PHÉp lạ thánh thể Lm. Đoàn Quang, cmc xuanha net Mục lục Phép lạ Thánh Thể


- PHÉP LẠ THÁNH THỂ TẠI PERPIGNAN, nước Pháp



tải về 1.12 Mb.
trang7/9
Chuyển đổi dữ liệu20.11.2017
Kích1.12 Mb.
#34471
1   2   3   4   5   6   7   8   9

2- PHÉP LẠ THÁNH THỂ TẠI PERPIGNAN, nước Pháp
Ngày 15-9-1793, trong tuần bát nhật lễ Sinh nhật Đức Mẹ, ngôi làng bé nhỏ Pézilla-de-la-Rivière, thuộc giáo phận Perpignan, miền Nam nước Pháp, đã vui mừng trông thấy thánh đường được mở cửa. Lý do là vì cuộc cách mạng 1789 vẫn còn ghi đậm nét kinh hoàng. Các Linh Mục, Giám Mục, Hồng Y - những vị trung thành với Giáo Hội Công Giáo Hoàn Vũ - bị bắt, bị giết hoặc bị lưu đày. Đoàn chiên vắng bóng chủ chăn, bơ vơ tang tác thật tội nghiệp thảm thương.
Linh Mục Jacques Pérone, cha sở họ đạo, từ nơi trú ẩn, can đảm trở về giáo xứ. Cha muốn lợi dụng trong chớp nhoáng khoảng thời gian yên tĩnh để mang lại cho đoàn chiên niềm an ủi được tham dự thánh lễ. Được mật báo, toàn thể tín hữu có mặt nơi nhà thờ. Mọi người vừa sốt sắng vừa trang nghiêm. Không thể diễn tả hết lòng hân hoan của bổn đạo. Nhưng niềm vui chỉ diễn ra vỏn vẹn 3 hôm. Ngày 17-9-1793, với con tim đau thắt, cha Jacques Pérone đành lên đường trở về nơi lưu đày tận bên nước Tây-Ban-Nha. Trước khi khuất hẳn, cha đau đớn quay lại nhìn giáo xứ thân yêu lần cuối. Đôi mắt đẫm lệ, cha buột miệng kêu lên: “Ôi, nếu có thể, thì không gì mà tôi không đánh đổi để chỉ trở lại đó một khắc đồng hồ thôi!”
Lời thì thào của cha Jacques Pérone đã lọt tai một thiếu nữ can đảm, đạo đức và khiêm tốn. Đó là cô Rose Llorens. Cô thầm đoán Bánh Thánh còn bị bỏ quên trong Nhà Tạm ở nhà thờ. Với lòng tin tưởng vững vàng nơi sự trợ giúp của Thiên Chúa, cô cương quyết tự nguyện sẽ giải thoát Chúa GIÊSU Thánh Thể khỏi các bàn tay xúc phạm của quân cách mạng vô luân vô thần.
.. Ngày 26-12-1793 ông Jean Bonafos về nhậm chức tân thị trưởng Pézilla. Ông là kẻ hiền đức và là người kính sợ Thiên Chúa. Thấy cơ hội thuận tiện, cô Rose trình bày ước nguyện với tân thị trưởng. Ông Jean Bonafos tức khắc chấp thuận. Ngày 7-2-1794, cùng với một người thứ ba, ông thị trưởng và cô Rose đến nhà thờ. Ông thị trưởng tự tay mở cửa Nhà Tạm. Quả thật, ông trông thấy Bánh Thánh lớn nằm trong Mặt Nhật và 3 Bánh Thánh nhỏ còn nguyên với Bánh Thánh thứ tư bẻ đôi. Cả 4 Bánh Thánh nhỏ đặt trong Bình Thánh. Với đức tính cẩn trọng, ông Jean Bonafos lấy 4 Bánh Thánh nhỏ bỏ vào Khăn Thánh rồi ông đưa tất cả cho cô Rose cùng với mặt nhật có Bánh Thánh lớn.
Cô Rose Llorens trao mặt nhật với Bánh Thánh lớn tận tay bà Thomase, phu nhân thị trưởng. Chính ông thị trưởng Jean Bonafos đặt mặt nhật có Bánh Thánh vào rương bằng gỗ rồi dấu kín trong nhà. Mình Thánh Chúa GIÊSU ở tại nơi trú ẩn khiêm tốn này gần trọn 7 năm, tức từ 7-2-1794 đến 9-12-1800. Chúa GIÊSU KITÔ không bị lãng quên. Cả hai vợ chồng ông thị trưởng luôn luôn dâng kính Chúa GIÊSU Thánh Thể lòng tôn thờ yêu mến thâm sâu.
Trong khi đó cô Rose trao 4 Bánh Thánh nhỏ cho thân mẫu là bà Anne-Marie Llorens Estéva. Theo lời khuyên của mẹ Joséphine de Romanya, Bề Trên tu viện Chúa Cứu Thế ở Perpignan, bà Anne-Marie đặt 4 Bánh Thánh trong một bình bằng thủy tinh, hoàn toàn trắng, rồi bọc kín với chiếc bị nhỏ bằng tơ lụa màu đỏ. Xong, bà đặt vào một ngăn tủ nhỏ dấu kín trong tường.
Nếu vì lý do cẩn trọng, gia đình ông thị trưởng Bonafos không thể tiếp rước nhiều người đến tôn thờ Chúa GIÊSU Thánh Thể, thì trái lại, gia đình cô Rose Llorens mở rộng cửa cho mọi người. Các tín hữu Công Giáo đạo đức, kín đáo đến thờ lạy Chúa GIÊSU KITÔ đang ẩn mình trong Bánh Thánh. Sau này, các giáo dân cao niên trong xứ đạo kể lại rằng, họ thường đem các trẻ em đến nhà cô Rose. Họ bảo chúng quì trước ngăn tủ có dấu Mình Thánh Chúa và dạy chúng cầu nguyện. Hàng năm đến ngày Thứ Năm Tuần Thánh giáo dân trong làng thường dựng một bàn thờ trước ngăn tủ và trang hoàng hoa tươi thật đẹp. Rồi họ cùng nhau quì im lặng chầu Mình Thánh Chúa.
.. Cuối năm 1800 là thời điểm đáng ghi nhớ đối với dân làng Pézilla-de-la-Rivière: chấm dứt những ngày bị bách hại tang tóc và cuộc rước khải hoàn Chúa GIÊSU Thánh Thể trở về ngôi thánh đường thân yêu.
Ngày 5-12-1800 cha phó Honoré Siuroles từ nơi trú ẩn trở về trước, đã đến nhà bà Anne Llorens. Cha trang trọng mở ngăn tủ nhỏ để lấy ra Bình Thánh bằng thủy tinh đựng 4 Bánh Thánh. Chính lúc này đây, cha phó vô cùng ngạc nhiên khi trông thấy 4 Bánh Thánh vẫn giữ nguyên nét trắng tinh toàn vẹn và Bình Thánh bằng thủy tinh lại được mạ vàng! Mạ vàng ngay bên trong lớp thủy tinh! Phép lạ trong phép lạ!
4 ngày sau, đến phiên cha sở Jacques Pérone trở về. Cha đến nhà ông thị trưởng Jean Bonafos lấy Bánh Thánh lớn và long trọng rước về thánh đường. Thật là một đại lễ cho toàn thể giáo xứ Pézilla-de-la-Rivière. Cha sở đặt Bánh Thánh lớn và 4 Bánh Thánh nhỏ vào trong Bình Thánh mới và để vào Nhà Tạm nơi bàn thờ chính. Gần một thế kỷ sau, tức năm 1875, khi thay Bình Thánh mới và đặt ra bên ngoài cho các tín hữu Công Giáo đến thờ lạy và kính viếng, giáo quyền lại một lần nữa có dịp ghi nhận rằng, các Bánh Thánh vẫn được bảo tồn nguyên vẹn, y như lúc được cất vào Nhà Tạm ngày 15-9-1793.
(P. Eugène COUET, “Les Miracles Historiques du Saint Sacrement”, Éditions D.F.T, Réédition 1998, trang 226-230 / 150-161). (Soeur Jean Berchmans Minh Nguyệt)

------------------------------------------------------


PHÉP LẠ THÁNH THỂ

THẾ KỈ 19
1. PHÉP LẠ TẠI BORDEAUX, NƯỚC PHÁP, Năm 1822
(Joan Carroll Cruz, Phép Lạ Thánh Thể, Chương 30, Regina xb, USA, 2002)
Khi trật tự được vãn hồi sau cuộc Cách Mạng Pháp (1793-1798), Giáo Hội đã nỗ lực hết sức để chữa lại sự thiệt hại trong những năm kinh khủng đầy bất ổn, xáo trộn, và hủy hoại ấy. Đó là một giai đoạn quan trọng khởi đầu cho Giáo Hội tại nước Pháp, với sự ra đời của nhiều dòng tu dấn thân trong các nỗ lực từ thiện đa dạng.
Thành phố Bordeaux diễm phúc vì có ba cộng đoàn tu trì mới được thành lập. Cha William Joseph Chaminade thành lập một cộng đoàn cho nam giới gọi là Marianists; Mẹ de Laourous thành lập một cộng đoàn cho nữ giới để chăm sóc các phụ nữ cơ cùng; và cha Peter de Noailles thành lập một cộng đoàn cho nữ giới khác gọi là dòng Thánh Gia Bordeaux, các phần tử trong tổ chức này sẽ phục vụ Giáo Hội bằng nhiều phương thế khác nhau. Cộng đoàn thứ ba này - các phần tử đôi khi còn được gọi là các bà Loreto - được thành lập vào năm 1820, hai năm trước khi phép lạ xảy ra. Đấng sáng lập của cộng đoàn, cha de Noailles, lúc ấy đang là cha sở của nhà thờ thánh Eulalie. Cộng đoàn Thánh Gia Bordeaux phát triển rất nhanh, có nhiều nhà được thiết lập ở Bordeaux và vùng thôn quê lân cận. Tại một nguyện đường trong những nhà này, cụ thể là nhà ở số 22-24 phố Mazarin, phép lạ Thánh Thể Bordeaux đã xảy ra.
Chúng ta hãy để vị linh mục trong cuộc kể lại các sự kiện của phép lạ như ngài đã cẩn thận ghi chép lại. Dưới đây là bản dịch một phần của tài liệu ấy:
Tôi muốn tuyên bố rằng tôi là một linh mục hiện đang sống gần giáo xứ thánh Eulalie tại Bordeaux. Tôi không có ý định nào khác, chỉ muốn xác nhận một cách công khai đặc ân tôi muốn ghi lại biến cố có liên quan đến việc thành lập cộng đoàn các bà Loreto. Tôi chính là một nhân chứng cho điều kỳ diệu này. Trước mặt Đấng Cứu Độ, Thiên Chúa của tôi, tôi muốn làm chứng và xác nhận sự thật về những sự kiện được bao hàm trong tuyên ngôn này.
Linh mục Noailles, bề trên dòng Loreto, không thể đích thân ban phép lành Thánh Thể cho cộng đoàn Loreto và nhờ tôi thay mặt ngài làm công việc này. Tôi đi đến nhà của các nữ tu, ngày mồng 3 tháng này, Chúa Nhật thứ ba trước mùa Chay, vào lúc bốn giờ chiều. Ngay khi vừa đến, tôi chuẩn bị làm giờ chầu phép lành Thánh Thể. Như tự nhiên, tôi đặt Mình Thánh, nhưng khi nhìn lên mặt nhật, tôi không sao thực hiện cho xong việc xông hương Thánh Thể. Tôi nhận ra tôi đã đặt Bánh Thánh vào mặt nhật, nhưng thay vì Bánh Thánh, tôi lại nhìn thấy Chúa Cứu Thế, đầu, ngực, và tay, ở giữa vòng tròn của mặt nhật như một khung hình quanh Chúa, nhưng có điều khác là bức hình này sống thực.
Dung mạo Chúa rất sáng láng, như một Thanh niên trạc 30 tuổi, cực kỳ xinh đẹp. Chúa mang một chiếc khăn màu đỏ sậm choàng qua vai và ngực. Đầu Chúa thỉnh thoảng hơi nghiêng về bên phải và rồi bên trái. Sững sờ trước phép lạ và không tin vào mắt mình, tôi cho đó là một ảo ảnh, nhưng phép lạ vẫn tiếp tục. Tôi không sao chắc chắn được nên ra dấu cho em giúp lễ cầm bình hương đến gần. Tôi hỏi em ấy có nhìn thấy gì khác thường không. Em trả lời đã nhận thấy phép lạ và em vẫn còn đang nhìn thấy. Tôi bảo em đi gặp bà bề trên. Tại phòng thánh, chính bà cũng đang sững sờ vì cảnh tượng này và miên man trong những tâm tình trào dâng. Về phần tôi, tôi sấp mình xuống đất. Tôi chỉ hướng mắt lên và hạ mình trước sự hiện diện của Chúa Cứu Thế của tôi. Những giọt nước mắt vui mừng chan chứa nơi tôi vì ân huệ này. Phép lạ tiếp tục kéo dài cho đến hết các ca vãn Thánh Thể, bài thánh ca, và những lời nguyện. Khi bài ca vãn chấm dứt, tôi đi lên bàn thờ, tôi không biết phải làm gì vì dường như lúc này tôi không còn đủ can đảm. Tôi nâng mặt nhật trong tay và ban phép lành, liên lỉ ngắm nhìn Chúa Cứu Thể đang hiển hiện trong tay tôi. Tôi ban phép lành phép lạ cho các bà Loreto, một điều chắc chắn rất hiệu quả cho việc thành lập dòng mới này. Tôi đặt mặt nhật lên bàn thờ, nhưng khi mở ra, tôi không nhìn thấy Bánh Thánh mà Chúa Cứu Thế đã hiện đến ban phép lành. Run rẩy và tràn trề nước mắt, tôi rời nhà nguyện.
Ngay khi tôi vừa ra khỏi nhà nguyện, tất cả mọi người trong nhà dòng và các giáo hữu trong giáo xứ tuốn đến hỏi tôi có thấy điều kỳ diệu và nhiều câu hỏi liên quan. Tôi chỉ nói được những lời này: “Anh chị em đã nhìn thấy Chúa Cứu Thế, đó là một dấu chỉ đặc ân Người ban cho chúng ta để làm cho chúng ta nhớ rằng Người thực sự ở với chúng ta và đòi hỏi anh chị em hãy luôn luôn yêu mến Người, thiết tha hơn trước kia, và thực hành các nhân đức, vì Người đã ban cho anh chị em một hồng ân lớn lao như vậy.” Tôi cáo từ và đi về nhà, nhưng suốt đêm tôi miên man nghĩ về phép lạ mà tôi đã được chứng kiến. Ngày hôm sau, thứ Hai, tôi đến giáo xứ thánh Eulalie và gặp cha Noailles. Tôi kể cho ngài nghe những gì đã xảy ra và những người khác cũng đến và nói về phép lạ. Mặc dù tôi tưởng mình đã nói dài về phép lạ, nhưng em giúp lễ và một vài người nữa trong nhà nguyện đã kể cho ngài nghe về những gì họ đã nhìn thấy…
Những gì xảy ra, tôi tuyên bố chính tôi đã nhìn thấy và hầu như đã chạm đến bằng tay của mình. Cho dù hậu quả lời chứng của tôi có thể nào đi nữa, tôi sẽ bị coi là đồ hết sức vô ơn và tội lỗi nhất mọi người nếu như tôi khước từ minh chứng cho sự thật này.
Tài liệu được ký tên, “Delort, linh mục,” đề ngày 5 tháng 2 năm 1822.
Ngoài chứng từ trên, bà bề trên, người đang quì chầu tại phòng thánh, cũng làm một bản chứng từ. Từ đầu bản tường trình ấy, bà xác nhận mặc dù có thói quen cúi mặt trước Chúa Giêsu Thánh Thể, nhưng bà cảm thấy được thôi thúc nhìn lên. Bà viết tiếp:
Tôi nhận thấy Bánh Thánh đã được thay thế bởi Chúa Cứu Thế Giêsu Kitô sáng láng. Tôi có thể nhìn thấy từ đầu cho đến ngực của Người. Người ở bên trong vòng tròn của mặt nhật, nhưng dường như thỉnh thoảng Người cử động, và rồi mặt Người muốn trườn ra khỏi vòng khung để hướng về phía tôi. Tôi nhìn thấy ánh sáng chiếu ngời mọi phía, và dường như tia nào – cũng có một lúc – giống như những tia sáng dài, nở một bông hoa ở đầu trước khi biến mất. Mải mê với sự kiện này trong suốt bài ca vãn Thánh Thể, các lời nguyện và bài thánh ca, tôi không còn sức để hát bởi vì trong lòng tôi là cả một khối sốt mến nồng nàn. Tôi tự nhủ mình thật vui sướng nếu thực sự Thiên Chúa muốn tỏ mình ra, và tôi thật hạnh phúc được gặp Người vì tôi thường mong ước đặc ân này. Tôi cảm thấy điều đó như một ảo ảnh, nhưng tôi vẫn nhìn thấy Chúa Cứu Thế dưới cùng một hình dạng. Tôi bị cuốn hút vào sự hiện diện này đến độ không nhận ra tác động gây ra nơi vị linh mục và những người khác. Tôi ra về mà không nói với ai lời nào, nhưng có những người đến và kể cho tôi về những gì họ đã nhìn thấy. Sau đó tôi nhận ra mình không sai lầm và tôi chúc tụng Chúa Cứu Thế về những hồng ân Người đã ban cho ngôi nhà nghèo nàn của chúng tôi. Tôi làm chứng tất cả những điều này trước sự hiện diện của Chúa Giêsu, Đức Mẹ Maria, và Thánh Giuse… Mặc dù chúng ta không phải lúc nào cũng nhìn thấy Chúa bằng mắt thân xác, nhưng Người đã thực sự ban cho tôi ơn được nhìn thấy Người.
Tài liệu này được ký “Mẹ Trinité, bề trên của nhà Loreto, ngày 6 tháng 2 năm 1822.”
Những chứng từ khác cũng đã được em giúp lễ và các nhân chứng khác thực hiện và ký tên, tất cả đều xác nhận họ đã nhìn thấy phần đầu, ngực, và tay của Chúa Cứu Thế có chuyển động, trong lúc Người mỉm cười dịu dàng với cộng đoàn. Họ còn kể rằng đôi khi bàn tay trái của Chúa còn chạm nhẹ vào chiếc khăn màu đỏ phủ trên vai, trong khi tay phải giơ lên ban phép lành. Thị kiến kéo dài suốt giờ chầu phép lành, lâu khoảng chừng 20 phút.
Dựa trên tất cả những bản tường trình, đức tổng giám mục Bordeaux đã tuyên bố sự công nhận của Giáo Hội. Đức Leo XII ngay sau đó cũng chuẩn nhận biến cố và ký một đoản sắc thiết lập lễ kính Thánh Gia trong nhà thờ ấy để ghi nhớ biến cố ấy, và công nhận hội dòng mới có ngôi nguyện đường phép lạ đã xảy ra. Ngoài ra, Đức Thánh Cha còn ấn định Chúa Nhật thứ ba trước mùa Chay, ngày phép lạ đã xảy ra, làm lễ kính Thánh Gia – một việc mừng kép ngoại thường dường như chỉ được ban riêng cho giáo phận Bordeaux. Vào năm 1921, đức Benedict XV đã mở rộng bài lễ và bài kinh của lễ này ra toàn thể Giáo Hội, và mừng trong mùa Giáng Sinh.
Hằng năm, trong những tu viện của dòng Thánh Gia có tổ chức những cuộc lễ mừng tôn vinh phép lạ này, nhưng theo chỗ chúng tôi được biết chỉ có các nữ tu, và một số ít tín hữu Công Giáo, là hiểu biết về biến cố này. Mặt nhật đơn sơ được sử dụng trong ngày xảy ra phép lạ ấy vẫn được giữ trong một tu viện của dòng tại Bordeaux.
Cha Peter de Noaille, đấng sáng lập dòng Thánh Gia và cha sở trong thời kỳ phép lạ xảy ra, đang được đề nghị để được phong thánh.
2- Phép Lạ Thánh Thể ở Bordeaux, Pháp, năm 1822
§ Dân Chúa
Phép lạ Thánh Thễ xẩy ra ở Faverney, tuy Mình Thánh Chúa không biến thành thịt hay đổ máu. Nhưng đã không chịu ảnh hưởng luật trọng lượng một cách rất lạ lùng.
Tu Viện có nhà thờ phép lạ xẩy ra, do thánh Giuda xây dựng vào thế kỷ thứ 8. Tu Viện sống theo luật thánh Biển Đức. Tên Tu Viện là “Tu Viện Đức Bà Trắng”, để tôn vinh một bức tượng nhỏ đặt trong nhà nguyện bên phải phía ca đoàn. Tu Viện ban đầu của các nữ tu, đến năm 1132 thì các thầy đến thay thế. Đời sống tu trì vào đầu những nam 1600 không được trọng vọng cho lắm. Vì vậy tu viện chỉ có 7 thầy và 2 tập sinh. Để duy trì Đức Tin của giáo dân đã bị yếu kém bởi ảnh hưởng của tràolưu Tin Lành. Các thày đã duy trì những lễ hội hằng năm, gồm việc chầu Mình Thánh Chúa trong ngày lễ Chúa Thánh Thần và thứ Hai sau lễ. Để sửa soạn cho ngày lễ, một bàn thờ đựợc xếp đặt trước một chắn song đầy trang trí gần nơi cửa ra vào của ca đoàn.
Năm 1608, những nghi lễ vào ngày Chúa Nhật lễ Chúa Thánh Thần được một số lớn dân chúng tham dự. Đến đêm, cửa nhà thờ đóng, các tu sĩ sửa soạn đi nghỉ, chỉ còn hai đèn dầu cháy sáng đặt trước hào quang trên bàn thờ.
Hôm sau, thứ Hai, ngày 26.5, thầy Phụ trách phòng thánh ra mở cửa nhà thờ, thày thấy nhà thờ đầy khói và lửa bốc cháy mọi phía nhà thờ. Thày vội chậy về Tu viện báo tin cho các thày biết việc đang xẩy ra trong nhà thờ. Lập tức các thày vội vã chạy tới tìm mọi cách để cứu chữa nhà thờ. Khi đang dập tắt ngọn lửa, một tập sinh trẻ, mới 18 tuổi, thấy hào quang lơ lửng trên không, hơi tiến lên phía trước, nhưng không nắm bắt được.
Tin lạ chuyền đi nhanh chóng.. Dân làng và các linh mục lân cận đến đầy nhà thờ. Các thày dòng Phanxicô ở Vesoul cũng vội vã tới chứng kiến phép lạ. Nhiều người kinh ngạc quì xuống trước hào quang lơ lửng trên không. Nhưng đông đảo hoài nghi chỉ cốt đến xem sự lạ nhưng chưa tin. Những giờ còn lại trong ngày cũng như suốt đêm, người ta vẫn kéo nhau tới và những người hiếu kỳ tự do đi lại trong khu vực phép lạ.

Những giớ sáng sớm ngày thứ Ba, ngày 27.5, các linh mục lân cận luân phiên dâng lễ, phép lạ vẫn cứ tiếp diễn. Quãng 10 giờ sáng, lúc truyền phép trong thánh lễ do cha Nicolas Aubry, cha sở xứ Menoux, cử hành, cộng đoàn thaấy hào quang nghiêng nghiêng và từ từ hạ xuống bàn thờ mà người ta để dưới thay cho bàn thờ đã bị cháy. Việc đó kéo dài 33 tiếng đồng hồ.


Ngay ngày 31.5, Đức Tổng Giám Mục Ferdinand de Rye truyền lập một uỷ ban điều tra có 54 người gồm các tu sĩ, linh mục, nông dân và dân làng trong xứ. Hai tháng sau, ngày 30.7.1608, sau khi điều tra và cứu xét thận trọng, mọi người đã trình lên Đức Tổng Giám mục một bản phúc trình rất đầy đủ. Đức Tổng Giám mục đã duyệt xét mọi chi tiết nên ngài đã tuyên bố sự kiện xẩy ra trên đây là một phép lạ.
Chúng ta tìm hiểu một vài khía cạnh phép lạ:Bàn thờ bị cháy thành một đống tro, trừ các chân bàn thờ. Tất cả khăn bàn thờ cũng như đồ trang trí cũng bị cháy. Một trong hai chân nến trên bàn thờ bị sức nóng chảy thành đống sắt. Sức nóng như thế mà hào quang vẫn nguyên vẹn. Hai Mình Thánh Chúa trong bình chỉ bị cong chút xíu. Bốn đồ vật trong một ống bằng pha lê gắn vào hào quang cũng không bị hư hoại. Xương thánh của thánh Agata, một mảnh lụa nhỏ bọc xương thánh, bản bố của Đức Giáo Hoàng về các ân xá, và một thư của Đức Giám mục. Sáp gắn bị cháy xuống thư, nhưng không phá hủy các chữ. Tất cả đều được an toàn.,
Còn về việc hào quang lơ lửng trên không, 54 nhân chứng, trong đó có nhiều linh mục, đã xác nhận rằng: hào quang nghiêng về chắn song, nhưng thánh giá nhỏ trên hào quang không hề chạm. Quả thực có một khoảng cách rõ ràng. Các nhân chứng quả quyết hào quang lơ lửng trong 33 giờ đồng hồ.

Các nhân chưng đã viết lời thề và ký tên. Bản văn này vẫn còn lưu giữ cho tới ngày nay. Họ cũng thề rằng hào quang lơ lửng không do một tác động nào của dân chúng đứng chung quanh hào quang hay ra vào trong nhà thờ.


Một tấm bảng cẩm thạch được gắn dưới nơi đã xẩy ra với những hàng chữ: “Nơi xẩy ra phép lạ”
Tháng 12 năm 1608, năm xẩy ra phép lạ, một trong hai Mình Thánh Chúa ở trong hào quang thời phép lạ, được long trọng rước về thành phố Dole, hồi đó là thủ phủ của miền này.Trong thời Cách mạng Pháp, hào quang chẳng may bị phá hủy. Nhưng Mình Thánh Chúa được các Nghị viên Hội Đồng thành phố Faverney bảo vệ. Họ giấu đi cho tới khi nguy hiểm trôi qua. Sau này, hào quang được làm lại như trước, dựa theo các bức tranh. Và Mình Thánh phép lạ được đặt trong hào quang này.
3. PHÉP LẠ TẠI DUBNA, NƯỚC BA LAN

(Hiện nay là Dubna, nước Nga)
Năm 1867
(Joan Carroll Cruz, Phép Lạ Thánh Thể, Chương 31, Regina xb, USA, 2002)
Để trân trọng phép lạ tại Dubna, trước tiên chúng ta phải xét đến những hoàn cảnh chính trị và Giáo Hội tại Ba Lan vào năm 1863, bốn năm trước khi phép lạ xảy ra.
Nước Nga láng giềng khi ấy có một ảnh hưởng đối với Ba Lan, họ cố gắng loại bỏ tinh thần dân tộc và ngôn ngữ Ba Lan. Ngôn ngữ chính thức tại Ba Lan trong thời kỳ ấy là tiếng Nga. Tại những nơi công cộng và các lớp học, việc sử dụng tiếng Ba Lan bị cấm nghiêm ngặt. Những người Ba Lan bị thất nghiệp, mọi đoàn thể bị đàn áp, các địa danh mang tên Ba Lan đều bị đổi sang tiếng Nga và các điền trang tư nhân đều bị tịch thu.
Giáo Hội Ba Lan phải chịu các điều kiện vừa vô lý vừa khó khăn. Vì Công Giáo được nhìn nhận là tôn giáo chính, nên họ đã cố gắng hết sức – và đã thành công – trong việc làm sứt mẻ lòng trung thành với Đức Thánh Cha và giảm thiểu uy quyền của ngài trên Giáo Hội. Các tu viện bị đàn áp, tài sản Giáo Hội bị tịch thu, các việc sùng kính công cộng, các cuộc rước kiệu, việc thiết lập các đền thánh bên đường, và việc trùng tu các nơi thờ phượng đều bị cấm đoán, trong khi các sách phụng vụ và việc sùng kính của bè rối được áp đặt vào các nhà thờ Công Giáo.
Vào năm 1865, tất cả những mối bang giao giữa nước Nga với đức Pius IX, người có thái độ nâng đỡ và thông cảm với dân tộc Ba Lan, bị cắt đứt. Thay vì để Đức Thánh Cha điều hành Giáo Hội, một hội đồng kinh sĩ đã được thành lập tại thành phố St. Petersburg để làm việc như một cơ quan điều hành chính yếu. Các giám mục, các linh mục hạt trưởng và các công hội đã chống lại biện pháp này, kết quả là một số vị lãnh đạo cao cấp của Giáo Hội Ba Lan bị đày sang Nga. Theo gương của các vị lãnh đạo, các giáo sĩ – được sự kính phục và nêu gương cho các tín hữu - cũng can đảm giữ vững lập trường và không nhìn nhận thẩm quyền của hội đồng kinh sĩ.
Tuy nhiên, trên thực tế cũng có nhiều người Công Giáo nhát đảm đã bỏ đạo để theo bè đảng.
Trong những thời kỳ đàn áp như thế, dường như Chúa Cứu Thế cảm thương dân tộc Ba Lan chịu chiến tranh tàn phá. Như để làm bừng dậy niềm hy vọng và ban cho họ một dấu chứng về sự chở che đầy tình hiền phụ, Người đã hiện ra tại một nhà thờ Công Giáo nhỏ tại Dubna, ở một ngôi làng nhỏ thuộc Ba Lan. (Ngày nay, theo sự kiện thay đổi đường biên giới, Dubna thuộc về nước Nga, cách thành phố Tula chừng 25 dặm về hướng Tây).
Các tín hữu trong giáo xứ rất đạo đức đã âm thầm làm việc sùng kính Bốn Mươi Giờ vào ngày 5 tháng 2 năm 1867. Trong lúc mặt nhật được tôn kính trên bàn thờ, các tín hữu sát bàn thờ chỉ cho nhau thấy những tia sáng lấp lánh dịu dàng từ Bánh Thánh chiếu ra. Sau đó, bỗng nhiên, hình ảnh rõ nét của Chúa hiện ra ở giữa Bánh Thánh!
Cha xứ đang cử hành các nghi thức đã cẩn trọng xem xét phép lạ. Hơn nữa, nhiều người trong cộng đoàn cũng đến gần sát bàn thờ để đích thân xem xét sự kiện hiện ra – mặc dù một phần vì sợ hãi, một phần vì sốt mến khiến cho họ không sao tiến lên các bậc của bàn thờ được. Người ta kể lại sự kiện hiện ra kéo dài đến khi việc sùng kính kết thúc. Mọi người hiện diện đều được nhìn thấy phép lạ – cả các tín hữu Công Giáo, những người đang tham dự nghi thức vì lòng đạo đức, và cả những người thuộc các bè đảng, những kẻ bị thúc đẩy chỉ vì tính tò mò.
Tin tức về sự kiện lan ra khắp khu vực và làng xã, và vì một vài người thuộc các bè đảng cũng đã chứng kiến sự lạ, nên việc này đã khiến nhà cầm quyền chú ý. Vị linh mục sau đó được triệu đến gặp giám đốc công an để làm tờ cung khai. Thông tin sau đó được chuyển đến ngài thủ hiến tại Schitomir, ông này dọa sẽ bỏ tù bất kỳ ai bàn tán về phép lạ. Tuy nhiên, vị linh mục đã tường trình chi tiết cho giám mục, nhưng ngài đòi giữ im lặng vì lo sợ nhà cầm quyền sẽ đóng cửa nhà thờ.

Mặc dù tin tức về phép lạ lan truyền rất nhanh chóng và âm thầm, nhưng đã gây được sự chú ý của toàn cõi đất nước Ba Lan đau thương – đem đến niềm ủi an và khích lệ lớn lao cho các tín hữu trong lúc đang đợi chờ phục hồi chủ quyền đất nước và được tự do sống niềm tin Công Giáo của mình.


4- PHÉP LẠ THÁNH THỂ TẠI LỘ ĐỨC
Kể từ cuộc hành hương toàn quốc Pháp đầu tiên vào năm 1888 các cuộc hành hương Lộ Đức nối tiếp đều mang một nét đặc thù. Đó là các cuộc rước kiệu Thánh Thể trọng thể, bày tỏ lòng tôn sùng kính yêu của các tín hữu Công Giáo đối với Chúa GIÊSU KITÔ ẩn mình trong bí tích Thánh Thể.
Thế nhưng, năm 1888 là năm đáng ghi nhớ nhất.
Tờ Nhật Ký Lộ Đức - Le Journal de Lourdes, số xuất bản tháng 8 năm 1888 đã tường thuật tỉ mỉ biến cố trọng đại như sau.

Chứng kiến cảnh tượng buồn thương của các tín hữu hành hương - tuy vẫn giữ vững lòng tin cậy mến -, Trời Cao đã gợi ý cho một linh mục thánh thiện. Cha thầm nghĩ: “Tại sao không tổ chức một buổi rước kiệu Mình Thánh Chúa, mang Chúa GIÊSU Thánh Thể đi qua giữa đoàn bệnh nhân? Tại sao không khuyến khích các tín hữu dâng lên Chúa GIÊSU Thánh Thể lời tung hô đi kèm lời khẩn cầu chữa lành bệnh tật phần xác, y như khi Chúa GIÊSU còn sống nơi dương thế?”


Lời đề nghị của vị linh mục thánh thiện được Cha Picard hân hoan tiếp nhận. Cha tức khắc thu thập những câu chúc tụng, các lời van xin ghi trong Phúc Âm rồi in trên một tờ giấy khổ nhỏ và phân phát cho các tín hữu hành hương. Đúng 4 giờ chiều ngày 22-8-1888, Mình Thánh Chúa GIÊSU được long trọng rước ra từ Đền Thánh, đi giữa đoàn tín hữu hành hương tay cầm nến sáng. Sau khi đoàn rước đi qua Hang Đá Đức Mẹ Lộ Đức, các lời khẩn cầu bắt đầu vang lên với trọn nhiệt tâm, nhiệt huyết, không thể nào diễn tả cho hết.
Khi đầu đoàn rước tiến ra bờ sông Gave, mọi người hiện diện cùng có chung một tư tưởng: “Lộ Đức không còn là Lộ Đức mà là thành Giêrusalem thời Chúa GIÊSU KITÔ. Chúa Cứu Thế đang xuất hiện sống động và khải hoàn với những công trình kỳ diệu .. Suốt đời, tôi sẽ không bao giờ quên tiếng kêu, quên đám đông cùng với các lời khẩn thiết hòa lẫn nước mắt chan hòa tuôn rơi”.
Một luồng gió thánh linh đầy phấn khởi thổi trên đầu mọi tín hữu hiện diện. Từ trên các băng-ca, các chiếc giường, các xe lăn, những bệnh nhân đang đau đớn nơi thể xác, đồng thanh van xin. Hòa nhịp với lời cầu thống thiết, toàn thể các tín hữu hành hương cũng cất tiếng kêu xin, lập lại lời của người bất toại và người mù thành Giêricô thưa cùng Chúa GIÊSU rằng: “Lạy Chúa, nếu Ngài muốn, xin Ngài chữa con lành bệnh!”
Ngay lúc ấy, trước Hang Đá Đức Mẹ, ở giữa đám đông, ở giữa tình thương trìu mến, ở giữa những gì thâm sâu nhất, cao cả nhất trong tâm hồn con người, trước mặt Con Thiên Chúa phúc lành, trước sự chứng kiến của toàn dân nước Pháp, 8 người bệnh nằm liệt giường được chữa khỏi và đứng thẳng lên: “Hãy đứng dậy, vác giường mà về nhà đi!”, Mát-thêu, chương 9 câu 6.
Làm sao diễn tả cho hết quang cảnh cảm động trên đây? Khi lời kinh Magnificat long trọng cất lên, vang dội và chiến thắng, không ai cầm được nước mắt cảm tạ và tri ân.
Người ta dễ dàng tưởng tượng ra quang cảnh đầy phấn khởi của buổi lễ cử hành ngay đêm hôm ấy. Cuộc rước đuốc diễn ra trong vòng hai tiếng đồng hồ, làm sáng rực toàn khu vực Trung Tâm Thánh Mẫu Lộ Đức: từ Hang Đá cho đến Đền Thánh và mọi lối đi dọc theo bờ sông Gave. Sau khi hát Kinh Tin Kính, đoàn tín hữu hành hương vang lên những lời chúc tụng như: Vạn tuế Chúa GIÊSU KITÔ! Vua Chiến Thắng! Vạn Tuế Đức Bà Lộ Đức! Hoan hô Đức Thánh Cha Lêô 13!

Sáng hôm sau 23-8-1888, muôn người như một, chỉ mở miệng để nói về cuộc rước kiệu Mình Thánh Chúa và biến cố xảy ra vào buổi chiều hôm trước. Vì thế, mỗi người tự nguyện sẽ tham dự cuộc kiệu Mình Thánh Chúa vào lúc 4 giờ chiều hôm ấy. Nói thế để hiểu rằng, toàn khu vực Trung Tâm Thánh Mẫu Lộ Đức đông chật tín hữu hành hương. Hàng trăm bệnh nhân nằm trên cáng được khiên ra đặt trên lối đi.




Khi Chúa GIÊSU Thánh Thể xuất hiện, tức khắc tái diễn quang cảnh xảy ra vào buổi chiều hôm trước. Hay nói đúng hơn, mọi tâm hồn như sốt sắng hơn, cảm động hơn và phấn khởi tươi vui hơn. Mọi người cất tiếng hát, đọc kinh và kêu cầu với những lời ghi trong Phúc Âm: “Lạy Chúa GIÊSU, xin thương chữa lành chúng con! Lạy Chúa GIÊSU, kẻ Thầy yêu đang ốm nặng!” Người đau bệnh cũng như kẻ lành mạnh, tất cả đều giơ tay khẩn thiết hướng về phía Mình Thánh Chúa.
Thế là, Chúa GIÊSU Thánh Thể Lộ Đức liền ra tay ban phúc lành, đáp trả lời kêu cầu của mọi người thiện tâm. Một chủng sinh bị bệnh đang ở giai đoạn cuối đời, liền đứng thẳng lên khỏi chiếc cáng đang nằm, và mạnh dạn tiến bước theo sau chiếc kiệu Mình Thánh Chúa. Rồi một bệnh nhân thứ hai và một bệnh nhân thứ ba, cũng đứng lên hân hoan bước theo sau Chúa GIÊSU Thánh Thể.
Các nhân viên khiêng cáng phải khó nhọc lắm mới giữ được các bệnh nhân nằm im. Mọi người như cuốn hút vào bầu khí hân hoan phúc lành, cảm tạ và tri ân. Khi ba người khỏi bệnh tiến gần đến Hang Đá Lộ Đức giữa tiếng vỗ tay vang dội, thì những vụ khỏi bệnh khác được tiếp diễn. Một người, hai người, rồi nhiều người được lành mạnh, đứng thẳng lên và vui tươi nhập bọn với anh chị em khác.
Ôi, diễn tả sao cho cùng những tâm tình kín ẩn của mọi người hiện diện lúc ấy. Không ai bảo ai, tất cả đồng thanh cất tiếng tung hô: “Hosanna - Vạn tuế Con Vua Đavít! Chúc tụng Đấng nhân danh Thiên Chúa mà đến!”
Kể từ sau biến cố trọng đại ấy, hàng năm khi diễn ra các cuộc rước kiệu Mình Thánh Chúa nơi Hang Đá Lộ Đức, các tín hữu hành hương như cảm thấy lòng mình tràn ngập lòng tin/cậy/mến đối với Mình Thánh Chúa GIÊSU và không ngớt lời chúc tụng ngợi khen. Và Chúa GIÊSU Thánh Thể cũng rộng tay ban phát các ơn lành hồn xác cho tất cả những ai cầu khẩn Ngài với trọn lòng tin/cậy/mến. (Soeur Jean Berchmans Minh Nguyệt)

tải về 1.12 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương