4
Tạp chí
Kinh tế - Kỹ thuật
hiệp bằng việc thương lượng cách mà luật thuế
cụ thể nào đó hoạt động trong những hoàn cảnh
nhất định và chấp hành pháp luật thuế mà các
mục tiêu được tuyên bố của luật có thể không
thực hiện được (3) chuyển đổi các quyết định luật
theo cách cụ thể, tạo điều kiện tích cực cho việc
trốn thuế (4) phá vỡ hoặc không chấp hành pháp
luật luật với hy vọng không bị phát hiện bằng
cách thiết lập hệ thống kế toán để che dấu bất kỳ
sự kiểm tra nào (Kirchker, E., Macielovsky, B.,
Schneider, F. (2001)). Theo Mc Barnet, các DN
lớn có xu hướng là có học” trong việc lựa chọn
sự chấp hành pháp luật thuế, họ có xu hướng
chọn cách trốn thuế theo phương án thứ hai và
thứ ba, còn DN nhỏ lựa chọn phương án trốn
thuế theo cách thứ tư.
Do vậy, chấp hành pháp luật thuế nghĩa là
chấp hành mục đích của luật trong khi đảm bảo
tăng cường tính chắc chắn mà mục đích đó có
thể được thực hiện trên thực tế. Tuy nhiên, khái
niệm chấp hành pháp luật thuế vẫn được các nhà
nghiên cứu tiếp tục tranh luận theo hướng nghiên
cứu tính tự nguyện hay không tự nguyện chấp
hành nghĩa vụ thuế. Quan điểm truyền thống của
quản lý thuế chủ yếu dựa trên giả thiết rằng hầu
hết DN về bản chất là không tự nguyện chấp
hành pháp luật thuế, và chỉ chấp hành nghĩa vụ
khi có sự cưỡng chế của các cơ quan thuế hay
khi bị tác động bởi lợi ích kinh tế. Cách tiếp cận
cưỡng chế chấp hành pháp luật thuế và cách tiếp
cận kinh tế tập trung làm giảm mức độ trốn thuế
chứ không hướng vào việc tăng cường sự chấp
hành pháp luật thuế. Nghiên cứu khái niệm chấp
hành pháp luật thuế thông qua việc tập
trung
vào sự không chấp hành pháp luật thuế và tính
cưỡng chế chấp hành pháp luật thuế là quá đơn
giản hoá.
Quan điểm nghiên cứu hiện nay chuyển
sang xem xét tính tự nguyện của việc chấp hành
nghĩa vụ thuế. Bergman (1998) gợi ý rằng sự
chấp hành pháp luật thuế được đo bằng số thu
mà cơ quan thuế giả định dựa theo luật thuế do
DN thanh toán cho NSNN. Tuy nhiên, phạm vi
mà DN phản đối các luật thuế lại phụ thuộc vào
nhiều yếu tố trong đó có sự vui lòng chấp hành
pháp luật thuế. Vì vậy, các tác giả như Andrreoni
J., Erard B. bắt đầu xem xét đến tính tự nguyện
của sự chấp hành pháp luật thuế (Andrreoni J.,
Erard B.(1998)). Tính tự nguyện sau đó đã được
một số cơ quan thuế như cơ quan thu nội địa
Hoa Kỳ (IRS) xem xét đến trong các định nghĩa
về khoảng cách thuế. Theo đó, chấp hành pháp
luật thuế được định nghĩa là hành vi chấp hành
nghĩa vụ thuế một cách đầy đủ và tự nguyện.
Nếu DN chấp hành pháp luật thuế chỉ bởi vì sự
đe doạ và trừng phạt thì đó dường như không
phải là sự chấp hành pháp luật thuế đúng nghĩa
ngay cả khi 100% dự toán thuế được hoàn thành.
Quản lý thu thuế thành công là hầu hết đối tượng
chấp hành pháp luật thuế một cách tự nguyện
mà ít cần đến sự chất vấn, điều tra, nhắc nhở
hoặc đe doạ và các hành vi xử phạt hành chính
khác. Khía cạnh “tự nguyện” trong định nghĩa
trên đây rất quan trọng, giúp các cơ quan thuế
phân biệt giữa khái niệm chấp hành pháp luật
thuế mà ít cần hoạt động cưỡng chế trực tiếp và
khái niệm chấp hành pháp luật thuế là kết quả
của sự cưỡng chế.
Theo đó, cần phát triển khái niệm này và
đưa yếu tố thời gian vào như là một tiêu chí thể
hiện sự chấp hành pháp luật thuế tự nguyện. Một
DN cuối cùng cũng thanh toán đầy đủ nghĩa vụ
thuế nhưng nếu nghĩa vụ thuế đó được
thanh
toán muộn thì cũng không phải sự chấp hành
pháp luật thuế hoàn toàn. Hơn nữa, nếu lãi suất
nộp muộn bị tính thì khoản thu đó cũng không
phải là sự chấp hành pháp luật thuế hoàn toàn tự
nguyện. Từ đó có thể định nghĩa sự chấp hành
pháp luật thuế của DN là hành vi chấp hành
nghĩa vụ thuế theo đúng mục đích của luật thuế
một cách đầy đủ, tự nguyện và đúng thời gian.
Như vậy khái niệm chấp hành pháp luật thuế