UED JOURNAL OF SOCIAL SCIENCES, HUMANITIES AND EDUCATION VOL.2, NO.2 (2012)
48
để nên khi bón vào đất gây ảnh hưởng xấu đến kết cấu và dinh dưỡng của đất.
3.4. Ảnh hưởng của tỉ lệ C:N đến chất lượng phân ủ thông qua một số chỉ tiêu lý hóa
Bảng 4. Kết quả phân tích mẫu phân của thí nghiệm
Công thức
Kết quả phân tích
pH
KCl
Mùn
(%)
Đạm
TS (%)
3.4.1.a.1.1
Lân
TS (%)
Kali
TS (%)
I
7,59
10,52
1,65
0,47
0,98
II
7,28
16,70
1,80
0,48
1,25
III
7,63
12,54
1,13
0,35
1,47
IV
8,05
8,37
0,87
0,39
1,53
Ghi chú: * Phân tích tại khoa Tài nguyên đất và MTNN - Đại học Nông Lâm Huế
Để đánh giá chất lượng phân ủ, chúng tôi dựa vào tiêu chuẩn của thang đánh giá
để định mức các chỉ tiêu mùn, đạm, lân và kali [1]. Kết quả phân tích các mẫu phân hữu
cơ sinh học ở bảng 4 cho thấy ở tỉ lệ C:N là 30:1 có các giá trị lý hóa thích hợp hơn cả.
Cụ thể, mẫu phân có pH
KCl
(độ chua trao đổi) ở mức kiềm yếu 7,28. Theo FFTC (2005)
giá trị pH của phân hữu cơ sinh học khi quá trình ủ hoàn thành ở khoảng 6,5 - 7,5. Như
vậy, trong thí nghiệm phân hữu cơ sinh học có giá trị pH
KCl
7,28 là thích hợp để sử
dụng. Hàm lượng mùn (16,7%) ở mức rất giàu. Hàm lượng đạm (1,8%) và kali (1,25%)
tổng số ở mức nghèo, lân tổng số (0,48%) ở mức khá. Qua kết quả phân tích, chúng tôi
nhận thấy phân hữu cơ sinh học ủ từ giá thể lục bình, rơm rạ và phân trâu bò với tỉ lệ
C:N là 30:1 có thể sử dụng cho đất nông nghiệp, làm gia tăng hàm lượng mùn trong đất,
cung cấp thêm đáng kể hàm lượng lân tổng số, cung cấp đạm và kali tổng số ở mức vừa
phải, pH an toàn cho đất. Tuy vậy, chúng tôi đề nghị để cây trồng đạt năng suất tốt,
song song với sử dụng phân hữu cơ sinh học, tùy theo nhu cầu dinh dưỡng của các loại
cây trồng có thể bón thêm một lượng phân vô cơ đạm, lân, kali cho phù hợp.
Chia sẻ với bạn bè của bạn: