2
Tạp chí
Kinh tế - Kỹ thuật
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Những nghiên cứu hiện nay tập trung vào
hướng mới là phù hợp và sự thích nghi của quản
lý thu thuế đối với sự thay đổi của đối tượng nộp
thuế (ĐTNT). Các nghiên cứu theo hướng này tập
trung làm rõ tại sao? và làm thế nào ? để ĐTNT
chấp hành pháp luật thuế, với hai cách tiếp cận
khác nhau. Hướng thứ nhất, một số nghiên cứu
tập trung làm rõ tại sao đối tượng lại trốn thuế và
xác định những yếu tố ảnh hưởng đến việc chấp
hành pháp luật thuế (Alm, J., & McClelland, G.
H., Schulze (1992)). Hướng nghiên cứu thứ hai,
một số tác giả cho rằng theo chuẩn mực truyền
thống thì đối tượng nên chấp hành hơn là không
chấp hành pháp luật thuế và vì vậy một hệ thống
thuế có hiệu lực phải đạt được sự vui lòng hợp
tác của đa số những người nộp thuế. Cơ quan
thuế sẽ có lợi hơn khi giúp đỡ đối tượng chấp
hành pháp luật, đáp ứng những nhu cầu của họ,
tạo điều kiện cho họ chấp hành pháp luật nghĩa
vụ thuế hơn là tiêu tốn quá nhiều nguồn lực vào
thiểu số những đối tượng trốn thuế. Do đó, hệ
thống tự khai tự nộp (TKTN) là sự ngụ ý cho
việc đảm bảo và tăng cường sự chấp hành pháp
luật thuế. Cục Thuế TP.HCM hơn mười năm
thực hiện công cuộc cải cách hành chính thuế
theo lộ trình được đề ra một cách cụ thể, khoa
học và hiện nay vẫn tiếp tục thực hiện. Thực tế
cho thấy ngành thuế đã có những bước tiến dài
và phù hợp với xu hướng phát triển của nền kinh
tế hiện đại trên thế giới, đáp ứng được theo sự
phát triển và hội nhập của nền kinh tế đất nước
trong từng giai đoạn.
Hiện nay, quản lý thu thuế đối với
doanh
nghiệp (DN) ở các nước đang phát triển, đang
đối mặt với nhiều thách thức khác nhau tạo ra
sức ép ngày càng tăng đối với nhiệm vụ thu thuế
của nhà nước. Một trong những thách thức lớn,
đó là sự đa dạng hành vi chấp hành pháp luật
thuế của đối tượng nộp thuế. Phức tạp hơn, khi
hành vi chấp hành pháp luật thuế của đối tượng
nộp thuế lại chịu ảnh hưởng của nhiều biến số
khác nhau. Những yếu tố này tạo ra bài toán lớn
đối với cơ quan thuế trong việc đảm bảo sự chấp
hành pháp luật thuế của của đối tượng nộp thuế.
Do vậy, tuyên truyền, hỗ trợ đối tượng nộp thuế
là khâu đột phá của toàn bộ lộ trình cải cách
và hiện đại hóa ngành thuế hiện nay. Công tác
này có tầm quan trọng đặc biệt, không những
nhằm nâng cao ý thức trách nhiệm và tính tự
giác chấp hành pháp luật thuế của ĐTNT, góp
phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ của ngành,
mà còn tạo mối quan hệ gắn kết giữa cơ quan
thuế và ĐTNT. Từ đó, việc tăng cường công
tác tuyên truyền chính sách pháp luật thuế cũng
như làm tốt công tác hỗ trợ ĐTNT đã góp phần
nâng cao ý thức chấp hành pháp luật thuế của
ĐTNT; từng bước giảm dần các sai sót và vi
phạm trong quá trình thực hiện chính sách thuế
của đối tượng nộp thuế; quan hệ giữa cơ quan
thuế, công chức thuế và ĐTNT ngày càng thân
thiện và là người bạn đồng hành trong việc thực
thi các chính sách, pháp luật thuế.
Tuy nhiên, sự đổi mới nói trên không thể
đảm bảo rằng cơ quan quản lý thuế có thể đạt
được sự chấp hành pháp luật tự nguyện, đầy đủ
của hầu hết các ĐTNT, đảm bảo nguồn thu tiềm
năng cho ngân sách nhà nước (NSNN). Trong
bối cảnh hành vi và đặc điểm của ĐTNT ngày
càng phức tạp như ở TP. HCM, quản lý thu thuế
cần phải đạt được mục tiêu chấp hành pháp luật
cao nhất đặc biệt là sự chấp hành pháp luật tự
nguyện của ĐTNT. Mục tiêu này chỉ có thể đạt
được khi quản lý thu thuế ở các thành phố lớn
như TP. HCM có sự đổi mới hoàn toàn về quan
điểm, chiến lược, chính sách quản lý thu thuế
đối với ĐTNT.