qua ảnh tượng của các ngài.
1193.

Chúa nhật là "Ngày của Chúa", ngày đặc biệt để cử hành thánh lễ vì là ngày Đức Ki-tô Phục Sinh. Đó là ngày tốt nhất để cộng đoàn cử hành Phụng Vụ, ngày gia đình Ki-tô giáo sum họp, ngày vui và ngày nghỉ. Ngày Chúa nhật là "nền tảng và trung tâm của cả năm Phụng Vụ"(SC 106).
1194.

"Hội Thánh còn triển khai trọn mầu nhiệm Chúa Ki-tô qua chu kỳ một năm, từ Nhập Thể, Giáng Sinh, đến Thăng Thiên, Hiện Xuống, và đợi chờ ngày hồng phúc, ngày Chúa Ki-tô ngự đến" (SC 102).
1195.

Khi kính nhớ các thánh, trước hết là Mẹ Thiên Chúa, kế đến là các thánh tông đồ, các thánh tử đạo và các thánh khác, Hội Thánh dưới đất biểu lộ sự hiệp thông với Phụng Vụ trên trời. Hội Thánh tôn vinh Đức Ki-tô đã ban ơn cứu độ cho các thánh là các chi thể được tôn vinh. Gương sáng của các ngài khích lệ Hội Thánh trên đường tiến về Nhà Cha.
1196.

Khi cử hành Các Giờ Kinh Phụng Vụ, tín hữu được kết hiệp với Đức Ki-tô, vị Thượng Tế của chúng ta, qua thánh vịnh, suy niệm Lời Chúa, thánh ca và những lờichúc tụng. Nhờ đó, họ được liên kết với lời nguyện liên lỉ và phổ quát của Người mà tôn vinh Chúa Cha và cầu xin ơn Thánh Thần xuống cho toàn thế giới.
1197.

Chúa Ki-tô là Đền Thờ đích thực của Thiên Chúa, là "nơi vinh quang của Chúa Cha ngự trị". Nhờ ân sủng của Thiên Chúa, các tín hữu cũng trở nên đền thờ của Chúa Thánh Thần, những viên đá sống động xây nên Hội Thánh.
1198.

Hội Thánh tại thế cần có những nơi để cộng đoàn tập họp : cácthánh đường hữu hình là nơi thánh, là hình ảnh của Thành Thánh Giê- ru- sa-lem thiên quốc, nơi chúng ta là những lữ khách đang tiến về.
1199.

Trong những thánh đường này, Hội Thánh cử hành việc thờ phượng công khai để tôn vinh Thiên Chúa Ba Ngôi, lắng nghe Lời Chúa, ngợi khen chúc tụng, dâng lên Người lời cầu nguyện của Hội Thánh và hy lễ của Đức Ki-tô, Đấng hiện diện giữa cộng đoàn qua các bí tích. Thánh đường còn là nơi tín hữu hồi tâm và cầu nguyện riêng.

Mục 2
VẺ KHÁC NHAU CỦA PHỤNG VỤ

VÀ TÍNH HIỆP NHẤT CỦA MẦU NHIỆM
Các truyền thống phụng vụ và tính công giáo của Hội Thánh
1200 2625.

Từ cộng đoàn tiên khởi ở Giê-ru-sa-lem cho đến ngày Chúa Quang Lâm, các Giáo Hội của Thiên Chúa, trung thành với đức tin tông truyền, đều cử hành cùng một mầu nhiệm Vượt Qua. Chỉ có một mầu nhiệm được cử hành trong phụng vụ, nhưng các hình thức có thể khác nhau.


1201 2663 1158

Mầu nhiệm Đức Ki-tô phong phú khôn lường, nên không một truyền thống phụng vụ nào có thể diễn tả trọn vẹn. Lịch sử hình thành và phát triển các nghi lễ minh chứng sự đa dạng và bổ túc cho nhau cách kỳ diệu giữa các nghi lễ. Bao lâu còn sống những truyền thống phụng vụ ấy trong sự hiệp thông đức tin và đời sống bí tích, các Giáo Hội giúp nhau phong phú hơn, và trung thành hơn với Thánh Truyền cũng như với sứ mạng chung của Hội Thánh (x. EN 63-64).


1202 814 1674 835 1937.

Nhiều truyền thống phụng vụ khác nhau đã được khai sinh từ sứ mạng của Hội Thánh. Các cộng đoàn trong cùng một khu vực địa lý và văn hóa dần dần cử hành mầu nhiệm Đức Ki-tô bằng những cách diễn tả riêng, mang đặc tính văn hóa địa phương : trong truyền thống của "kho tàng Đức Tin" (2 Tm 1,14), trong những biểu tượng phụng vụ, trong tổ chức hiệp thông huynh đệ, trong cách hiểu thần học về các mầu nhiệm và trong các kiểu mẫu về sự thánh thiện. Như thế, qua đời sống phụng vụ của mỗi Giáo Hội, Đức Ki-tô là ánh sáng cứu độ muôn dân được bày tỏ cho mọi dân tộc và nền văn hóa nơi Hội Thánh được sai đến và hội nhập. Hội Thánh có tính Công giáo nên có thể hội nhập tất cả những nét phong phú đích thực của các nền văn hóa vào trong Hội Thánh duy nhất sau khi đã thanh luyện chúng (x LG 23; UR 4).


1203.

Các truyền thống phụng vụ hay các nghi lễ hiện hành trong Hội Thánh là: nghi lễ La tinh (chủ yếu là nghi lễ Rô-ma, nhưng cũng phải kể đến các nghi lễ của một số Giáo Hội địa phương như nghi lễ thánh Am-brô-si-ô, hoặc nghi lễ của một số dòng tu), và các nghi lễ Đông Phương như By-zan-ti-nô, A-lê-xan-ri-nô hay Cô-tô, Sy-ri-a-cô, Ar-mê-ni-ô, Ma-rô-ni-ta và Can-đê-ô. "Vẫn trung thành vâng phục truyền thống, Thánh Công Đồng tuyên bố rằng : Mẹ Hội Thánh coi tất cả các nghi lễ đã được chính thức công nhận đều bình đẳng trên pháp lý và được tôn trọng như nhau, lại muốn các nghi lễ ấy được duy trì trong tương lai và được cổ võ bằng mọi cách" (SC 4).


Phụng Vụ và các nền văn hóa
1204 2684 854, 1232 2527.

Phụng Vụ phải được cử hành phù hợp với đặc tính và văn hóa của các dân tộc. Để mầu nhiệm của Đức Ki-tô được thông báo cho muôn dân biết, để họ tin mà vâng phục Thiên Chúa (Rm 16, 26). Hội Thánh phải loan báo, cử hành và sống trong tất cả các nền văn hóa. Mầu nhiệm Đức Ki-tô không xóa bỏ, nhưng cứu chuộc và kiện toàn các nền văn hóa. Chính nhờ nền văn hóa riêng được Đức Ki-tô tiếp nhận và thanh luyện, đông đảo con cái Thiên Chúa đến được với Chúa Cha để tôn vinh Người trong cùng một Thánh Thần.



1205 1125.

"Trong Phụng Vụ, nhất là trong các bí tích, có một phần bất biến do Chúa thiết lập mà Hội Thánh phải giữ gìn, và những phần khác có thể thay đổi, nên Hội Thánh có quyền, đôi khi có bổn phận thích nghi với nền văn hóa của các dân tộc mới đón nhận Tin Mừng" ( ĐGH Gio-an Phao-lô II, tông huấn "150 năm"số 16; x.SC 21).


1206.

"Những khác biệt về phụng vụ có thể làm cho Hội Thánh được phong phú, nhưng cũng có thể gây ra những căng thẳng, những hiểu lầm và ngay cả những vụ ly giáo. Trong lãnh vực này, rõ ràng không được để cho những khác biệt làm nguy hại đến sự hiệp nhất. Phải trung thành với đức tin chung, với các dấu chỉ bí tích Hội Thánh đã nhận từ Đức Ki-tô, và hiệp thông với hàng giáo phẩm. Muốn thích nghi với các nền văn hóa, cần phải hoán cải nội tâm, và nếu cần, phải đoạn tuyệt với những thói quen lâu đời nhưng không hòa hợp được với đức tin công giáo" (x. ĐGH Gio-an Phao-lô II, Tông huấn "150 năm" số 16; x. SC 21).


TÓM LƯỢC
1207.

Nên cử hành Phụng Vụ theo văn hóa địa phương nơi Hội Thánh hiện diện, nhưng không được để Phụng Vụ lệ thuộc vào văn hóa. Chính Phụng Vụ cũng giúp khai sinh và xây dựng các nền văn hóa.
1208

Các truyền thống Phụng Vụ khác nhau được Hội Thánh công nhận, minh chứng tính công giáo của Hội Thánh, vì biểu thị và thông ban cùng một mầu nhiệm Đức Ki-tô.

1209

Tiêu chuẩn bảo đảm cho cùng một sự hiệp nhất, trong khi vẫn tôn trọng tính đa dạng của các truyền thống Phụng Vụ, là trung thành với truyền thống tông đồ, nghĩa là hiệp thông trong đức tin và đời sống bí tích do các tông đồ truyền lại. Sự hiệp thông này được biểu thị và bảo đảm nhờ việc kế nhiệm các tông đồ.
ĐOẠN THỨ HAI
BẢY BÍ TÍCH CỦA HỘI THÁNH
1210 1113.

Trong Giao Ước Mới, có bảy bí tích do Đức Ki-tô thiết lập là Thánh Tẩy, Thêm Sức, Thánh Thể, Giải Tội, Xức Dầu Bệnh Nhân, Truyền Chức Thánh và Hôn Phối. Bảy bí tích liên quan đến tất các giai đoạn và thời điểm quan trọng trong đời sống Ki-tô hữu : người tín hữu được sinh ra và lớn lên, được chữa lành và sai đi. Giữa những giai đoạn của đời sống tự nhiên và đời sống thiêng liêng, có nhiều điểm tương đồng.


1211 1374.

Như so sánh trên, chúng ta sẽ đề cập trưóc hết đến ba bí tích khai tâm Ki-tô giáo (chươngmột), rồi đến hai bí tích chữa lành (chương hai), cuối cùng là hai bí tích phụcvụ sự hiệp thông và sứ mạng của các tín hữu (chương ba). Chúng ta có thể sắp xếp cách khác, nhưng cách này cho thấy các bí tíchhợp thành một thể thống nhất, trongđó mỗi bí tích có một vai trò quan trọng trong cuộc sống. Riêng bí tích Thánh Thể chiếm địa vị độc tôn vì là "bí tích trên các bí tích" : "Tất cả các bí tích khác đều qui hướng về bí tích Thánh Thể như cùng đích của mình" (x. Thánh Tô-ma A-qui-nô, Tổng luận thần học 3,65,3).


CHƯƠNG MỘT
CÁC BÍ TÍCH KHAI TÂM KI-TÔ GIÁO
1212.

Ba bí tích : Thánh Tẩy, Thêm Sức và Thánh Theẹ là những bí tích khai tâm đặt nền tảng cho toàn thể đời sống Ki-tô hữu. "Nhờ ân sủng của Đức Ki-tô, con người được tham dự vào bản tính Thiên Chúa. Tương tự như việc sinh ra, lớn lên và bảo tồn trong đời sống tự nhiên, người tín hữu được tái sinh trong đời sống mới nhờ bí tích Thánh Tẩy, được củng cố nhờ bí tích Thêm Sức, và nhận lấy bánh ban sự sống đời đời trong bí tích Thánh Thể. Như vậy, nhờ các bí tích khai tâm Ki-tô giáo, họ được hiệp thông sâu xa hơn vào đời sống thần linh và ngày càng tiến tới đức mến hoàn hảo"(x. ĐGH Phao-lô VI, Tông hiến "Tham dự đời sống thần linh"; x. OICA tiền chú 1-2).


Mục 1

BÍ TÍCH THÁNH TẨY
1213.

Bí tích Thánh Tẩy là nền tảng của toàn bộ đời sống Ki-tô hữu, là cửa ngõ dẫn vào đời sống thần linh và mọi bí tích khác. Nhờ bí tích Thánh Tẩy, chúng ta được giải thoát khỏi tội lỗi và tái sinh làm con cái Thiên Chúa, trở thành chi thể của Đức Ki-tô, được tháp nhập vào Hội Thánh và tham dự sứ mạng của Hội Thánh (x. CĐ Flô-ren-ti-nô, DS 1314; CIC khoản 204, 1; số9; CCEO khoản 675,1): "Bí tích thánh Tẩy là bí tích tái sinh chúng ta nhờ nước và trong Lời Chúa"(x. Giáo lý Rô-ma 2,2,5).


I. BÍ TÍCH NÀY ĐƯỢC GỌI BẰNG NHỮNG DANH HIỆU NÀO?
1214 628.

Thánh Tẩy hay Rửa Tội đều dịch từ Baptizein trong tiếng Hy Lạp. Từ này có nghĩa là "dìm xuống": đây là nghi thức chính yếu trong bí tích Thánh Tẩy. Dìm xuống nước tượng trưng cho việc người dự tòng chịu mai táng trong cái chết của Đức Ki-tô, và từ đó cùng sống lại với Người (x. Rm 6,3-4; Cl 2,12), trở thành "thụ tạo mới" (x. 2Cr 5,17; Gl 6,15).


1215 1257.

Thánh Phao-lô gọi bí tích này là tắm trong Chúa Thánh Thần, để được tái sinh và đổi mới (x. Tt 3,5), vì bí tích này biểu thị và thực hiện việc tín hữu được tái sinh nhờ nước và Thánh Thần, mà nếu thiếu thì "không ai có thể vào Nước Thiên Chúa" (Ga 3,5).


1216 1243

Thánh Jus-ti-nô gọi bí tích này là ơn soi sáng, vì những người được đạo lý giáo huấn thì tâm trí được soi sáng. Người chịu phép rửa, vì đón nhận Ngôi Lời là "ánh sáng đích thực chiếu soi mọi người" (Ga 1,9), nên sau khi "đã được soi sáng" (Dt 10,32), họ trở thành "con cái sự sáng" (1 Tx 5,5) và là "ánh sáng" (Ep 5,8).


"Bí tích Thánh Tẩy là hồng ân cao đẹp nhất và kỳ diệu nhất trong các hồng ân của Thiên Chúa...Chúng ta gọi là hồng ân, ân sủng, xức dầu, soi sáng. mặc lấy sự bất tử, tắm để tái sinh, ấn tín và tất cả những gì quý giá nhất. Là hồng ân, vì được ban cho những người trắng tay. Là ân sủng, vì được ban cho cả những người có lỗi. Dìm xuống,vì tội lỗi bị nhận chìm trong nước. Xức dầu, vì có tính cách linh thiêng và vương giả (như những người được xức dầu). Soi sáng, vì đó là ánh sáng chói lọi. Mặc, vì che đi nỗi tủi nhục của chúng ta. Tắm, vì làm cho chúng ta sạch. Ấn tín, vì gìn giữ chúng ta và là dấu chỉ về quyền tối cao của Thiên Chúa" (Thánh Ghê-gô-ri-ô Na-di-en, Bài giảng 40, 3-4).
II. BÍ TÍCH THÁNH TẨY TRONG KẾ HOẠCH ƠN CỨU ĐỘ
Những tiên trưng về bí tích Thánh Tẩy trong Cựu Ước
1217.

Trong Phụng Vụ Đêm Phục Sinh, khi thánh hóa nước rửa tội, Hội Thánh long trọng nhắc lại những biến cố lớn trong lịch sử cứu độ tiên trưng về bí tích Thánh Tẩy :


"Lạy Chúa, Chúa dùng quyền năng vô hình mà làm cho các bí tích trở nên hữu hiệu lạ lùng. Qua dòng lịch sử cứu độ, Chúa đã bao lần dùng nước do Chúa tạo thành để bày tỏ hiệu năngcủa phép Thánh Tẩy" (x. MR, Vọng Phục Sinh 42: làm phép nước rửa tội) .
1218 344, 694.

Từ khi tạo thiên lập địa, nướclà một thụ tạo tầm thường nhưng kỳ diệu, được coi là nguồn mạch sự sống và sự phong nhiêu. Kinh Thánh cho thấy Chúa Thánh Thần ngự xuống trên nước, để nước phát sinh sự sống.


"Ngay lúc vũ trụ khởi nguyên, Thánh Thần Chúa đã bay là là trên mặt nước, để từ đó nước hàm chứa năng lực thánh hóa muôn loài" (x. MR, Vọng Phục Sinh 42: làm phép nước rửa tội).
1219 701, 845.

Hội Thánh thấy con tàu Nô-ê tiên trưng về ơn cứu độ nhờ bí tích Thánh Tẩy : "Trong con tàu ấy, một số ít, cả thảy 8 người được cứu thoát nhờ nước" (1 Pr 3,20).


"Chúa dùng nước Hồng Thủy làm hình ảnh tiên báo phép rửa ban ơn tái sinh, vì thời đó cũng như bây giờ, nước biểu thị quyền năng Chúa, vừa tiêu diệt tội lỗi, vừa khai mở một đời sống mới" (x. MR, Vọng Phục Sinh 42: làm phép nước rửa tội).
1220 1010.

Trong Kinh Thánh, nước nguồn tượng trưng cho sư sống, nước biển lại tượng trưng cho sự chết. Do đó, nước Thánh Tẩy có thể tượng trưng cho mầu nhiệm Thánh Giá : đượềc rửa tội là cùng chết với Đức Ki-tô.


1221.

Đặc biệt cuộc Vượt Qua Biển Đỏ, tức là việc dân Ít-ra-en thực sự được giải thoát khỏi kiếp nô lệ ở Ai Cập, loan báo ơn giải thoát do bí tích Thánh Tẩy mang lại :


“Chúa đã giải thoát con cháu ông Áp-ra-ham khỏi vòng nô lệ mà dẫn qua Biển Đỏ ráo chân, để họtượng trưng cho một dân tộc mới, là những người được thánh tẩy sau này" (MR, Vọng Phục Sinh 42 : làm phép nước rửa tội).


tải về 4.7 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   24   25   26   27   28   29   30   31   ...   68




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương