PHẦn thứ nhất kết quả thực hiện nghị quyếT ĐẠi hội XX nhiệm kỳ 2010 – 2015


- Công tác xây dựng chính quyền được đẩy mạnh; năng lực tổ chức thực hiện và hiệu lực quản lý nhà nước được nâng lên; cải cách tư pháp đạt kết quả tích cực



tải về 304.64 Kb.
trang2/4
Chuyển đổi dữ liệu10.08.2016
Kích304.64 Kb.
#15519
1   2   3   4

2- Công tác xây dựng chính quyền được đẩy mạnh; năng lực tổ chức thực hiện và hiệu lực quản lý nhà nước được nâng lên; cải cách tư pháp đạt kết quả tích cực

Đoàn đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân thành phố tích cực đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động, tăng cường tiếp xúc, đối thoại và xử lý những kiến nghị, nguyện vọng của cử tri. Hoạt động giám sát và chất lượng các kỳ họp Hội đồng nhân dân được nâng cao, bám sát thực tiễn, lựa chọn những vấn đề bức xúc cử tri đặc biệt quan tâm, trên cơ sở đó đề ra nhiều quyết sách phù hợp để phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững quốc phòng, an ninh trên địa bàn, nổi bật là tổ chức tốt các hội nghị giám sát giữa 2 kỳ họp được nhân dân đồng tình, ủng hộ.

Thành phố đã sắp xếp các cơ quan chuyên môn, đơn vị sự nghiệp hợp lý hơn, bộ máy chính quyền các cấp được củng cố, kiện toàn; sắp xếp, tinh gọn các ban giải tỏa đền bù, tái định cư, ban quản lý dự án phù hợp với tình hình mới. Tiếp tục triển khai thực hiện chủ trương thí điểm không tổ chức hội đồng nhân dân quận, huyện, phường. Tập trung xây dựng chính quyền các cấp vững mạnh, đặc biệt là hệ thống chính trị phường, xã. Triển khai Đề án phân bổ lại dân cư, sắp xếp nâng cao chất lượng hoạt động tổ dân phố, thôn.

Công tác cải cách hành chính có nhiều chuyển biến tích cực và đạt kết quả rõ nét. Hệ thống chính quyền điện tử bước đầu được hình thành từ thành phố đến các quận, huyện, sở, ngành, nhất là ứng dụng các dịch vụ công, góp phần nâng cao chất lượng giải quyết thủ tục hành chính. Chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức được nâng cao. Triển khai thực hiện nội dung “5 xây”, “3 chống” (40) theo Chỉ thị 29-CT/TU ngày 06-11-2013 của Ban Thường vụ Thành ủy đạt kết quả bước đầu.

Giai đoạn 2011 - 2014, thành phố luôn thuộc nhóm dẫn đầu và có kết quả tốt về Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI), xếp thứ nhất năm 2013, 2014; Chỉ số sẵn sàng ứng dụng công nghệ thông tin (ICT) dẫn đầu 7 năm liên tiếp (2009 - 2015); Chỉ số cải cách hành chính (PAR INDEX) xếp thứ 1 giai đoạn 2012 - 2014, Chỉ số hiệu quả quản trị hành chính công cấp tỉnh (PAPI) liên tục nằm trong nhóm các tỉnh, thành phố đạt điểm cao nhất từ năm 2011 - 2014. Nhiều mô hình mới, cách làm hay về cải cách hành chính được Trung ương và các địa phương trong cả nước đánh giá cao (41).

Công tác cải cách tư pháp được chỉ đạo thực hiện theo Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa IX). Việc tham gia xây dựng dự thảo các văn bản luật được thực hiện đầy đủ và có chất lượng. Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, trợ giúp pháp lý được đẩy mạnh. Chất lượng điều tra, truy tố, xét xử, tranh tụng tại phiên tòa, thi hành án được nâng lên, khắc phục được tình trạng truy tố, xét xử oan, sai, hạn chế được tình trạng bỏ lọt tội phạm, giảm số vụ án và thi hành án dân sự tồn đọng, kéo dài, tạo chuyển biến tích cực trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm.

Công tác tiếp công dân, tiếp nhận xử lý và giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo có chuyển biến tích cực (42), tập trung giải quyết việc khiếu nại, tố cáo tồn đọng, kéo dài và các vụ khiếu kiện đông người, phức tạp, không để xảy ra điểm nóng. Công tác thanh tra đi sâu vào những lĩnh vực nhạy cảm, bức xúc của xã hội, nhất là quản lý tài chính, quản lý đất đai, đầu tư xây dựng cơ bản (43).

3- Nâng cao chất lượng hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội, phát huy dân chủ, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân

Vai trò của Mặt trận, các đoàn thể chính trị - xã hội trong việc phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân không ngừng được nâng cao. Hệ thống tổ chức Mặt trận, các đoàn thể từ thành phố đến cơ sở được củng cố, kiện toàn. Nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng, quản lý nhà nước đối với công tác vận động nhân dân được đổi mới. Tập trung củng cố tổ chức cơ sở, phát triển hội viên, đoàn viên, xây dựng cốt cán phong trào. Vai trò, vị thế của Mặt trận, các đoàn thể được phát huy trong các phong trào an sinh xã hội, xây dựng nông thôn mới, xây dựng đời sống văn hóa cơ sở, tạo sự đồng thuận xã hội, củng cố mối quan hệ gắn bó giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân.

Đổi mới nội dung, phương thức hoạt động hướng về cơ sở, đa dạng hóa các loại hình tập hợp quần chúng. Hoạt động Mặt trận và các đoàn thể quan tâm đến lợi ích thiết thực của hội viên, đoàn viên; giữ vững vai trò nòng cốt trong xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, thực hiện quy chế dân chủ cơ sở. Đổi mới, đa dạng các hình thức tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đến với nhân dân. Có nhiều sáng tạo trong công tác vận động, tập hợp, động viên các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là các nhân sĩ, trí thức, doanh nhân, đồng bào các dân tộc, đồng bào có đạo, chức sắc tôn giáo tích cực đóng góp xây dựng, phát triển thành phố.

Thực hiện nhiều chủ trương, chính sách chăm lo quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân, nhất là địa bàn vùng núi, vùng đồng bào dân tộc, tôn giáo. Phát động, triển khai nhiều cuộc vận động, chương trình hành động, phong trào thi đua yêu nước mang lại hiệu quả thiết thực, như: Cuộc vận động “Ngày vì người nghèo”, “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”, “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”...

Nâng cao năng lực giám sát, phản biện xã hội đối với việc thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước có liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, hiệu quả, hiệu lực quản lý, điều hành của chính quyền các cấp. Các hội quần chúng đóng góp tích cực cho sự phát triển chung của thành phố, nhất là trên các lĩnh vực công tác xã hội, nhân đạo, từ thiện, giúp nhau trong sản xuất, đời sống, giáo dục truyền thống, khuyến học, khuyến tài, xây dựng đời sống văn hóa tại cộng đồng dân cư, tư vấn pháp luật, xây dựng nông thôn mới...

B- HẠN CHẾ, YẾU KÉM VÀ NGUYÊN NHÂN

I- Hạn chế, yếu kém

- Kinh tế tăng trưởng khá nhưng chưa thật bền vững. Quy mô nền kinh tế còn nhỏ (44), tích lũy để tái đầu tư chưa đáp ứng yêu cầu phát triển, sức cạnh tranh và hiệu quả trên một số lĩnh vực còn thấp. Việc lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện 5 đột phá kinh tế - xã hội vẫn còn những hạn chế. Sức ảnh hưởng, lan tỏa và vai trò đầu tàu, cực phát triển của khu vực chưa rõ nét. Mô hình tăng trưởng chưa có thay đổi lớn, còn 4 chỉ tiêu do Đại hội XX đề ra chưa đạt (45).  

Lĩnh vực du lịch chưa có nhiều sản phẩm độc đáo, đặc trưng so với tiềm năng, lợi thế. Chất lượng dịch vụ du lịch tuy có cải thiện nhưng vẫn chưa đáp ứng tốt nhu cầu của du khách. Dịch vụ thương mại tuy phát triển nhưng chưa phát huy vai trò trung tâm bán buôn, phát luồng hàng hóa của khu vực. Năng lực, quy mô sản xuất công nghiệp chưa có bứt phá mạnh mẽ, công nghệ chậm được đổi mới, chưa chú trọng đúng mức công nghiệp phụ trợ; tiến độ xây dựng hạ tầng Khu Công nghệ cao, Khu Công nghệ thông tin tập trung chậm. Thu ngân sách chưa thực sự ổn định, còn để thất thu, nhất là trong lĩnh vực dịch vụ du lịch. Kết quả thu hút các nguồn vốn đầu tư, nhất là đầu tư trực tiếp nước ngoài còn thấp; phần lớn (96%) doanh nghiệp trên địa bàn có quy mô nhỏ, chưa hình thành được những ngành hàng, sản phẩm, doanh nghiệp chủ lực, có quy mô lớn. Lợi thế về kinh tế biển, vai trò thành phố cảng biển, đầu mối trung chuyển, quá cảnh, giao lưu hàng hóa ở khu vực chưa được tập trung khai thác và phát huy hiệu quả.

Kết cấu hạ tầng đô thị tuy được đầu tư phát triển nhanh, nhưng có mặt chưa đồng bộ. Tiến độ đầu tư, xây dựng một số dự án, công trình kết cấu hạ tầng trọng điểm còn chậm (46). Nhiều đồ án quy hoạch của thành phố (47), dự án của các nhà đầu tư (48) qua nhiều năm không triển khai hoặc triển khai chậm, kéo dài, gây lãng phí nguồn tài nguyên, làm ô nhiễm môi trường, gây bức xúc và ảnh hưởng đến cuộc sống của nhân dân. Một số điểm nóng về ô nhiễm môi trường, ngập úng cục bộ chưa được xử lý dứt điểm (49). Quá trình vận dụng, thực thi một số chủ trương, chính sách về lĩnh vực quản lý, sử dụng đất đai có mặt còn khuyết điểm.

Lĩnh vực văn hóa - nghệ thuật chưa được đầu tư phát triển tương xứng với kinh tế và nhu cầu thụ hưởng của người dân. Công trình thiết chế văn hóa còn thiếu, phân bổ chưa đều; tỷ lệ diện tích đất dành cho mục đích công cộng thấp. Văn minh đô thị chuyển biến chậm, có mặt còn bức xúc. Chủ trương xã hội hóa trong các lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hóa, thể dục thể thao đạt kết quả chưa cao. Công tác phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao vẫn còn một số hạn chế, chưa gắn kết chặt chẽ giữa thu hút và đào tạo, giữa đào tạo và sử dụng. Năng lực khoa học và công nghệ của thành phố chưa thực sự đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế; thiếu sự liên kết giữa nghiên cứu khoa học, giáo dục và đào tạo với sản xuất, kinh doanh. Việc chuyển đổi ngành nghề, giải quyết việc làm, nâng cao đời sống cho một bộ phận dân cư thuộc diện di dời giải tỏa thực hiện chưa tốt.

- An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội còn tiềm ẩn phức tạp. Xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân, biên phòng toàn dân và xây dựng khu vực phòng thủ có mặt chưa thật vững chắc; phát triển kinh tế gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh trong một số lĩnh vực chưa chặt chẽ. Tội phạm, tệ nạn xã hội, ma túy vẫn diễn biến phức tạp; tai nạn giao thông tuy có giảm nhưng chưa cơ bản.  

- Kết quả công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị trên một số mặt còn hạn chế. Việc thực hiện Chỉ thị 03-CT/TW của Bộ Chính trị gắn với Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) về xây dựng Đảng, nhất là việc ngăn chặn và đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa đạt được kết quả như mong muốn. Công tác chính trị tư tưởng có lúc, có nơi còn bị động, chưa kịp thời định hướng dư luận trước những vấn đề xã hội quan tâm. Công tác đấu tranh phòng, chống diễn biến hòa bình, phản bác các quan điểm sai trái của các thế lực thù địch chưa đáp ứng yêu cầu và thực tiễn đặt ra.

Chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức các cấp được nâng lên, nhưng vẫn chưa thực sự đáp ứng yêu cầu. Công tác quy hoạch, đào tạo, luân chuyển cán bộ chưa được quan tâm đúng mức, chưa tạo được tính kế thừa, đôi lúc còn hẫng hụt khi có thay đổi về nhân sự. Tỷ lệ cán bộ nữ, cán bộ trẻ giữ các chức vụ lãnh đạo, quản lý còn thấp. Nhận thức và chuyển biến của một số cấp ủy, tổ chức đảng, ủy ban kiểm tra về công tác kiểm tra, giám sát chưa cao; kiểm tra dấu hiệu vi phạm thực hiện còn ít; chưa coi trọng kiểm tra phòng ngừa, phát huy nhân tố tích cực, điển hình. Phương thức lãnh đạo của cấp ủy và chính quyền cùng cấp có lúc, có nơi chưa thật đồng bộ. Công tác xây dựng tổ chức đảng, phát triển đảng viên ở địa bàn khu dân cư, trong doanh nghiệp ngoài khu vực Nhà nước gặp nhiều khó khăn. Một số chủ trương, chỉ thị, nghị quyết của Đảng triển khai thực hiện chưa hiệu quả và chậm đi vào thực tiễn. Việc thực hiện thí điểm chủ trương bí thư cấp ủy đồng thời là chủ tịch ủy ban nhân dân cùng cấp chưa phát huy hiệu quả trong đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng.

Hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trên một số lĩnh vực còn hạn chế. Công tác cải cách thủ tục hành chính còn chậm; công tác phối hợp giữa các đơn vị và việc kiểm tra, giám sát trong tổ chức thực hiện còn bất cập. Một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức chưa thật sự chuyên nghiệp, trách nhiệm công vụ chưa cao. Hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, thực hành tiết kiệm cũng như công tác cải cách tư pháp còn hạn chế, chưa đồng bộ; trình độ, năng lực một bộ phận cán bộ tư pháp chưa đáp ứng kịp yêu cầu của nhiệm vụ.

Hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội chưa đồng bộ; nội dung, phương thức hoạt động tuy có đổi mới nhưng có mặt còn hạn chế. Công tác tập hợp quần chúng chưa đạt yêu cầu đề ra, chưa phát huy tốt vai trò giám sát và phản biện xã hội. Vai trò của một số đoàn thể tại cơ sở chưa thực sự rõ nét. Công tác tuyên truyền, vận động chưa đi vào chiều sâu, đôi lúc chưa thật sát dân, sát cơ sở. Số lượng hội, đoàn viên có tăng nhưng chất lượng chưa cao. Công tác phát triển tổ chức hội đoàn viên trong doanh nghiệp ngoài nhà nước, trong một số đối tượng đặc thù còn yếu. Lực lượng cốt cán chính trị ở cơ sở chưa phát huy hết vai trò, chất lượng chưa đảm bảo yêu cầu.



II- Nguyên nhân hạn chế, yếu kém  

- Về khách quan, các cơ chế, chính sách, quy định pháp luật chưa đáp ứng quá trình phát triển, đô thị hóa của đất nước; chưa tạo điều kiện phát huy tiềm năng, lợi thế của địa phương. Những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới, khu vực, căng thẳng do tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông, tác động của khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế, quy mô nền kinh tế còn nhỏ, thị trường hạn hẹp, thiên tai, dịch bệnh, cùng nhiều vấn đề phát sinh khác đã ảnh hưởng lớn đến nỗ lực của thành phố trong việc lãnh đạo, điều hành các chính sách phát triển kinh tế - xã hội, thu hút đầu tư trong và ngoài nước.

- Về chủ quan, việc quán triệt chủ trương của Đảng chưa sâu, tổ chức thực hiện chưa tốt. Công tác xúc tiến đầu tư hiệu quả chưa cao. Cụ thể hóa, triển khai thực hiện 5 đột phá về kinh tế - xã hội theo Nghị quyết Đại hội XX chưa quyết liệt. Khả năng phân tích, dự báo còn hạn chế, chưa dự lường được tác động tiêu cực của suy thoái kinh tế toàn cầu, cùng nhiều khó khăn phát sinh ngoài dự kiến, nên nhiều chỉ tiêu chủ yếu của kế hoạch 5 năm 2010 - 2015 được đề ra khá cao, khó thực hiện. Chưa phối hợp tốt với các bộ, ban, ngành Trung ương trong thể chế hóa các cơ chế, chính sách ưu đãi, đặc thù nhằm tạo động lực để Đà Nẵng phát triển nhanh và bền vững hơn.

Công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị, đặc biệt là công tác tổ chức bộ máy và cán bộ chưa thật sự đáp ứng yêu cầu phát triển của thành phố. Phân công, phân cấp chưa hợp lý; công tác phối hợp, chỉ đạo, điều hành giữa các cấp, các ngành còn thiếu đồng bộ; chưa phát huy tốt vai trò của các cơ quan chuyên môn trong việc tổ chức quản lý và tham mưu. Tinh thần trách nhiệm, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và ý thức tổ chức kỷ luật, tính tự giác, năng động, sáng tạo của một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức các cấp vẫn còn hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.



C- ĐÁNH GIÁ CHUNG VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM

I- Đánh giá chung

Năm năm qua, trong bối cảnh có nhiều khó khăn, thách thức, Đảng bộ, quân và dân thành phố đã nỗ lực phấn đấu và đạt được những kết quả quan trọng. Nổi bật là tình hình chính trị thành phố luôn ổn định, nội bộ đoàn kết, nhân dân đồng thuận, kinh tế - xã hội phát triển, quốc phòng, an ninh được củng cố, công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị được tăng cường.

Trước những khó khăn về kinh tế - xã hội, thành phố đã kịp thời điều chỉnh, đổi mới phương thức lãnh đạo, điều hành có trọng tâm, trọng điểm, hiệu quả, sát với tình hình thực tiễn; tăng cường kiểm tra, giám sát, đôn đốc việc thực hiện, kịp thời giải quyết các vướng mắc; đề ra nhiều chủ trương, chính sách đúng đắn, hợp lòng dân; huy động sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân và tranh thủ các nguồn lực để đầu tư phát triển thành phố; đẩy mạnh hỗ trợ doanh nghiệp phát triển sản xuất, kinh doanh, tăng nguồn thu cho ngân sách. Kết quả, kinh tế duy trì được mức tăng trưởng khá, cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng; chất lượng tăng trưởng một số mặt được cải thiện, môi trường đầu tư thông thoáng. Hoạt động đối ngoại được mở rộng, vị thế thành phố ngày càng được nâng cao.

Các ngành dịch vụ phát triển nhanh, nhất là dịch vụ du lịch có nhiều khởi sắc. Thu hút đầu tư phát triển công nghiệp công nghệ cao đạt kết quả bước đầu, góp phần định hình một số ngành, sản phẩm có giá trị gia tăng, hàm lượng công nghệ cao, làm động lực phát triển kinh tế thành phố. Huy động các nguồn lực đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, đô thị đạt kết quả tốt, nhiều công trình trọng điểm quy mô lớn, kỹ thuật phức tạp được hoàn thành đưa vào sử dụng, tạo diện mạo mới về đô thị theo hướng văn minh, bền vững, thân thiện. Chủ trương xây dựng nông thôn mới được tập trung thực hiện, có khả năng về đích sớm so với kế hoạch đề ra. Các lĩnh vực văn hóa - xã hội phát triển khá, phù hợp với phát triển kinh tế và vị thế mới của thành phố. Nhiều chính sách an sinh, phúc lợi xã hội mang đậm tính nhân văn, gắn với Chương trình thành phố “5 không” và “3 có” được triển khai có hiệu quả, góp phần nâng cao đời sống nhân dân, nhất là đối tượng chính sách, hộ nghèo. Công tác phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao được quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện, tạo chuyển biến và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực khu vực công của thành phố.

Quốc phòng, an ninh được tăng cường, trật tự an toàn xã hội được bảo đảm; chủ động phòng ngừa, đấu tranh với các loại tội phạm. Công tác xây dựng Đảng đạt nhiều kết quả quan trọng. Hệ thống chính trị được củng cố và hoạt động ngày càng hiệu quả. Công tác cải cách hành chính, nâng cao trách nhiệm, hiệu lực quản lý, điều hành của chính quyền các cấp có chuyển biến rõ nét. Công tác phòng, chống tham nhũng, cải cách tư pháp được quan tâm thực hiện. Nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể tiếp tục được đổi mới, hướng về cơ sở, chăm lo xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, góp phần củng cố và làm nổi bật mối quan hệ cốt lõi giữa các cơ quan trong hệ thống chính trị với nhân dân, đó là: “Đảng nói, dân tin; Mặt trận, đoàn thể vận động, dân theo; Chính quyền làm, dân ủng hộ”.

Tuy nhiên, kinh tế - xã hội phát triển vẫn chưa tương xứng với tiềm năng, quy mô nền kinh tế còn nhỏ, tích lũy để tái đầu tư còn hạn chế. Chất lượng tăng trưởng nhiều mặt còn thấp, chậm được cải thiện. Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt thấp; phần lớn doanh nghiệp thành phố có quy mô nhỏ và siêu nhỏ, chưa hình thành được những ngành hàng, sản phẩm, doanh nghiệp chủ lực, có quy mô lớn. Nguồn lực đầu tư còn hạn chế. Kết cấu hạ tầng đô thị có mặt chưa đồng bộ. Chất lượng giáo dục và đào tạo, nguồn nhân lực chưa đồng đều; các lĩnh vực văn hóa, văn nghệ phát triển chưa ngang tầm với tiềm năng, lợi thế của thành phố; các thiết chế văn hóa chậm được quan tâm đầu tư. Đời sống, việc làm của một bộ phận nhân dân còn nhiều khó khăn, mức sống chậm được cải thiện. Tình hình trật tự an toàn xã hội, an toàn giao thông còn diễn biến phức tạp. Công tác xây dựng Đảng, hệ thống chính trị trên một số mặt còn hạn chế. Vai trò động lực, liên kết khu vực và sức lan tỏa còn yếu.



II- Bài học kinh nghiệm

Một là, vận dụng linh hoạt, sáng tạo chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước; xác định đúng nhiệm vụ trọng tâm, giải pháp đột phá để tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành; coi trọng xây dựng đội ngũ cán bộ; phát huy vai trò người đứng đầu và trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Tranh thủ sự lãnh đạo, hỗ trợ, giúp đỡ của Trung ương, các ban, bộ, ngành, Quân khu V và các địa phương bạn trong quá trình xây dựng, phát triển thành phố.

Hai là, thường xuyên xây dựng, củng cố đoàn kết, thống nhất trong Đảng bộ và đồng thuận sâu rộng trong toàn xã hội; huy động sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân, khai thác có hiệu quả tiềm năng, lợi thế và các nguồn lực của địa phương.

Ba là, nắm vững và quán triệt quan điểm “lấy dân làm gốc”, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò làm chủ, tinh thần trách nhiệm, sức sáng tạo và mọi nguồn lực của nhân dân. Các chủ trương, chính sách đề ra phải có lợi cho dân, nhằm nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân.



PHẦN THỨ HAI
PHƯƠNG HƯỚNG, NHIỆM VỤ NHIỆM KỲ 2015 - 2020

A- BỐI CẢNH

Trong nhiệm kỳ đến, tình hình thế giới và trong nước có cả thuận lợi, thời cơ và khó khăn, thách thức đan xen. Toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, cách mạng khoa học và công nghệ phát triển mạnh mẽ; việc tham gia các hiệp định thương mại, cộng đồng kinh tế quốc tế(50) mở ra nhiều cơ hội và thách thức đối với sự phát triển kinh tế - xã hội thành phố. Công cuộc đổi mới đất nước tiếp tục được đẩy mạnh toàn diện. Đảng bộ và nhân dân thành phố đoàn kết, phấn khởi, có quyết tâm cao; sự đồng thuận trong nhân dân được phát huy; kinh tế, chính trị ổn định, tiềm lực, vị thế được nâng cao; có nhiều kinh nghiệm trong lãnh đạo, quản lý… Đó là những nguồn lực quan trọng để thành phố phát triển nhanh trong giai đoạn đến.

Tuy nhiên, tình hình chính trị - an ninh thế giới và khu vực thay đổi nhanh chóng, biến động khó lường; tình trạng xâm phạm chủ quyền quốc gia, tranh chấp lãnh thổ tiếp tục diễn ra gay gắt; chiến lược “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch tiềm ẩn nhiều yếu tố khó dự lường, nguy cơ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” có chiều hướng ngày càng phức tạp. Việc huy động các nguồn lực đầu tư phát triển gặp nhiều khó khăn. Quy luật kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế cũng có tác động tiêu cực đến tư tưởng, văn hóa, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên, nhân dân. Những vấn đề an ninh tài chính, an ninh năng lượng, an ninh lương thực, an ninh nguồn nước, biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh diễn biến phức tạp sẽ gây ra những ảnh hưởng nhất định. Tình hình đó đòi hỏi Đảng bộ, chính quyền và nhân dân thành phố phải nỗ lực phấn đấu mạnh mẽ, quyết liệt hơn.

B- MỤC TIÊU VÀ CHỈ TIÊU CHỦ YẾU ĐẾN NĂM 2020

Mục tiêu tổng quát

Xây dựng Đảng bộ trong sạch, vững mạnh, giữ vững ổn định chính trị, phát huy dân chủ và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, năng động, sáng tạo, huy động mọi nguồn lực xây dựng và phát triển thành phố Đà Nẵng trở thành một trong những đô thị lớn của cả nước, là trung tâm kinh tế, văn hóa - xã hội, động lực phát triển của khu vực miền Trung - Tây Nguyên; là địa bàn giữ vị trí chiến lược quan trọng về quốc phòng, an ninh của cả nước; phấn đấu xây dựng Đà Nẵng giàu đẹp, an bình, văn minh, hiện đại.



Một số chỉ tiêu chủ yếu đến năm 2020 (tính theo phương pháp giá cơ bản)

- Tổng sản phẩm xã hội trên địa bàn (GRDP) tăng bình quân 8 - 9%/năm.

- GRDP bình quân đầu người ước đạt 4.000 - 4.500 USD.

- Cơ cấu GRDP: Dịch vụ 63 - 65%; Công nghiệp - Xây dựng 35 - 37% và Nông nghiệp 1 - 2%.

- Giá trị sản xuất các ngành dịch vụ tăng bình quân 9,5 - 10,5%/năm.

- Giá trị sản xuất ngành công nghiệp - xây dựng tăng bình quân 10 - 11%/năm (trong đó, công nghiệp tăng 10,5 - 11,5%/năm).

- Giá trị sản xuất ngành nông nghiệp tăng bình quân 2 - 3%/năm.

- Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa tăng bình quân 15 - 16%/năm.

- Tổng thu ngân sách Nhà nước tăng bình quân 5 - 8%/năm; tổng chi ngân sách Nhà nước tăng bình quân 2 - 3%/năm.

- Tổng vốn đầu tư phát triển tăng bình quân 9 - 10%/năm.

- Giảm tỷ suất sinh 0,1‰/năm.

- Tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề đạt 50 - 55%; tỷ lệ tạo việc làm tăng thêm bình quân 4 - 5%/năm.

- Hoàn thành Đề án giảm nghèo của thành phố giai đoạn 2016-2020 (51).

- Tỷ lệ dân số sử dụng nước sạch 95 - 100%; tỷ lệ thu gom và xử lý chất thải rắn đạt 95 - 98%.

- Hằng năm phát triển trên 2.000 đảng viên mới, không có tổ chức cơ sở đảng yếu kém.

Ba đột phá về phát triển kinh tế - xã hội nhiệm kỳ 2015 - 2020

- Một là, phát triển mạnh các ngành dịch vụ, nhất là du lịch, thương mại; tập trung thu hút đầu tư vào lĩnh vực công nghiệp công nghệ cao, công nghệ thông tin.

- Hai là, đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ và có trọng điểm; tập trung xây dựng và phát triển văn hóa, văn minh đô thị, xây dựng thành phố môi trường.

- Ba là, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.



C- NHIỆM VỤ VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU

I- Về kinh tế - xã hội

1- Phát triển kinh tế nhanh, bền vững gắn với tái cơ cấu và chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng nâng cao quy mô, chất lượng tăng trưởng, hiệu quả và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế

Tập trung triển khai thực hiện có hiệu quả Chương trình hành động của Thành ủy thực hiện Kết luận 75-KL/TW của Bộ Chính trị (khóa XI), Đề án tái cơ cấu kinh tế, Đề án phát triển doanh nghiệp đến năm 2020. Tiếp tục chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng dịch vụ, công nghiệp - xây dựng, nông nghiệp. Trọng tâm là:

- Phát triển nhanh và bền vững các ngành dịch vụ; đẩy mạnh thực hiện Đề án phát triển dịch vụ đến năm 2020, xây dựng Đà Nẵng trở thành một trong những trung tâm thương mại dịch vụ, du lịch chất lượng cao của khu vực và cả nước.

Tiếp tục đầu tư xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật thương mại theo hướng văn minh, hiện đại; đôn đốc thi công, hoàn chỉnh các dự án hạ tầng thương mại chậm tiến độ; xúc tiến đầu tư Trung tâm thương mại chợ Cồn, chợ Hàn và các tuyến phố chuyên doanh, phục vụ tốt nhu cầu tiêu dùng, mua sắm của nhân dân và du khách. Mở rộng, phát triển đa dạng các hệ thống phân phối, mạng lưới bán lẻ hướng đến phục vụ trực tiếp người tiêu dùng tại các khu dân cư, địa bàn điểm (ký túc xá sinh viên, khu lưu trú công nhân…) và vùng nông thôn (52). Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tăng 17 - 18%/năm. Thực hiện có hiệu quả Chương trình chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu, xúc tiến mở rộng xuất khẩu sang các thị trường mới, thị trường tiềm năng, gia tăng thị phần tại thị trường truyền thống, giữ vững đà tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu. Phát huy vai trò Trung tâm thương mại điện tử; xây dựng và triển khai đề án thành lập Trung tâm giao dịch hàng hóa (nông sản, thủy sản, vật liệu xây dựng...) ở khu vực.  

Tạo điều kiện thu hút đầu tư phát triển du lịch bền vững, tương xứng với ngành mũi nhọn. Quy hoạch tổng thể và thúc đẩy triển khai các dự án khu du lịch (bán đảo Sơn Trà, Ngũ Hành Sơn, Bà Nà, Làng Vân); hoàn thiện hệ thống cơ sở hạ tầng du lịch, ưu tiên thu hút đầu tư các dự án trọng điểm (53), hình thành trung tâm du lịch ven biển tầm cỡ quốc gia, quốc tế. Tăng cường xúc tiến, quảng bá du lịch, mở thêm các đường bay quốc tế trực tiếp đến Đà Nẵng; đẩy mạnh liên kết, hợp tác trong hoạt động du lịch, tạo không gian du lịch cho toàn vùng. Tập trung phát triển các sản phẩm du lịch nghỉ dưỡng cao cấp trở thành sản phẩm du lịch chủ lực của Đà Nẵng; kết nối văn hóa với du lịch để tạo ra những sản phẩm du lịch đặc trưng của thành phố; nâng cấp và xây dựng mới các sản phẩm du lịch sinh thái, văn hóa, lịch sử, lễ hội, công vụ và thành phố sự kiện (54); khai thác, làm phong phú sản phẩm du lịch, như: khu mua sắm, trung tâm giải trí tổng hợp, phát triển các làng nghề, lễ hội dân gian vùng biển, nghệ thuật điêu khắc đá... Tổng lượt khách du lịch tăng 13 - 14%/năm, phấn đấu đến năm 2020 đón trên 8 triệu lượt khách.

Nâng cao chất lượng các ngành dịch vụ quan trọng, như: tài chính, ngân hàng, công nghệ thông tin - truyền thông, giáo dục - đào tạo, y tế chuyên sâu, chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu hội nhập và phát triển. Tập trung phát triển các loại hình vận tải, dịch vụ cảng - logistics, phấn đấu đưa Đà Nẵng trở thành trung tâm dịch vụ logistics của khu vực và cả nước. Có giải pháp phù hợp phát triển các ngành dịch vụ tư vấn pháp lý, quy hoạch, kiến trúc, xây dựng, khoa học - công nghệ, thể dục - thể thao và thị trường chứng khoán, bất động sản, lao động.

- Tập trung phát triển các ngành công nghiệp theo hướng hiện đại, nhất là các ngành công nghiệp công nghệ cao, công nghệ thông tin. Hoàn thành cơ bản kết cấu hạ tầng và có cơ chế, chính sách đặc biệt thu hút đầu tư vào Khu Công nghệ cao, Khu Công nghệ thông tin tập trung, Công viên phần mềm số 2, Khu đô thị công nghệ FPT. Có chính sách khuyến khích phát triển mạnh công nghiệp phụ trợ, các sản phẩm chủ lực, có lợi thế cạnh tranh và tạo ra giá trị gia tăng cao; hỗ trợ xây dựng thương hiệu cho doanh nghiệp; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ tiên tiến, hiện đại trong sản xuất kinh doanh. Tiếp tục rà soát, thúc đẩy tiến độ triển khai các dự án trong và ngoài các khu công nghiệp. Quy hoạch, kêu gọi đầu tư xây dựng 1 - 2 cụm công nghiệp để bố trí cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Khuyến khích phát triển các ngành nghề truyền thống sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ.

- Tăng cường nguồn lực đầu tư để phát triển Đà Nẵng trở thành một trung tâm kinh tế biển; tập trung rà soát, điều chỉnh, bổ sung quy hoạch phát triển các ngành, lĩnh vực kinh tế biển; khai thác bền vững, có hiệu quả tài nguyên biển đảo, gắn với bảo vệ môi trường biển. Tập trung đầu tư nâng cấp cả về quy mô, chất lượng hệ thống cảng biển, phát triển Cảng Đà Nẵng trở thành cảng tổng hợp quốc gia, đầu mối khu vực (loại I); nâng cấp Cảng Tiên Sa giai đoạn 2; phấn đấu sản lượng hàng hóa qua khu vực Cảng Đà Nẵng tăng 8-10%/năm, sản lượng năm 2020 đạt 10 triệu tấn. Tiếp tục thực hiện chính sách hỗ trợ ngư dân đóng tàu công suất lớn, tăng cường bám biển, nâng cao năng lực khai thác hải sản xa bờ gắn với bảo vệ chủ quyền biển, đảo; phát triển ngành công nghiệp chế biến thủy sản, dịch vụ hậu cần nghề cá, bao tiêu sản phẩm.

- Đẩy nhanh cơ cấu lại ngành nông nghiệp, phát triển toàn diện cả về nông, lâm nghiệp và thủy sản theo hướng hiện đại. Tăng cường ứng dụng khoa học và công nghệ trong sản xuất và chế biến, tạo ra các vùng chuyên canh ứng dụng công nghệ cao, phục vụ cho du lịch và đô thị trung tâm. Quan tâm công tác bảo vệ, phát triển rừng. Tiếp tục đầu tư hỗ trợ nâng cao chất lượng các tiêu chí xây dựng nông thôn mới, nhất là tiêu chí về hình thức tổ chức sản xuất, thu nhập, giảm nghèo bền vững, môi trường…

- Tiếp tục đổi mới, quản lý lành mạnh hệ thống tài chính, rà soát lại khả năng thu để có biện pháp thu đúng, thu đủ, thu kịp thời vào ngân sách, đi đôi với nuôi dưỡng, tạo nguồn thu ổn định, bền vững, chống thất thu và thu hồi nợ đọng, phấn đấu tổng thu ngân sách Nhà nước tăng bình quân 5-8%/năm, đến năm 2020 thu nội địa đạt 15.000 tỷ đồng/năm. Bố trí chi ngân sách phù hợp với khả năng cân đối và yêu cầu phát triển, ưu tiên nguồn lực cho đầu tư phát triển và các nhiệm vụ trọng yếu, tăng đầu tư sự nghiệp văn hóa, giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, y tế. Tăng cường thanh tra, kiểm tra, ngăn ngừa thất thoát, lãng phí trong chi tiêu ngân sách. Bố trí tăng dự trữ ngân sách để xử lý những trường hợp thiên tai, dịch bệnh và các nhiệm vụ chi cấp bách phát sinh.



Каталог: upload -> soft
soft -> Test 10 Phonetics: Chọn từ mà phần gạch chân có cách phát âm khác với những từ còn lại
soft -> PHÒng giáo dục và ĐÀo tạO Độc lập Tự do Hạnh phúc
soft -> TRƯỜng trung hoc phổ thông chuyên lê quý ĐÔN
soft -> NHẰm giúp các học sinh hiểu rõ HƠn một số khái niệm cơ BẢn và CÁc cụm từ viết tắt trong đỊa lý
soft -> Ôn tập chủ ĐỀ ĐẠi số TỔ HỢp nhận xét
soft -> Một thuật toán nổi tiếng Euclide Thuật toán Euclide
soft -> Bài toán "đèn nhấp nháy"
soft -> TRƯỜng thpt tôn thất tùNG
soft -> Ubnd quận hải châu cộng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
soft -> MÔn lịch sử 10 Bài 29: CÁch mạng tư SẢn hà lan và CÁch mạng tư SẢn anh cách mạnh tư sản Anh

tải về 304.64 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương