Ngưỡng Nhân Lưu Ấu Nhi MẸ maria sứ giả CỦa tình yêu thiên chúA


"ĐỨC MẸ SẦU BI và SỰ ĂN NĂN SÁM HỐI"



tải về 0.94 Mb.
trang3/7
Chuyển đổi dữ liệu04.01.2018
Kích0.94 Mb.
#35322
1   2   3   4   5   6   7

"ĐỨC MẸ SẦU BI và SỰ ĂN NĂN SÁM HỐI"
------------------------------

Câu chuyện 11
MẸ MARIA HIỆN RA TẠI LỘ ĐỨC (Lourdes), PHÁP NĂM 1858
Chỉ 12 năm sau ngày Mẹ Maria hiện ra tại La Salette với những lời báo động nghiêm khắc và nhiều biến cố kinh hoàng đã xảy ra trong thời gian ngắn trong năm 1846, và những việc khác còn chưa xảy ra, thì ngày 11 tháng 12 năm 1858, Mẹ Maria lại hiện ra tại Lourdes (Lộ đức). Lourdes là một thôn dã hẻo lánh ít người biết, thuộc miền Bigorre, trên triền núi Pyrénés, dãy núi phân ranh Pháp và Tây ban nha.
Miền núi Pyrénés về phía Pháp có nhiều mưa, phong cảnh đẹp và nhiều suối khoáng chất, những suối này trở nên trung tâm thương mại và y khoa trị liệu, đem lại nhiều lợi tức cho giới doanh thương. Tuy vậy tình trạng nghèo nàn, cả đến quẫn bách cùng cực, vẫn hiện diện tại nhiều nơi.
Ngày 11 tháng 12 năm 1858, một ngày mùa đông lạnh cóng, ba cô gái xanh xao gầy guộc, áo quần tả tơi, đi kiếm củi. Ba cô là Bernadette Soubirous, cô thứ hai là Toinette, em của Bernadette, cô thứ ba là Jeanne Abadie. Bernadette Maria Soubirous sinh ngày 7 tháng 1 năm 1844, là con đầu lòng trong 8 người con của ông bà Francois và Louise Soubirous. Ông Francois làm việc tại xưởng cưa Boly và gia đình ngụ tại đây. Khi Bernadette tám tuổi, mắt trái của ông Francois bị hư, và hai năm sau ông bị mất việc, gia đình phải rời khỏi trại cưa. Gia đình ông Francois được một người bà con làm nghề đục đá cho tá túc ở tầng trệt của xưởng đục đá, nơi này ẩm thấp ướt át, và gia đình sống trong cảnh nghèo nàn cùng cực. Bernadette 14 tuổi vẫn chưa biết chữ.
Ba cô tới chỏm Massabielle, nơi có chỗ lõm vào như hang động, trước cửa hang Massabielle lúc đó có vài bụi cây và một cụm hồng dại khô gần chết. Bernadette Soubirous, lớn tuổi nhất trong ba cô, tới đó kiếm củi. Khi hai cô kia tới cửa hang Massabielle để tìm cô, hai cô thấy Bernadette đang quì trước cửa hang, mắt nhìn lên. Hai cô chạy tới bên Bernadette và thấy cô bất động, mắt mở lớn ngó trân trân. Hai cô lay Bernadette nhưng không thể nào làm cô nhúc nhích, cả đến lay chuyển cánh tay cô cũng không được. Hai cô la lên vì sợ. Khi tỉnh lại, Bernadette nói cho hai cô kia biết sự việc xảy ra.
Thoạt tiên Bernadette thấy một bóng sáng mà cô đã thấy hai lần trước kia. Lần này một Vị Phụ Nữ đẹp mặc y phục trắng hiện ra trong bóng sáng. Vị Phụ Nữ gật đầu chào Bernadette, đồng thời đưa hai cánh tay ra, trên cánh tay phải có chuỗi Mân Côi. Vị phụ Nữ mỉm cười dịu dàng, và như thể ra dấu gọi Bernadette tới gần hơn, nhưng cô bé sợ, không đáp lời và muốn bỏ chạy. Sau đó Bernadette bình tĩnh lại và lấy xâu chuỗi ra cầu nguyện kinh Mân Côi. Trong khi Bernadette cầu nguyện kinh Mân Côi, Vị Phụ Nữ cũng lần từng hạt theo, môi không mấp máy, nhưng cúi đầu khi Bernadette đọc kinh Sáng Danh.
Trong khi lần chuỗi, Bernadette nhìn rõ Đấng Hiện Ra hơn. Vị Phụ Nữ mặc áo dài trắng xuống tới chân, chỉ để lộ những ngón chân.
Áo dài có cổ cao và cột bằng một dây băng mầu trắng. Tấm khăn choàng mầu trắng phủ trên đầu qua vai, qua hai cánh tay, xuống gần tới gấu áo dài. Trên mỗi bàn chân của Vị Phụ Nữ có một bông hồng mầu vàng. Khăn thắt lưng mầu xanh dương, thả xuống tới đầu gối. Xâu chuỗi, dây vàng, hạt trắng lớn và kết cách khoảng rộng hơn chuỗi thường. Vị Phụ Nữ rất trẻ và đứng trong vầng hào quang.

Khi Bernadette cầu nguyện xong năm chục kinh Mân Côi, Vị Phụ Nữ mỉm cười chào cô, rồi biến đi.


Trên đường về, Bernadette gặp một cô em khác và kể lại cho cô này nghe việc cô đã thấy Vị Phụ Nữ đẹp tuyệt vời đứng trong bầu ánh sáng. Cô em này nói cho bà mẹ biết. Cô Jeanne Abadie chạy khắp xóm kháo rằng Bernadette được thị kiến và phát khùng. Cha mẹ của Bernadette bực mình vì những chuyện đó và cấm Bernadette không được tới hang Massabielle nữa. Khi xưng tội chiều hôm sau, Bernadette nói chuyện này với cha giải tội và xin ngài tường trình với cha sở là cha Peyramale, nhưng ngài bỏ qua.
Chúa Nhật 14 tháng 2, 1858, Bernadette xin được cha của cô cho phép tới Massabielle với hai cô cùng đi hôm trước và một số người khác. Có tất cả hai mươi người, trong đó có bảy người lớn, đi theo. Lần này Bernadette đem theo nước thánh. Bernadette quì cầu nguyện tại nơi cô đã quì lần trước, có hai người quì hai bên. Khi Bernadette và mọi người cầu nguyện xong chục kinh Mân Côi thứ nhất, Vị Phụ Nữ tuyệt đẹp hiện ra. Bernadette rảy nước thánh lên Vị Phụ Nữ, và nói:
"Nếu Người từ Thiên Chúa mà đến, thì xin ở lại!"
Vị Phụ Nữ mỉm cười. Lúc này Jeanne Abadie leo lên phía trên hang đá, vô tình làm lăn một cục đá lớn xuống ngay sát bên Bernadette. Nhưng Bernadette không hay biết gì vì cô đã bất động trong tình trạng xuất thần. Hai cô kia không làm cách nào cho Bernadette tỉnh lại khiến người khác sợ. Một số người chạy tới xưởng cưa nhờ người đưa Bernadette tới đó. Họ khiêng Bernadette tới xưởng cưa, trong khi đi đường cô vẫn đăm đăm nhìn và mỉm cười với thứ gì mà không ai khác ngoài cô có thể thấy, và cô bé dần dần tỉnh lại.
Tại nhà máy cưa, người ta hỏi Bernadette thấy gì tại hang đá Massabielle. Cô bé đáp:
"Tôi thấy một Vị Phụ Nữ đẹp tuyệt vời, Người có chuỗi Mân Côi ở cánh tay phải, và hai bàn tay chắp trước ngực."
Jeanne Abadie lại loan truyền khắp xóm về thị kiến này khiến bà mẹ của Bernadette hết sức tức giận và lo âu về tình trạng điên khùng của cô và cấm cô trở lại Massabielle. Nhờ một bà nhà giầu can thiệp, ngày hôm sau (16-2-1858) cô được trở lại Massbielle.
Sớm ngày thứ Ba (16-2-1858), Bernadette trở lại hang Massabielle, có nhiều người đi theo, những người này cầm trong tay chuỗi Mân Côi để xua trừ ma quỉ. Trong số này có bà Millet, bà này đem theo cây nến phép, giấy, bút và lọ mực để Bernadette xin Vị Phụ Nữ viết cho biết tên của Người. Bernadette quì xuống và lại xuất thần. Một lúc sau cô tỉnh lại và người ta hỏi cô: "tên của Vị Phụ Nữ đó là gì?" như bà Miller đã nhặn cô hỏi. Bernadette đáp: "Cháu đã hỏi, nhưng Người nói điều đó không cần thiết" và
Người hỏi cháu:
"Con có vui lòng đến đây mười lăm (15) ngày không? Mẹ không hứa làm cho con hạnh phúc ở trần gian này, nhưng ở đời sau."
Bernadette đã trung thành thực hiện lời hứa với Vị Phụ Nữ:
"Được cha mẹ con cho phép, con sẽ tới."
Ngày càng đông người đi theo Bernadette mỗi lần cô tới hang đá Massabielle.
Vị Phụ Nữ hiện ra lần thứ bốn vào ngày thứ Sáu, 19 tháng 2, 1858. Bà Millet đi theo và quì bên Bernadette kể rằng khi Vị Phụ Nữ hiện ra thì nụ cười của cô trở nên tươi tắn và sắc diện thay đổi. Cô chào Đấng Hiện Ra bằng tay và cúi đầu. Cuộc thị kiến lâu chừng ba mươi phút, và khi thị kiến chấm dứt, Bernadette mệt nhoài ngã vào vòng tay của bà mẹ. Trên đường trở lại phố Petits-Fossés, Bernadette cho biết đôi chút tại sao đôi lúc buổi thị kiến có vẻ khác thường: "Bất chợt những tiếng la lớn phát ra từ GAVE, xé tan bầu không khí yên tĩnh của Massabielle. Chúng 'ẩu đả, chửi rủa nhau, tựa như tiếng la thét của đám đông đang cãi lộn nhau'. Một tiếng nói, lớn lấn át những tiếng nói khác, gầm lên: 'Ra khỏi đây! ... Ra khỏi đây đi!'." Bernadette nghĩ rằng lời nguyền rủa đó không ám chỉ vào cô, mà là xúc phạm trực tiếp Đấng Trong Ánh Sáng đang đứng trên cây tầm xuân. Đấng Hiện Ra liếc nhìn về phía ồn ào đó, và lập tức chúng nín tiếng. Về sau Bernadette cho biết Satan lồng lộn tức giận vì chúng nhìn nhận chúng bị đánh bại, vì tại Massabielle nhiều người tội lỗi ăn năn cải hối.
Ngày 20 tháng 3 năm 1858 là lần thị kiến thứ năm. Sau khi Bernadette bắt đầu cầu nguyện kinh Mân Côi, Vị Phụ Nữ hiện ra. Trong lần này, Người kiên nhẫn dạy Bernadette từng tiếng từng tiếng của lời cầu nguyện mà cô dùng trong mỗi thị kiến và hằng ngày suốt đời cô, nhưng không người nào khác biết nội dung.
Đấng Hiện Ra đến với Bernadette tại Massabielle lần thứ sáu vào Chúa Nhật I Mùa Chay, ngày 21 tháng 2, 1858. Hôm nay rất đông người đến Massabielle, có quân đội, cảnh sát, cả thị trưởng của Terbes cũng hiện diện để quan sát, nhưng không có hành động gì. Bác sĩ Dozous cũng hiện diện.
Ngay khi tới hang đá, Bernadette quì xuống, lấy xâu chuỗi ra cầu nguyện kinh Mân Côi. Không lâu sau đó, sắc diện cô thay đổi, cho biết cô đang diện kiến Đấng Hiện Ra. Bác sĩ Dozous ở sát bên Bernadette để theo dõi diễn tiến và trắc nghiệm nhịp tim vàhơi thở của cô, và thấy nhịp tim của cô đều hòa, hơi thở nhẹ nhàng. Khi bác sĩ Dozous buông cánh tay Bernadette ra, cô tiến lên một chút về phía nóc hang đá. Một chút sau đó, sắc diện của Bernadette thay đổi lúc thì hết sức hân hoan sung sướng, lúc thì buồn: hai hàng nước mắt chảy dài xuống hai bên má. Đấng Hiện Ra biến đi sau khi Bernadette lần xong chuỗi Mân Côi, và cô dần dần tỉnh lại. Bác sĩ Dozous hỏi tại nước mắt của cô tuôn rơi sau những nụ cười sung sướng.
Bernadette nói: "Vị Phụ Nữ không nhìn con mà nhìn ra xa, qua đầu con, một lúc. Rồi, Người lại nhìn con, khi con hỏi Người điều gì làm Người đau buồn, Người nói với con: 'Con hãy cầu xin Thiên Chúa cho những người tội lỗi.' Con lại được thấy nét mặt nhân từ của Người, và Người biến đi."
Bernadette được thị kiến lần thứ bảy vào thứ Ba, 23 tháng 12, 1858. Lần này có rất đông người tới Massabielle. Những người đàn ông đã mở nón, quì gối, khi họ thấy nét mặt Bernadette thay đổi tức là Vị Phụ Nữ đã tới. Trong thị kiến này, Bernadette được Đấng Hiện Ra ký thác ba bí mật và dạy một lời cầu nguyện, mà Bernadette giữ kín không hề tiết lộ. Tuy nhiên Bernadette nói cô được Đấng Hiện Ra cho biết cô sẽ sớm lìa bỏ trần thế. Chắc là điều này không nằm trong ba bí mật nói trên.

Lần thị kiến thứ tám vào ngày 24 tháng 2 năm 1858. Khi Bernadette ngây ngất vừa đứng lên vừa khóc, nước mắt đầm đìa, nắm chặt chuỗi Mân Côi trong hai bàn tay, và hình như muốn nói với đám đông. Thực vậy, những người ở kề bên Bernadette nghe được tiếng cô nói trong ngất trí:


"Hãy ăn năn thống hối! ... Hãy ăn năn thống hối! .... Hãy ăn năn thống hối!"
Ngày hôm nay có tới 400 hoặc 500 người đến Massabielle với Bernadette và họ xúc động vì những gì họ nhìn và cảm thấy.
Lần thị kiến thứ chín xảy ra ngày 25 hoặc 26 tháng 2, 1858. Hôm nay Bernadette đến hang Massabielle rất sớm, trước rạng đông, vàĐấng Hiện Ra đến chỉ ngay sau khi Bernadette chưa hết một mầu nhiệm Mân Côi. Đấng Hiện Ra bảo cô:
"Con hãy đi uống nước suối và rửa mặt con trong đó."
Bernadette đang quì bỗng chỗi dậy, nhưng vẫn trong tình trạng xuất thần. Trước tiên cô quay lưng lại hang đá, nhìn về hướng GAVE DE PAU. Cô quay lại nhìn Đấng Hiện Ra, nhưng không ai khác nhìn thấy, như để xin chỉ dẫn. Cô lại bắt đầu bước đi, nhưng lần này đi vào trong hang đá một chút. Cô quì xuống một chỗ đất khô và bới đất bằng hai bàn tay. Lập tức một ít nước pha bùn phun lên trong chỗ đất trũng cô vừa mới bới. Bernadette vốc một chút nước đó thoa lên mặt, rồi bứt và ăn một vài cọng cỏ dọc theo rãnh nước bùn đó. Cô đứng lên bước đi ra ngoài hang, mặt còn dính bùn, miệng còn nhai cỏ. Một số người cho rằng cô điên và hô hào giữ cô.
Bernadette được đưa tới một ngôi nhà ở phố Petites-Fosses trong thị trấn. Trước khi tới ngôi nhà này, Bernadette nói:
"Vị Phụ Nữ bảo con đào bới chỗ đất khô đó, uống nước và rửa mặt ở dòng suối, ăn những cọng cỏ con thấy mọc ở đó."
Chiều hôm đó, người ta tới hang đá Massabielle và thấy một dòng suối chảy từ hang đá xuống Gave De Pau, dòng suối càng lúc càng rộng. Nhiều bệnh tật được chữa lành nhờ nước từ suối hang đá Massabielle ngay từ ngày đầu xuất hiện. Tại Lourdes có một người tên Louis Bouriette, được giới y khoa xác nhận, mắc bệnh nan y về mắt, ông sắp bị mù. Ông Louis xin người ta lấy cho ông một ít nước ở suối Massabielle. Ông rửa cặp mắt gần đui của ông bằng nước suối đó và mắt lại được sáng, sự kiện này được vị bác sĩ tại địa phương xác nhận. Nhiều phép lạ khác xảy ra tiếp theo. Người ta náo loạn vì tranh nhau lấy nước suối đến độ cảnh sát và quân đội phải giữ trật tự.
Sáng sớm hôm sau, bà Jeanne Crassus, bị bại một tay đã mười năm, ngâm bàn tay bị bại của bà trong suối một lúc, rồi rút bàn tay lên thì bàn tay bà trở lại bình thường.
Bernadette thị kiến Đấng Hiện Ra lần thứ mười, ngày 27 tháng 2, 1858, lúc quá 6g30 sáng. Ngay khi Bernadette tới và quì xuống, mọi người đều im lặng. Lúc sau người ta thấy Bernadette trong tình trạng xuất thần, nhiều lần sụp xuống hôn đất. Về sau chị cho biết Đấng Hiện Ra bảo chị:
"hôn đất để đền bù cho những kẻ tội lỗi."
Và Đấng Hiện Ra trao cho chị sứ mệnh khác nữa:
"Con hãy đi xin các linh mục xây dựng một thánh đường tại đây."
Bernadette thi hành sứ mệnh, báo cho cha Peyramale lời yêu cầu của Đấng Hiện Ra: "Con hãy đi xin các linh mục xây dựng một thánh đường tại đây." Sau khi cha Peyramale chất vấn Bernadette xong, chị đứng lên, cúi chào cáo biệt cha.
Bernadette tới hang đá Massabielle đón Đấng Hiện Ra, lần thứ mười một, khoảng trước 7 giờ sáng Chúa Nhật, 28-2-1858. Lúc đó đã có độ chừng hai ngàn người hiện diện với cả một đại đội lính giữ trật tự, đám đông đã tới đây từ 3 hoặc 4 giờ sáng, bất chấp mưa lớn và lạnh cóng. Bernadette xuất thần sau khi đọc hết ba mầu nhiệm Kinh Mân Côi. Bất chợt, cô cố gắng đi bằng đầu gối, đứng lên, lại quì xuống đi bằng đầu gối, một hình thức làm việc phạt xác đền tạ mà Đấng Hiện Ra bảo cô. Trong lần thị kiến này, Bernadette trình lên Đấng Hiện Ra yêu cầu của cha Peyramale: "Xin Đấng Hiện Ra cho biết phương danh của Người, và xin Người chứng minh sự hiện diện của Người bằng cách làm cho cây tầm xuân nở rộ hoa tức thì."
Trên đường về, Bernadette tới nhà cha sở báo cho ngài biết cô đã thi hành lệnh của cha, nhưng Vị Phụ Nữ chỉ mỉm cười.
Bernadette và gia đình là đối tượng của chất vấn, hăm dọa của chính quyền, nhất là từ sau lần thị kiến từ mười một trở đi. Dân chúng đã tin rằng Đấng Hiện Ra chính là Đức Trinh Nữ Maria.
Bernadette đọc kinh Mân Côi khi quì tại hang đá và nói:
"Đấng Hiện Ra yêu cầu cầu nguyện cho các người tội lỗi."
Vậy thì hỏi rằng Đấng Hiện Ra có thể là ai khác ngoài Đức Mẹ?
Nhiều người nói họ thấy Đức Trinh Nữ tại hang đá và nghe tiếng nói từ đâu đó. Nhiều trẻ nhỏ ngất trí.
Thứ Hai, 1 tháng 3, 1858, Bernadette tới Massabielle, có cha mẹ đi theo. Tại đó đã có khoảng 1300 người và có cả cảnh sát hiện diện.
Và chúng ta nghe lời ông Estrade, hiện diện trong buổi thị kiến thứ mười hai này kể lại: "Bernadette, vừa mới từ mỏm đá trở lại, quì xuống và lấy trong túi ra xâu chuỗi như mọi khi, ngay khi cô lại ngước mắt lên bụi cây, nét mặt cô buồn bã ... Cô hết sức đưa xâu chuỗi lên ... Ngưng một chút cô bỏ xâu chuỗi vào túi. Rồi lấy ra xâu chuỗi khác và đưa lên cao như lần trước. Vẻ đau buồn trên nét mặt cô biến mất. Cô cúi đầu, mỉm cười vàlại bắt đầu đọc kinh Mân Côi."
Về sau Bernadette kể lại rằng:
"Trên đường tới Massabielle, một bà đưa cho con xâu chuỗi của bà (xâu chuỗi đẹp mắc tiền) và yêu cầu con dùng khi lần hạt ở hang đá. Con hứa với bà ấy và đã dùng xâu chuỗi đó.
Nhưng Đức Mẹ hỏi con: 'Xâu chuỗi của con đâu?'
Con đáp: 'ở trong túi của con.'
Đức Mẹ nói: 'Đưa cho Mẹ coi.'
Con đưa tay vào túi lấy xâu chuỗi của con ra và đưa lên cao cho Đức Mẹ coi. Đức Mẹ bảo con:
'Con hãy dùng xâu chuỗi đó'; và con dùng để cầu nguyện ngay."
Sau thị kiến, Bernadette trở lại chuyển tới cha Peyramale thông điệp của Đấng Hiện Ra. Cô nói: "Vị Phụ Nữ bảo con rằng Người muốn dân chúng rước kiệu tới hang đá ..." Cha Peyramale lại hỏi tên của Vị Phụ Nữ là gì. Bernadette đáp rằng cô không biết. Và cha Peyramale nặng lời chỉ trích cô.
Về sau Bernadette nhờ bà Dominiquette Cazenave dẫn trở lại gặp cha sở, và được cha bình tĩnh nghe. Lần này Bernadette nhắc lại lời Đấng Hiện Ra về yêu cầu mới và nhắc lại yêu cầu trước là các linh mục xây một thánh đường tại Massabielle. Cha sở hứa xây một thánh đường lớn tại đó nếu Bernadette xin được phương danh của Đấng Hiện Ra. Ngài nói:
"Con hãy nói với Người sai con đến đây, như con khẳng định, rằng nếu Người muốn cha tin con, Người phải làm cho bụi tầm xuân trổ bông; nếu Đức Trinh Nữ muốn có cuộc rước kiệu, Người phải nói với Đức Giám Mục chứ không nói với cha."
Trong thị kiến Đức Mẹ hiện ra lần thứ mười hai, chúng ta lưu ý tới một chi tiết là Đức Mẹ bảo Bernadette dùng xâu chuỗi giá 2 xu (cents) của cô và khuyến cáo cô giữ xâu chuỗi đó vì là kho tàng quí báu của cô. Đây cũng là bài học về lòng khiêm nhượng, yêu mến đức thanh bần, vì Thiên Chúa ghê tởm sự khoe khoang phô trương ngay cả trong việc đạo đức.

Đức Mẹ hiện ra tại Massabielle lần thứ mười ba vào ngày 2 tháng 3, 1858. Hôm nay khi Bernadette tới Massabielle thì đã có đông người hiện diện. Thị kiến lâu chừng nửa giờ. Sau thị kiến, Bernadette đi cùng với hai bà cô/dì là Basile và Bernarde tới nhà cha sở.


Cha Peyramale lớn tiếng hỏi Bernadette: "Mi vẫn tới Massabielle hả! Mi trở lại đây làm gì?"
Bernadette nói với ngài: "Vị Phụ Nữ nói với con 'Người muốn dân chúng đi rước đến hang đá'."
Cha sở lại hỏi: "Thế phương danh của Vị Phụ Nữ là gì?"
Bernadette nói: "Thưa cha, con không biết. Người không muốn cho biết."
Sau lời đối thoại này, cha Peyramale lớn tiếng nói nặng Bernadette. Nhưng cô và hai bà cô/dì bình tĩnh chào cáo lui.
Sau đó Bernadette gặp bà Dominiquette Cazenave và nài nỉ bà dẫn cô tới cha sở lần nữa. Lần này, cha sở bình tĩnh tiếp Bernadette và cô nhắc lại hai yêu cầu của Đấng Hiện Ra. Cha sở bảo cô: "Con hãy hỏi Vị Phụ Nữ phương danh Người là gì, và khi chúng ta biết phương danh Người, chúng ta sẽ xây dâng Người một nhà nguyện. Không phải nhỏ, mà là nhà nguyện thiệt lớn."
Ngài nói tiếp: "Con hãy nói với Vị Phụ Nữ, Người phái con, như con xác nhận, rằng nếu Người muốn cha tin con, Người phải làm cho bụi tầm xuân trổ hoa; nếu Đức Trinh Nữ muốn có đám rước, Người phải nói với đức giám mục chứ không phải nói với cha."
Đức Mẹ hiện ra lần thứ mười bốn, ngày 3 tháng 3, 1858. Khi Bernadette tới Massabielle lúc 7 giờ sáng, đã có khoảng ba ngàn người chờ sẵn, nhưng Đức Mẹ không hiện ra. Bernadette đi về. Đến 8g30, Bernadette được ông chú/cậu, ông André Sajous, dẫn đi đường tắt tới Massabielle. Khi tới nơi, như thường lệ, cô lấy xâu chuỗi ra và cầu nguyện kinh Mân Côi, Đức Mẹ hiện ra chỉ ít phút sau. Về sau, Bernadette nhắc lại lời Đức Mẹ nói với cô lúc 8g30 về lý do Đức Mẹ không hiện ra lúc 7 giờ:
"Con không thấy Mẹ lúc sáng nay, vì có một số người muốn xem con trông như thế nào khi Mẹ hiện diện tại đây, nhưng những người đó không xứng đáng vì họ đã ngủ đêm tại hang đá và làm ô uế hang đá."
Trong lần thị kiến lúc 8g30 ngày 3-3-1858, Đức Mẹ cũng bảo Bernadette nhắc lại với cha sở các yêu cầu của Người. Lần này cha sở tiếp Bernadette cách khoan từ. Ngài hỏi:
"Con đến nói cho cha biết điều gì đây? ... Vị Phụ Nữ nói gì với con?"
Bernadette nói: "Người mỉm cười khi con nói với Người rằng cha xin Người làm phép lạ. Con xin Người làm cho bụi hồng, ở gần Người, nở hoa; Người mỉm cười. Nhưng Người muốn có nguyện đường."
Cha Peyramale hỏi: "Con có tiền để xây nhà nguyện đó không?"
"Con không có."
"Cha cũng chẳng có! Con hãy xin Vị Phụ Nữ cho con một số tiền."
Đến đây Bernadette cáo từ ra về.
Ngày 4 tháng 3, 1858, là hẹn Đức Mẹ hiện ra lần thứ mười lăm.
Từ 11 giờ khuya đêm trước, chính quyền đã kiểm soát khu vực Massabielle. Lúc 5g sáng đã có những toán cảnh sát đến khu vực. Phái đoàn các bác sĩ y khoa tới nhà để thẩm vấn Bernadette. Khoảng 7 giờ, Bernadette tới hang đá thì đã có khoảng hai mươi ngàn người chờ sẵn.
Ngay khi tới nơi, Bernadette quì xuống cầu nguyện kinh Mân Côi như thường lệ, và cô chỉ mới đọc xong kinh Kính Mừng thứ ba trong mầu nhiệm thứ hai, thì mắt cô nhìn xoáy vào phía trên bụi tầm xuân. Đức Mẹ hiện ra và Bernadette tiếp tục cầu nguyện. Khi lần chuỗi xong, ba lần Bernadette đưa tay lên làm dấu Thánh Giá đều không thể đưa tay lên được, mãi lần thứ bốn mới được. Về sau cô nói lại lý do: "Vì tới lúc đó Đức Mẹ mới lần chuỗi xong và làm dấu Thánh Giá." Bernadette đứng lên và người chị/em họ đi theo vào trong hang đá, chị đứng đó, mắt vẫn gắn vào đối tượng vô hình trước mặt. Về sau chị nói: "Lúc đó Đức Mẹ tới gần chị, có thể đưa tay ra chạm vào Đức Mẹ."
Sau thị kiến, Bernadette đứng lên ra đi mà không nói với ai lời nào. Chị đi thẳng tới gặp cha sở để nhắc lại với cha về hai yêu cầu của Đức Mẹ. Cha đáp:
"Con hãy xin Vị Phụ Nữ diễm tuyệt cho biết phương danh Người ... Nếu cha biết rằng chính là Đức Trinh Nữ, cha sẽ tiến hành mọi điều Người muốn, nhưng một lần nữa, vì cha không biết, cha không làm gì được. ... Người có bảo con trở lại đó nữa không?"
"Thưa cha, không ạ."
"Người có nói với con rằng Người sẽ không bao giờ trở lại nữa không?"
"Thưa cha, Người không nói điều đó."
"Vậy, nếu Người trở lại, con xin Người cho con biết phương danh Người."
Các ngày từ 5 đến 24 tháng 3, 1858, Bernadette không cảm thấy muốn đến hang đá Massabielle. Trong hai mươi ngày này, biết bao là bàn thảo và nghi vấn đặt ra. Nhưng Bernadette vẫn vô tư như trước ngày và trong những ngày Đức Mẹ hiện ra. Chính quyền và giáo quyền theo dõi, nhận định và dự liệu.
Mặc dầu Bernadette vắng mặt, từ ngày 5-3-1858 trở đi, ngày nào cũng có những đoàn các thiếu niên và người lớn đi thành đoàn rước tới hang đá cầu nguyện. Người ta đặt những biểu hiệu tôn giáo và những hòm tiền dâng cúng trong hang đá mà số tiền thu được hằng ngày được ký thác nơi cha Peyramale.
Ngày Lễ Truyền Tin, 25-3-1858, Bernadette thức giấc và cảm thấy hết sức ước ao tới hang đá. Nhưng cha mẹ cô bắt cô chờ đợi tới 5 giờ sáng để cả gia đình cùng đi, và lần này Đức Mẹ hiện ra (Đức Mẹ hiện ra lần thứ mười sáu). Bernadette kể lại:
"Người đứng đó, lặng lẽ mỉm cười và nhìn đám đông y hệt một hiền mẫu âu yếm nhìn đàn con của Người. Khi tôi quì trước mặt Người, tôi xin Người tha lỗi cho sự chậm trễ của tôi. Người vẫn nhân từ ra dấu cho tôi biết không cần phải xin lỗi. Kế đó tôi nói với Người lòng tôi yêu mến và tưởng nhớ Người, và tôi sung sướng biết chừng nào được gặp lại Người. Sau khi đã nói hết nỗi lòng của tôi, tôi bắt đầu cầu nguyện kinh Mân Côi."
Khi bầu ánh sáng hình bầu dục di chuyển từ bụi tầm xuân xuống gần đến đất và ngừng lại phía dưới vòm cửa hang đá. Lập tức Bernadette đứng dậy đi về phía Đấng Hiện Ra. Cô đứng đó, tay cầm ngọn nến cháy. Lúc này Bernadette nhất định tìm biết phương danh của Vị Phụ Nữ. Bernadette hỏi tới ba lần.
Lời Bernadette: "Thưa Bà, xin Bà vui lòng cho con biết Bà là ai?"
"Đấng Hiện Ra" bắt đầu mỉm cười.
Nhưng Bernadette nhắc lại câu hỏi lần thứ ba.
"Đấng Hiện Ra, tới lúc này vẫn chắp tay, mở hai tay ra và hạ thấp xuống như trong ảnh Đức Bà Hay Làm Phép Lạ, xâu chuỗi tuột xuống đến cổ tay: chính là lúc Người chúc lành cho địa cầu được cứu chuộc. Sau cùng, Người ngước mắt lên trời, theo dáng điệu chúc tụng Magnificat, Người nói ra điều bí mật của Người: 'MẸ LÀ ĐẤNG VÔ NHIỄM NGUYÊN TỘI.' Kế đó, Đức Mẹ mỉm cười và biến đi."
Lập tức Bernadette chỗi dậy, mặt hân hoan, cùng với đoàn người đông đảo, vội vàng đi vào thị trấn, vừa đi cô vừa lớn tiếng nhắc lại để nhớ. Khi vào thị trấn, đám người đông đảo kéo tới nhà cha Peyramale. Bernadette đứng dưới nhìn lên, cha sở ở trên cao nhìn xuống và Bernadette chỉ vỏn vẹn nói: "MẸ LÀ ĐẤNG VÔ NHIỄM NGUYÊN TỘI."
Cha Peyramale xúc động, vì đây không phải chỉ là vấn đề thuần túy tôn giáo, mà còn là những vấn đề trọng đại khác nữa, và ngài cũng biết Bernadette mù chữ có thể cô chẳng hiểu gì điều đó.
Đây là vấn đề phức tạp gay go, vì từ thế kỷ 14, tín điều Đức Trinh Nữ Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội đã từng là đề tài tranh luận.
Sau cùng Vị Phụ Nữ đã tự xưng mình là "Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội" thì hiển nhiên Người là Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Chúa Cứu Thế, và Mẹ Giáo Hội. Rõ ràng Bernadette chẳng hiểu gì về ý nghĩa "Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội" vì cô chỉ hiểu đầy đủ sau khi được các nữ tu ở Nerves giải thích nhiều lần.
Dân chúng tuốn đến hang đá và suối nước Massabielle ngày càng đông tạo nên nguy cơ về vệ sinh và trật tự. Đầu tháng 5, 1858, vì không thể đàn áp dân chúng, nhà cầm quyền tại Tarbes hăm dọa bắt bỏ tù bất cứ ai nói là được thị kiến. Cảnh sát tịch thu mọi vật dụng sùng kính. Đến tháng 6, 1858, khu hang đá Massabielle bị vây kín, mặc dầu dân chúng nhiều lần kéo sập những bức tường phong tỏa đó.
Tin tức về Đức Mẹ hiện ra và nước phép lạ phổ biến khắp nước Pháp, và sự cấm đoán của nhà cầm quyền chấm dứt vào khoảng trung tuần tháng 8, 1858. Hoàng tử của Napoleon III, lúc đó hai tuổi, đang ở nhà nghỉ mát của nhà vua tại Biarritz, cách Lourdes khoảng 150 cây số (90 miles). Hoàng tử này bị trúng nắng nặng và biến chứng đau màng óc. Nhà vua, đúng ra là hoàng hậu, phái bà vú của hoàng tử tới Lourdes. Bà này tới hang đá Massabielle và nhân danh hoàng đế ra lệnh cho lính gác phải lấy cho bà bình đầy nước suối, lấy ở giữa dòng càng tốt. Người lính gác tuân lệnh. Hoàng tử được tắm nước suối ba lần và khỏi bệnh. Tháng 10, 1858, hoàng đế Napoleon III đích thân ra lệnh cho nhà cầm quyền tại Tarbes và Lourdes gỡ bỏ hẳn những rào cản chung quanh hang đá và không được cản trở dân chúng tới hang đá.
Một ủy ban điều tra được đức giám mục giáo phận Tarbes thành lập vào tháng 11, 1858. Ủy ban này làm việc suốt bốn năm mới kết thúc. Đức giám mục Laurence, giáo phận Tarbes thông cáo:
"Chúng tôi nhìn nhận rằng Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội, Mẹ Thiên Chúa, thực sự đã hiện ra với Bernadette Soubirous ngày 11 tháng 2 năm 1858 và những lần sau đó, tất cả mười sáu lần. Các tín hữu có thể tin đây là sự thực. Chúng tôi cho phép thành lập lòng sùng kính Đức Mẹ ở hang đá Lourdes trong giáo phận chúng tôi. ... Và thể theo những ước nguyện của Đức Trinh Nữ được đưa ra hơn một lần trong những lần Người hiện ra, chúng tôi đề nghị thiết lập một linh địa tại khu đất hang đá, lúc này đã thuộc sở hữu của tòa giám mục."
Năm 1906, hang đá và Vương Cung Thánh Đường được Nước Pháp tặng cho đức giám mục giáo phận Tarbes, đến năm 1910 thì quyền sở hữu được chuyển cho Lourdes. Đức Gioan Phaolô II viếng Lourdes năm 1982.
Hằng năm có trên mười lăm triệu khách hành hương viếng Lourdes (Lộ Đức) và mỗi năm nhiều phép lạ được giáo quyền và hội đồng y khoa xác nhận xảy ra tại đây.
Trở lại với chị Bernadette. Tháng 7 năm 1860, trong khi ủy ban điều tra tiến hành nghiên cứu sự kiện Lộ Đức, cha sở Peyramale và ông thị trưởng Lourdes yêu cầu mẹ bề trên bệnh viện và trường học các nữ tu tại Nerves nhận Bernadette vào nội trú. Lúc đó Bernadette mười sáu tuổi và vẫn còn ngây thơ như đứa trẻ thơ. Gia đình chị mặc dầu nghèo khó, nhất định không nhận một trợ giúp nào khác ngoài việc cha sở thu xếp cho gia đình một chỗ trú ngụ khả quan hơn.
Tại nhà nội trú, Bernadette phải tiếp xúc với nhiều người tới phỏng vấn, điều tra. Các nữ tu tại đây ngạc nhiên vì lòng khiêm tốn và sức chịu đựng những cuộc phỏng vấn gay cấn đến mệt nhoài. Bernadette bi suyễn nặng, và đến mùa xuân năm 1862, hai lá phổi của chị bị tàn phá nặng nề. Khi cha tuyên úy ban Nhiệm Tích Xức Dầu Bệnh Nhân cho chị, chị mở mắt ra và xin uống nước suối, chị uống và lành bệnh.
Bernadette được chuyển sang nhà dòng ở phía bắc Lourdes, xa khoảng 500 cây số, tại đây chị tuyên khấn và trở thành nữ tu Marie Bernard. Chị sống khiêm tốn và ẩn dật cho tới khi chết, ngày 16 tháng 4 năm 1879, lúc ba mươi bốn tuổi.

Ngày 22 tháng 9 năm 1909, xác chị Marie Bernard (Bernadette) được khai quật. Xác chị còn nguyên vẹn tươi tốt, và án phong thánh cho chị được tiến hành. Ngày 3 tháng 4 năm 1919, 14 năm sau ngày khai quật lần thứ nhất, xác chị lại được khai quật và vẫn nguyên vẹn, chỉ một chút đổi mầu trên da mặt chị. Chị được phong hiển thánh, thánh Bernadette, năm 1933.


----------------------------

Câu chuyện 12
ĐỨC MẸ HIỆN RA TẠI PONTMAIN, NƯỚC PHÁP, NĂM 1871
Sơ lược bối cảnh nơi Đức Mẹ hiện ra lần thứ bốn tại Nước Pháp trong thời gian 1858-1871: Nước Pháp trong hoàn cảnh tương đối thịnh vượng và ổn định mọi mặt. Tuy nhiên những chống đối Hoàng Đế Napoleon III và những tính toán của ông, đã đưa ông tới quyết định sai lầm gây ra Cuộc Chiến Crimea với Đức-Phổ. Ông tuyên chiến ngày 19 tháng 7, 1870 và kéo quân ra biên giới Đức-Pháp.
Ngày 4 tháng 8, 1870, quân Phổ vượt biên giới tràn vào Pháp, và bắt Hoàng Đế Napoleon III. Tại Paris, các phe chống đối truất phế ông khiếm diện. Ngày 16 tháng 1, 1871, quân Phổ tới vùng Brittany, chỉ cách Paris khoảng 250 cây số, cách thị trấn Laval và xóm Pontmain chỉ 15 cây số. Dân chúng sống trong lo âu phập phồng.
Gần 6 giờ chiều ngày 17 tháng 1 năm 1871, tại nông trại của ông Cesar Barbadette ở xóm Pontmain, thuộc thị xã Laval, cách Paris khoảng 230 cây số (kilomètre) về phía Tây, bà Detais tới để báo tin cho gia đình về người con trai là August Friteau, ở mặt trận Pháp-Phổ tại biên giới Đức-Pháp. Lúc đó ông Cesar đang giúp hai cậu con làm bài.
Khi bà Detais tới, cậu Eugène Barbadette, 12 tuổi, và Joseph, 10 tuổi, tuy yêu mến anh cùng mẹ khác cha là August Friteau, nhưng hai cậu không ở lại nghe tin tức, mà ra ngoài nhìn trời ngắm sao. Eugène nhìn lên trời phía nhà ông Augustine Guidecod, gần nhất ở phía bên kia đường, nhưng không thấy ánh sao nào. Cậu đang phân vân không biết tại sao. Trong khi Eugène chăm chú nhìn vào khoảng bầu trời không ánh sao đó, bất chợt cậu thấy một "Vị Phụ Nữ Đẹp" đứng cách nóc nhà ông Augustine khoảng 6 hoặc 7 mét. Thoạt mới thấy hiện tượng này, Eugène nghĩ rằng đó là dấu báo anh cùng mẹ khác cha của cậu tử trận. Nhưng sau cậu đổi ý nghĩ vì thấy Vị Phụ Nữ mỉm cười.
Eugène gọi bảo bà Detais nhìn vào nhà ông Guidecoq xem có thấy gì không. Bà Detais nói bà không thấy gì cả. Ông Cesar và Joseph lúc này tới cửa, nhưng ông Cesar không thấy gì cả, còn Joseph la lên "Có Vị Phụ Nữ đẹp và cao lớn" đứng trên không phía trên nóc nhà đó. Hai cậu thích thú trao đổi với nhau về những gì các cậu nhìn thấy.
Lời cậu Eugène nói sau này "Vị Phụ Nữ có khuôn mặt trái soan, luôn có nụ cười tuyệt vời trên môi. Người mặc áo dài xanh dương đậm, rộng và không có dây lưng. Trên áo có những ngôi sao vàng kim lóng lánh. Chân Người mang hài cùng mầu với áo và có viền vàng kim. Người đội khăn choàng mầu đen, phủ một phần trán, che mái tóc và hai tai, phủ xuống qua vai. Trên khăn choàng là chiếc mãovàng cẩn kim cương."
Trong khi đó ông Cesar và bà Detais vẫn không thấy gì cả. Bà Detais ra về, ba cha con ông Cesar đi vào trong nhà. Ít phút sau ông bố bảo Eugène ra coi lại xem cậu có còn thấy gì nữa không. Eugène ra cửa nhìn và nói với ông bố: "Thưa bố, có, Vị Phụ Nữ vẫn còn đó." Bà Victoria, mẹ của Eugène và Joseph, từ trong bếp bước ra nhìn, nhưng bà cũng không thấy gì cả. Trong khi đó Joseph vỗ tay mừng "Vị Phụ Nữ đẹp", nhưng bà mẹ bảo cậu đừng làm ồn vì mọi người đang nhìn vào gia đình.
Những tiếng nói lớn của hai cậu con trai làm lối xóm để ý. Bà Victoria bảo hai cậu đọc năm kinh Kính Mừng, rồi bà bảo hai cậu lại nhìn lên. Các cậu nói vẫn nhìn thấy Đấng Hiện Ra. Bà mẹ đeo kính lên mắt và chăm chú nhìn, nhưng cũng không thấy gì cả. Bà bảo mọi người đi vào ăn tối. Hai cậu đi vào trong nhà, nhưng mắt vẫn ngoái nhìn sang phía nhà ông Augustine.
Ăn xong, hai cậu lập tức chạy ra, và Vị Phụ Nữ vẫn yên tĩnh đứng đó. Hai cậu nói Vị Phụ Nữ đó tầm vóc bằng sơ Vitaline. Ông bà Cesar cho người đi mời sơ Vitaline tới. Sơ Vitaline cũng không thấy gì, và cùng bà Victoria trở lại nhà của sơ. Tại đây sơ Vitaline gặp Francoise Richer, 11 tuổi, Jeanne-Marie Lebosse, 9 tuổi, dẫn hai bé này tới nông trại của gia đình Barbadette, nhưng không nói với hai cô bé về thị kiến. Khi tới nơi, và vẫn chưa gặp hai cậu con trai, hai cô bé này đồng thanh nói hai cô thấy một "Vị Phụ Nữ đẹp mặc áo mầu xanh có những ngôi sao bằng vàng", y như hai cậu con trai đã nói.
Sơ Marie-Edouard tới, nhưng cũng không thấy gì. Nhưng sơ nghĩ rằng các bé thơ có thể được thị kiến. Sơ Marie tới nhà ông Friteau, gần nhà ông Barbadette, dẫn cháu của ông Friteau là Eugèn Friteau tới, nhưng chú bé này không thấy gì cả. Sơ Marie-Edouart chạy tới nhà xứ, nói với cha sở (đã già và tật bệnh): "Có phép lạ, một thị kiến! " Mấy đứa bé thấy Đức Trinh Nữ!" và mời cha mau tới nhà ông Barbadette. Rồi sơ chạy đi trước tới nơi có thị kiến. Tại đây sơ quì gối cầu nguyện kinh Mân Côi. Trong khi đó, bà vợ ông Boitin với cô con gái là Augustine Boitin, 2 tuổi, tới. Cô bé Augustine Boitin thích thú chỉ tay lên trời, la lên "Chúa Giêsu, Chúa Giêsu!"
Lúc này có khoảng năm mươi người hiện diện, và cha sở cũng đã tới nơi hỏi các thiếu niên nhìn thấy gì. Các cô cậu nói với cha sở như đã nói với nhiều người trước đó. Từ lúc này trở đi, thị kiến thay đổi lần lần.
Eugène kể lại:
"Một Thánh Giá mầu đỏ xuất hiện trên áo Vị Phụ Nữ nơi vị trí trái tim. Thánh Giá này lớn dần và Đức Mẹ phải lấy tay áp vàongực. Lúc này Đức Mẹ đứng trong một vầng sáng hình bầu dục. Trong khuôn này có bốn cây nến (đèn cầy) chưa thắp sáng. Các ngôi sao trên nền trời bên ngoài vầng ánh sáng bắt đầu di chuyển sắp thành hai hàng dưới chân Đức Mẹ; lúc này các ngôi sao trên áo Đức Mẹ cũng tăng thêm nhiều hơn."
Số người tới mỗi lúc mỗi đông hơn. Một số người ca hát, một số người quì gối. Giữa lúc này, anh Joseph Babin, một người ở Pontmain, lớn tiếng nói:
"Quân Phổ đã ở Laval rồi! Chúng ta phải cầu nguyện!"
Lúc này, thị kiến sang một cảnh khác. Đức Mẹ đưa hai tay lên quá tầm vai, lòng bàn tay hướng ra ngoài (dấu này được coi là dấu Đức Mẹ ngăn chặn không cho quân Phổ tràn tới). Kế đến một mặt phẳngrộng mầu trắng hiện ra dưới chân Đức Mẹ và bầu ánh sáng hình bầu dục, và dường như một bàn tay vô hình đang viết chữ rất đẹp trên nền đó.
Sơ Marie Edouart và sơ Vitaline hướng dẫn đám đông hát kinh Magnificat và các ca khúc khác. Hát xong, mọi người quì thinh lặng, chỉ đôi khi các bé được thị kiến nói lên những cảnh mới của thị kiến hoặc các mẫu tự xuất hiện. Lần lượt các câu sau đây hiện ra trên nền trắng:
+ "Mais priez mes enfants = Nhưng, các con của Mẹ, các con phải cầu nguyện."
+ "Dieu vous exaucera en peu de temps = Thiên Chúa sẽ sớm nhận lời cầu nguyện của các con."
Khi câu thứ hai xuất hiện, Thánh Giá nơi ngực Đức Mẹ tăng kích thước, và Đức Mẹ phải lấy tay áp Thánh Giá vào ngực.
+ "Mon Fils se laisse toucher = Con của Mẹ xúc động." Thánh Giá biến đi khi câu thứ ba này xuất hiện.
Đức Mẹ đưa tay ra và một ngôi sao di chuyển lần lượt thắp sáng bốn cây nến, rồi đến đậu trên mão nơi đầu Đức Mẹ. Sau khi bốn cây nến được thắp sáng, Đức Mẹ hạ tay xuống, và hai Thánh Giá nhỏ mầu trắng xuất hiện trên hai vai Đức Mẹ.
Đến lúc này, các em được thị kiến đều nói một tấm khăn voan mầu trắng lớn từ chân Đức Mẹ từ từ bay lên che khuất dần dần từ chân Đức Mẹ trở lên, cuối cùng chỉ còn khuôn mặt với nụ cười nhìn xuống các em được thị kiến. Sau cùng mặt Đức Mẹ cũng biến mất.
Thấy các em được thị kiến im lặng, cha sở hỏi: "Các con còn thấy Đức Mẹ chứ?"
Các em đồng thanh đáp: "Thưa cha, không ạ. Đức Mẹ biến đi rồi."
Ngày hôm sau, tin tức về Đức Mẹ hiện ra tại Pontmain loan truyền tới Paris, và chỉ ba ngày sau được loan truyền khắp Nước Pháp.
Một sự kiện lịch sử cần ghi nhớ là khoảng 5g30 chiều ngày 17 tháng 1, 1871, quân đội Đức ngừng không tiến vào thị trấn Laval, khi Đức Mẹ bắt đầu hiện ra. Tin loan truyền là Tướng Schmidt, chỉ huy quân Phổ, nói: "Chúng tôi không thể tiến xa hơn. Phía xa xa, về hướng Brittany, Đức Bà, không rõ hình, cản đường."
Nông trại của gia đình Barbadette sớm trở nên một linh địa, mà hằng ngày nhiều người tới cầu nguyện.
Ngày 2 tháng 2, 1875, đức giám mục Wicart, giáo phận Laval, tuyên bố:
"Chúng tôi nhìn nhận rằng Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội, Mẹ Thiên Chúa, đã thực sự hiện ra với Eugène Barbadette, Joseph Barbadette, Francoise Richer, Jeanne-Marie Lebosse, tại xóm Pontmain. Chúng tôi, hết lòng khiêm nhượng và phục tòng, đặt phán quyết này dưới quyền Đức Thánh Cha, Trung Tâm Kết Hiệp và đầu não bất khả ngộ về chân lý của toàn thể Giáo Hội."
Đại thánh đường được khởi đầu xây dựng trên phần đất nông trại của gia đình Barbadette vào năm 1872. Kế đến nông trại của gia đình Guidecoq và khu vực nhà thờ giáo xứ cũng nhường chỗ cho toàn thể khu vực đại thánh đường nguy nga. Một tượng Đức Mẹ đứng tại phần đất nơi có ngôi nhà của gia đình Guidecoq mà Đức Mẹ đã đứng khi hiện ra. (1)
***
(1) Một điều đáng lưu ý là trong thập niên 1960, tại Việt Nam, một Vương Cung Thánh Đường kết tình chị em với đại thánh đường Pontmain được dâng kính Đức Mẹ Pontmain, Mẹ Hy Vọng và Hòa Bình.
Thánh đường này là Vương Cung Thánh Đường Sàigòn (Nhà Thờ Đức Bà Sàigòn), có tượng Đức Mẹ Hòa Bình ở công viên Hòa Bình trước cửa thánh đường, nhìn thẳng đường Tự Do.
----------------------------


Câu chuyện 13
ĐỨC MẸ HIỆN RA TẠI KNOCK, ÁI NHĨ LAN, NĂM 1879
Những năm trước 1879, Ái Nhĩ Lan phải chịu đựng những khủng hoảng khốn đốn về chính trị, kinh tế, tôn giáo, và những lãnh vực khác. Những lần mất mùa khoai đói kém từ các năm 1840 đến 1851 là những đại họa xứ này phải chịu mà các quốc gia lân bang không cứu trợ.
Tình trạng kỳ thị trầm trọng giữa các giới quí phái và bình dân, giữa các chủ nhân và nhân công, giữa Công Giáo với Tin Lành, Anh Giáo, giữa người Ái Nhĩ Lan với người Anh. Trầm trọng nhất là giữa gới giầu với người nghèo nơi các xí nghiệp và nông trại.

Knock là một xóm nhỏ ở trên đồi nhìn xuống bãi lầy mênh mông, gần thị trấn Tuam ở giữa vùng lầy này. Vào thời gian Đức Mẹ hiện ra tại Knock, nơi này là một xóm nhỏ xa xôi hẻo lánh, nghèo nàn, ít ai biết. Nhà nguyện tại Knock được dựng lên vào năm 1829 khi Giáo Hội Công Giáo tại Ái Nhĩ Lan được chút tự do hành đạo. Nhà nguyện nhỏ này trở nên trung tâm sinh hoạt tôn giáo cho vùng Knock và Aghamore thuộc giáo phận Tuam. Nhưng khi nạn đói kinh hoàng xảy ra năm 1879, chỉ còn khoảng 18 gia đình ở lại Knock và vùng lân cận.


Ngày 21 tháng 8, 1879, Tổng Phó Tế Cavanaugh đi thăm các giáo dân trở về nhà xứ (nơi linh mục hoặc tu sĩ thuộc giáo xứ cư ngụ). Chị Mary McLoughlin, người trông coi nhà xứ, giúp Phó Tế Cavanaugh hong quần áo sũng nước của ngài và chuẩn bị bữa ăn tối và nơi ngụ cho ngài.
Khoảng 7g30 tối, Mary Beirne, con gái bà Margaret Beirne (cũng gọi là bà góa Beirne), tới nhà thờ để khóa cửa, cô thấy những hình người hoặc thứ gì sáng, nhưng cô không để ý. Cũng khoảng thời gian đó, bà Carty đi ngang qua nhà thờ và thấy những hình tượng đó; bà nghĩ bụng "Lại một cuộc lạc quyên đóng góp nữa, Chúa ơi, xin giúp chúng con." Khoảng 8g30 tối, chị Mary McLoughlin rời nhà xứ đi thăm người bạn là bà Margaret Beirne. Khi chị bước đi ngang qua nhà thờ trong cơn mưa tầm tã, chị thấy ở đầu nhà thờ có "những khuôn mặt đẹp đẽ mà lạ và một bàn thờ." Mặc dầu chị thấy có ánh sáng chung quanh các khuôn mặt đó, nhưng chị cho rằng thầy phó tế đã đặt mua các tượng đó từ Dublin đem tới và để ngoài mưa như thế. Không nghĩ gì thêm, chị tiếp tục đi tới nhà bà Margaret Beirne.
Tới nhà bà Margaret Beirne, chị Mary McLoughlin nói với bà này về điều bà thấy ở đầu nhà thờ trên đường tới đây. Cô con gái của bà chủ nhà cũng chia sẻ câu chuyện, và tình nguyện đi với chị Mary trở lại nhà xứ. Chị Mary McLoughlin và Mary Beirne thấy những hình ảnh lúc trước bây giờ càng sáng hơn. Hai người thấy các hình người đó dường như đứng trên đầu những lá cỏ, nhưng chân không chạm các lá cỏ đó. Hai chị cũng thấy là mưa không làm ướt đám cỏ ở đầu nhà thờ. Hai chị nhận ra hình ảnh thánh Giuse, Đức Mẹ và thánh Gioan (Tông Đồ).
Hai chị ngạc nhiên, và Mary Beirne chạy về báo cho mẹ và chị là Catherine Beirne, cô cháu gái là Catherine Murray, 8 tuổi, và anh/em trai của cô là Dominick. Mary Beirne hối những người này chạy mau tới nhà thờ vì "Đức Trinh Nữ ở đó." Dominick bảo Mary (Beirne) đừng tự lừa dối mình. Nhưng Mary bất chấp và vội vàng chạy đi. Dominick khuyên mẹ đi tìm chị về "Đừng để người lối xóm cười." Bà góa Beirne tới nhà thờ mà ướt sũng mưa, bà thấy các hình ảnh đó mà lúc này rực sáng hơn. Không lâu sau đó Dominick, Catherine Murray và một số người lối xóm cũng tới. Tất cả những người này đều chứng kiến việc hiện ra. Catherine Murray chạy đi kiếm dì Margaret và nhiều người lối xóm khác cũng tới. Hầu như tất cả mọi người ở xóm Knock đều tới, nhìn thấy việc hiện ra; mọi người hiện diện đều được bao bọc trong bầu ánh sáng mầu bạc êm dịu bao quanh các hình thánh. Thị kiến hôm nay kéo dài tới khoảng 11 giờ khuya.
Bà góa Beirne, một trong các người được thị kiến nói:
"Tôi lập tức đi tới nơi được chỉ. Khi tới nơi, tôi thấy rõ ràng ba hình ảnh. Lập tức tôi tới hôn, như tôi nghĩ, chân Đức Trinh Nữ; nhưng tôi không cảm thấy gì trong vòng tay ôm của tôi mà chỉ là bức tường phía sau ảnh đó, và tôi tự hỏi tại sao tôi không sờ được bằng tay tôi những hình ảnh tôi nhìn thấy rõ ràng."
Bà Bridget Trench, lúc đó 75 tuổi, nói:
"Hình ảnh ba vị có vẻ bất động, tựa như các pho tượng; các hình ảnh đứng gần đầu nhà thờ và dường như cách đầu lá cỏ khoảng hai gang tay. Đức Trinh Nữ đứng giữa; Người mặc áo trắng, và có khăn choàng phủ từ đỉnh đầu tới chân.
"Hai bàn tay của Đức Trinh Nữ đưa lên cao như linh mục khi cầu nguyện trong Thánh Lễ. Tôi thấy rõ hai chân Đức Trinh Nữ và ba lần cố gắng hôn chân Người; Đức Trinh Nữ đội trên đầu thứ gì giống như vương miện, và cặp mắt Người nhìn lên trời.
"Lúc đó trời mưa như trút, nhưng không một giọt mưa nào rơi trên ba hình thánh đó. Tôi cẩn thận sờ đất, đất hoàn toàn khô. Gió từ hướng nam thổi tới, thẳng vào đầu nhà thờ, nhưng không một giọt nước mưa nào rơi vào nơi các hình thánh đứng. Tôi không thấy có cử động nào nơi các hình thánh."
Chị Mary Beirne nói:
"(Hình ảnh) Đức Trinh Nữ bằng tầm vóc người thực, hình thánh Giuse và thánh Gioan Tông Đồ không quá lớn hoặc quá cao so với hình Đức Trinh Nữ; ba vị đứng cách tường đầu nhà thờ một khoảng, và cách mặt đất khoảng một gang rưỡi hoặc hai gang tay."
"Đức Trinh Nữ đứng thẳng, cặp mắt ngước nhìn lên trời, hai bàn tay ngửa và đưa lên cao qua khỏi vai hoặc cao hơn một chút; Người mặc áo choàng rộng mầu trắng; trên đầu Người có vương miện vàng."
"Hình thánh Giuse, đầu ngài hơi nghiêng về phía Đức Trinh Nữ, như thể ngài tỏ lòng tôn kính Đức Trinh Nữ; thánh Giuse có mái tóc và râu mầu muối tiêu. Hình ảnh thứ ba có vẻ là thánh Gioan Tông Đồ."
"Một con chiên đứng trên bàn thờ, nhìn vào thánh Gioan Tông Đồ. Tôi không nhìn thấy hình thánh giá hoặc ảnh chịu nạn nào cả. Tôi thấy những ngôi sao vàng kim trên mình và chung quanh con chiên. Tôi nhìn hình ảnh này từ lúc 8g15 đến 9g30 tối. Trong thời gian này trời mưa tầm tã."
Đức Mẹ, Thánh Giuse và Thánh Gioan Tông Đồ hiện ra tại Knock tất cả khoảng bốn lần. Lần thứ hai vào ngày 2 tháng 1, 1880. Lần này Tổng Phó Tế Cavanaugh và hai người khác nữa chứng kiến. Lần thứ ba vào đêm 5 tháng 1, 1880. Lần này có đông người thị kiến và hai viên chức Hoàng Gia Ái Nhĩ Lan đồn trú tại Knock giữ trật tự. Đêm 6 tháng 1, 1880, rất đông người hơn nữa được thị kiến, có cả những người từ thị xã Claremorris lân cận cũng tới và được thị kiến.
Trong những lần hiện ra này, có những hiện tượng lạ lùng như những trái cầu rực sáng hoặc những vòng hào quang di chuyển tới lui trên thánh đường và các nơi khác trong khu vực Knock. Nhiều người cho hiện tượng này do khí vùng lầy phát ra. Nhưng những ý kiến đó đã bị các phép lạ chữa lành bệnh xảy ra tại Knock đánh bại. Những phép lạ điển hình là một phụ nữ, 28 tuổi, bị điếc từ lúc 6 tuổi, đã nghe lại được sau khi đến cầu nguyện tại thánh đường Knock. Michael Ansborough và John Mckenna, bị mù khoảng 10 năm, lại được sáng mắt. Bà Mary Prendergast, suốt nhiều năm không đi đứng được, đã khỏi bệnh đứng lên đi lại không cần ai giúp, sau khi được đưa tới đầu nhà thờ nơi Đức Mẹ, thánh Giuse và thánh Gioan Tông Đồ hiện ra. Tới nay đã có hơn ba trăm phép lạ chữa lành bệnh tại Knock, tuy nhiên các phép lạ này không được khảo nghiệm và chứng minh theo tiêu chuẩn tại Lộ Đức.
Giáo quyền chưa có cơ hội xét và chính thức nhìn nhận sự kiện thiên đàng hiện ra tại Knock, vì hai lần ủy ban điều tra được thành lập đều không đem lại kết quả cuối cùng. Tuy nhiên mỗi năm vẫn có hàng ngàn người đến Knock để cầu nguyện và xin ơn.
Đức Mẹ hiện ra tại Knock, Ái Nhĩ Lan, được gọi là "Đức Mẹ Thinh Lặng" vì trong những lần hiện ra tại đây, Đức Mẹ không nói lời nào cả. Người ta coi việc Đức Mẹ hiện ra tại Knock là để an ủi và cứu trợ con cái Mẹ. Chính nhờ sự kiện này mà chỉ vài năm sau, một trận đói khác xảy ra tại vùng này, đã được các quốc gia lân bang gởi thực phẩm cứu trợ tới Ái Nhĩ Lan kịp thời.
Tới nay, thánh đường nhỏ tại Knock vẫn là một linh địa hành hương. Một phi trường được thiết lập phía ngoài Knock để thỏa mãn nhu cầu di chuyển. Đầu nhà thờ phía nam, nơi Đức Mẹ thánh Giuse và thánh Gioan Tông Đồ hiện ra, nay được bao bằng kính.
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã tới viếng nhà nguyện Knock khi đến thăm Ái Nhĩ Lan. Việc Đức Thánh Cha tới thăm nơi thiên đàng hiện ra được coi là mặc nhiên công nhận sự việc.
-----------------------------


tải về 0.94 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương