Ngưỡng Nhân Lưu Ấu Nhi MẸ maria sứ giả CỦa tình yêu thiên chúA



tải về 0.94 Mb.
trang4/7
Chuyển đổi dữ liệu04.01.2018
Kích0.94 Mb.
#35322
1   2   3   4   5   6   7

Câu chuyện 14
ĐỨC MẸ HIỆN RA TẠI TILLY-SUR-SEULLES, PHÁP NĂM 1896
Đức Mẹ hiện ra tại Tilly-Sur-Seulles đặc biệt khác với những lần trước.
Khoảng 4 giờ chiều một ngày tháng Ba năm 1896, một cậu học sinh từ trong lớp học liếc nhìn qua cửa sổ ngó ra cánh đồng, cậu nhìn thấy một Vị Phụ Nữ đẹp từ trời từ từ xuống. Cậu kêu lên và các học sinh khác trong lớp, cả cô giáo (nữ tu), ùa tới các cửa sổ và nhìn thấy cũng hình ảnh đó. Vị Phụ Nữ đáp xuống đứng trên một cây sồi ở giữa cánh đồng trống.
Sáu mươi học sinh và ba nữ tu rời trường chạy tới cánh đồng để nhìn gần Vị Phụ Nữ đẹp. Tất cả đều nhìn thấy Đấng Hiện Ra. Đức Mẹ đứng trong vòng ánh sáng hình bầu dục phát ra tia sáng mầu lá cây, đỏ, hồng, xanh dương, và vàng. Vị Phụ Nữ có dáng vóc người thực, mặc áo rộng theo kiểu Thổ Nhĩ Kỳ, lấp loáng và mầu sắc thay đổi. Tuy nhiên không phải chỉ có học sinh và các nữ tu tới đó, mà nhiều người cũng tới và thấy Đấng Hiện Ra. Đa số người hiện diện quì gối cầu nguyện. Mọi người tin rằng Đức Mẹ hiện ra. Một lát sau, Đức Mẹ biến đi. Nhưng thị kiến xảy ra liên tiếp những ngày sau đó và cách quãng trong thời gian bốn năm. Các lần thị kiến đều xảy ra giữa ban ngày. Sau những lần đầu, các người được thị kiến về sau thường ở trong tình trạng xuất thần, bất tỉnh, tuy nhiên mắt họ dán vào nơi thị kiến, và không phản ứng trước những châm chích, ngắt nhéo, hoặc vỗ mạnh vào má.
Ngày ngày số người tới và được thị kiến càng đông. Nhưng không phải mọi người đều nhìn thấy Đức Mẹ, và không phải mọi người đều thấy những cảnh giống nhau. Diễn tiến này xảy ra nhiều giai đoạn và nhiều cảnh đối chọi nhau khiến người ta có nhiều nghi vấn và ý kiến khác nhau. Những hình ảnh người ta thấy có tính cách tiên tri và khải huyền, những biến cố hãi hùng như thời gian tận thế. Một số người thị kiến các thánh, thiên thần, quỉ, và những hình ảnh ghê sợ khác. Nhiều người được thị kiến cảnh chiến đấu giữa các thiên thần và ma quỉ. Nhiều người được thị kiến biến đổi cơ thể, vặn vẹo hoặc co quắp thân thể, cách lạ lùng mà chỉ sau này người ta mới hiểu đó là hình ảnh của những biến cố khủng khiếp sẽ xảy ra.
Một số người được thị kiến nhắc lại lời Đức Mẹ kêu gọi mọi người cầu nguyện. Thiên Chúa gởi Mẹ Maria đến với con cái trần gian để cảnh cáo, kêu gọi con cái Chúa và Mẹ ăn năn thống hối; để báo trước những thiên tai mà con cái Mẹ cần phải cầu nguyện để được cứu thoát hoặc được giảm thiểu; để thông báo thánh ý Thiên Chúa cho con cái Mẹ tuân theo hầu mưu cầu hạnh phúc đời này và đời sau.
Đức Mẹ hiện ra tại Tilly-Sur-Seulles trong thời kỳ tương đối ổn định, thịnh vượng. Không ai ngờ được những kinh hoàng sớm xuất hiện, và Thời Đại Vô Chính Phủ (1903-1906) xảy ra ngay sau lần Đức Mẹ hiện ra này và sau đó là Thế Chiến I. Toàn thể khu vực chung quanh Tilly-Sur-Seulles và duyên hải Normandy trở nên chiến địa kinh hoàng, những chiến hào, bùn lầy, những vũ khí giết người, bệnh tật, đói khát, chết chóc, hàng ngàn xác chết rữa nát không ai chôn cất và những nấm mồ tập thể. Thế Chiến I kéo dài bốn năm với những khốc liệt khủng khiếp được báo trước qua các hình ảnh của các người được thị kiến trong thời gian bốn năm những lần Đức Mẹ hiện ra tại Tilly-Sur-Seulles.

--------------------




Câu chuyện 15
ĐỨCMẸ HIỆN RA TẠI MANTARA, LEBANON, NĂM 1908, 1911
Mantara, ngoại ô của thị xã Sidon, cũng gọi là Saida, ở miền đồi núi phía nam Núi Lebanon. Năm 1908, một số khu nhà tranh nghèo nàn nằm giữa vùng đồi núi và thành phố Sidon. Sidon là một trong các hải cảng quang trọng phía đông Địa Trung Hải của người Phoenicians và được dựng lên khoảng 1400 năm trước Chúa giáng sinh, và năng được nhắc tới trong Phúc Âm.
Tại một trong những xóm làng ở vùng Mantara, có một xóm/làng Kitô hữu Ai Cập, tại đây có một hang đá rộng (rộng và sâu hơn hang đá Lộ Đức). Tương truyền rằng tại hang đá này, thánh nữ Maria Magdalena đã nhiều lần hiện ra. Đức Trinh Nữ cũng một số lần hiện ra tại đây. Lưu truyền rằng thánh Maria Magdalena đẹp nhưng không đẹp bằng Đức Trinh Nữ, thánh Maria Magdalena nhỏ con hơn Đức Trinh Nữ, nhưng tóc thánh nữ vàng hơn.
Lưu truyền rằng thánh Maria Magdalena yêu cầu hang đá này phải là "nơi hoàn toàn yên lặng, không ai ăn uống gì tại đây. Nơi này phải triệt để im lặng dành cho những trái tim chờ đợi Chúa Giêsu Kitô trở lại."
Một nhà nguyện nhỏ có tường, có vách ngăn và cửa sổ, được dựng trong lòng hang đá này, nhưng vào năm 1908, khi có sự kiện thiên đàng hiện ra tại đây được nói trong chương này, thì hầu như hư tàn. Trong những năm 1908 đến 1911, nhiều người nói họ nhìn thấy một bóng sáng hiện ra ở trong hang đá hoặc phía ngoài gần đó, nhưng suốt bốn năm đó không có sự việc đặc biệt nào được ghi nhận. Từ ngày có tin là người ta thấy bóng sáng hiện ra tại hang đá ở Mantara, Bề Trên Nicola Halabi đôi khi đến dâng thánh lễ tại đây. Vì thế một bàn thờ được thiết lập thoạt đầu ở cửa hang đá, sau di vào trong hang đá. Hai hoặc ba căn phòng trong nhà nguyện được sửa lại.
Sáng sớm ngày 11 tháng 6, 1911, Bề Trên Nicola Halabi dâng thánh lễ tại đây và có khoảng 60 người tham dự. Khoảng 7 giờ tối, một nhóm phỏng chừng 50 phụ nữ trở lại hang đá. Bảy người trong số 50 người này tới gần hang đá trước và họ bị lóa mắt vì làn ánh sáng từ bàn thờ ở trong nhà nguyện phát ra (nhà nguyện cách cửa hang đá chừng 10 mét). Thoạt tiên, các bà này nghĩ bầu ánh sáng đó là phản chiếu ánh mặt trời đang lặn ở phía sau lưng họ. Nhưng cường độ ánh sáng càng tăng thêm và bắt đầu phát ra nhiều mầu sắc kỳ lạ. Các bà này không im lặng được nữa, mà la lên báo cho các người khác tới coi sự lạ. Có khoảng 60 người đã vào hang đá và tất cả đều lóa nắt, vì ánh sáng cực mạnh đến độ không thể nhìn thẳng vào bầu ánh sáng đó được.
Nhưng chỉ ít phút sau, ánh sáng giảm cường độ và trở nên những bóng mây sáng từ đó tỏa ra những tia sáng muôn mầu và những ánh sáng lóng lánh khác. Ở giữa bầu ánh sáng đó, người ta thấy một Vị Phụ Nữ mà mọi người lập tức nhìn nhận là Đức Trinh Nữ vì Người bồng Chúa Hài Đồng.
Một số bà chạy xuống đồi lớn tiếng báo tin Đức Trinh Nữ Maria hiện ra. Tin Đức Mẹ hiện ra đã mau chóng loan truyền khắc các làng xóm lân cận, và rất đông người đến hang đá, trong số đó có cả Bề Trên Nicola Halabi và vị phụ tá. Đức Mẹ hiện ra lần này lâu khoảng hai hoặc ba tiếng đồng hồ. Tất cả những người tới gần bàn thờ lúc này đều được thấy Đức Mẹ. Đức Mẹ còn hiện ra ba hoặc bốn lần vào những ngày kế tiếp. Tờ báo địa phương ước lượng có trên 400 người đã được thấy Đức Mẹ.
Đức Mẹ hiện ra bồng Chúa Hài Đồng đứng trong bầu ánh sáng. Chúa Hài Đồng và Đức Mẹ không nói gì, nhưng nhìn đám đông tụ họp, trong khi đó Đức Trinh Nữ âu yếm đón nhận tất cả bằng cách gật đầu, ánh mắt nhìn, cử động của hai bàn tay, và nụ cười hài lòng.
Những xáo trộn chính trị tại vùng Trung Đông nhất là những biến cố tại Lebanon trong thế kỷ này đã khiến ít người lưu ý tới Mantara.
-------------------------------

Câu chuyện 16
CHÚA GIÊSU VÀ MẸ MARIA HIỆN RA TẠI NƯỚC BỈ, NĂM 1910
Bà Berthe Petit, một phụ nữ người Belgique (Bỉ), 1870-1943, được thị kiến Chúa Giêsu và Mẹ Maria nhiều lần.
Năm 1910, bà thấy Thánh Tâm Chúa Giêsu và Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Maria nhập làm một, Chúa Giêsu nói với bà:
"Con phải nghĩ đến Trái Tim Mẹ Cha như nghĩ đến Thánh Tâm Cha; sống trong Trái Tim này như con mưu tìm sống trong Thánh Tâm Cha; tận hiến cho Trái Tim Mẹ Cha như con tận hiến cho Thánh Tâm Cha. Con phải truyền bá lòng yêu mến Trái Tim này hoàn toàn hiệp nhất với Thánh Tâm Cha."
Một vài ngày sau, Chúa Giêsu hiện ra nói với bà Berthe:
"Thế giới phải được tận hiến cho Trái Tim Tân Khổ và Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ của Cha, như được tận hiến cho Thánh Tâm Cha."
Bà Berthe thấy cảnh cả thế giới được đổi mới nhờ sự tận hiến này.
Từ các năm 1914 - 1945, bà Berthe được nhiều mạc khải về các biến cố tương lai và ý nghĩa tiềm ẩn của các biến cố đó. Khi Quận Công Ferdinand, Nước Áo, bị ám sát ở Sarajevo, Chúa Giêsu nói:
"Bây giờ các biến cố khởi đầu dồn dập xuất hiện dẫn tới sự biểu lộ cả thể của đức công thẳng của Cha."
Khi Hiệp Ước (Hòa Bình) được ký kết, Chúa nói:
"Chẳng bao lâu người ta sẽ thấy bấp bênh chừng nào cái nền hòa bình được thiết lập mà không có Cha và không có sự chứng kiến của đại diện Cha (Đức Thánh Cha). Quốc gia coi như bị đánh bại đó, sức mạnh của nó chỉ tạm thời giảm thiểu, vẫn còn là mối đe dọa đối với đất nước quê hương của con và Nước Pháp. ... Chiến tranh sẽ lại bùng lên khắp nơi; những cuộc nội chiến, những xung đột chủng tộc. Điều đáng lẽ ra hết sức vĩ đại, hết sức chân thực, hết sức đẹp đẽ, hết sức lâu bền, bị trì hoãn ... Nhân loại đang xô tới cơn bão lốc kinh sợ, cơn lốc này sẽ chia rẽ các quốc gia hơn nữa, toàn thể các kế hoạch của loài người sẽ bị xóa sạch. ..."
Năm 1922, Chúa nói về "... thiên tai kinh hoàng sẽ xảy ra làm đảo lộn hết tất cả mọi toan tính hiện tại của loài người và những chính sách khốn nạn của họ."

Tháng 1 năm 1940, Chúa bảo bà Berthe Petit:


"Nước Bỉ sẽ bị xâm chiếm."
Việc này xảy ra đúng 3 tháng sau. Năm 1941, Chúa bảo đảm với bà rằng Nước Bỉ sẽ lại phồn thịnh và "việc giải phóng nước đó là việc của hai Thánh Tâm."
Sau cùng, năm 1942, trước khi bà từ trần và 2 năm trước khi bom nguyên tử rơi xuống Hiroshima, Chúa Giêsu nói với bà Berthe:
"Một cơn lốc kinh hoàng sắp sửa xảy ra. Người ta sẽ thấy rằng những sức mạnh được phóng đi trong lúc tức giận như thế sẽ sớm bị thả lỏng. Ngay bây giờ hoặc không bao giờ là lúc tất cả loài người tận hiến cho Trái Tim Tân Khổ Mẹ của Cha."
"Do sự chấp nhận của Người trên đồi Calvary, Mẹ của Cha đã chia sẻ tất cả mọi đau đớn thống khổ của Cha. Tôn sùng Trái Tim Mẹ của Cha kết hợp với Thánh Tâm Cha sẽ đem lại hòa bình, thứ hòa bình đích thực rất năng được nài xin nhưng vẫn còn quá ít xứng đáng."
Để tiêu biểu cho việc sùng kính này, Chúa Giêsu chỉ cho bà Berthe ảnh Đức Mẹ được kính tại Nữ Tu Viện Biển Đức ở Olligenies, Nước Bỉ. Năm 1918, khi quân đội chiếm đóng rút lui khỏi trường học của nhà dòng, một nữ tu tìm thấy nơi hầm nhà một hình tục tĩu dán trên tấm bìa cứng. Xé tấm hình dơ bẩn đó đi, chị nữ tu khám phá ra ảnh Mẹ Maria, nơi tay cầm bông huệ trắng, tay phải chỉ vào Trái Tim Tân Khổ của Mẹ, Trái Tim Mẹ bị lưỡi gươm xuyên thấu và rực lửa chung quanh. Các nữ tu Biển Đức đặt ảnh Đức Mẹ nơi trang nghiêm và chẳng bao lâu nhiều người cầu nguyện trước ảnh Đức Mẹ Trái Tim Tân Khổ này đã được nhiều ơn lành. Bà Berthe và các cộng sự in ảnh này để phổ biến, có kèm theo lời nguyện: "Lạy Trái Tim Tân Khổ và Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Maria, xin cầu cho chúng con chạy đến kêu cầu Mẹ."
LƯỢC TRÍCH VIỆC ĐỀN TẠ THÁNH TÂM CHÚA GIÊSU 9 THỨ SÁU ĐẦU THÁNG
Liên kết với lời Chúa Giêsu nói với bà Berthe về việc đền tạ Thánh Tâm Chúa và Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Maria, chúng tôi sơ lược lại việc Rước Lễ Tận Hiến Đền Tạ Thánh Tâm Chúa chín thứ Sáu đầu tháng mà Chúa đã dạy thánh Mary Margarette Alacoque. Việc đền tạ Thánh Tâm Chúa các thứ Sáu đầu tháng rất phổ biến và thịnh hành khắp thế giới.
Sau đây là lời Chúa Giêsu nói với thánh nữ Mary Margarette Alacoque về Mười Hai Điều Trái Tim Cực Thánh Chúa hứa cho những ai xưng tội rước Lễ tận hiến đền tạ Thánh Tâm Chúa Giêsu chín thứ Sáu đầu tháng liên tiếp:
"1. Cha sẽ ban mọi ơn lành cần thiết cho cuộc sống của những người đó.
2. Cha sẽ ban hòa bình trong gia đình họ.
3. Cha sẽ an ủi họ trong mọi cơn bối rối gian nguy.
4. Những người đó sẽ tìm được nơi Thánh Tâm Cha chốn nương náuvững chắc an toàn trong suốt cuộc sống và nhất là trong giời lâm chung (giờ chết).
5. Cha sẽ đổ tràn đầy ân sủng trên mọi việc những người đó làm.

6. Những kẻ tội lỗi sẽ tìm thấy trong Thánh Tâm Cha biển nguồn thương xót vô tận.


7. Những linh hồn khô khan sẽ trở nên sốt sắng.
8. Những linh hồn sốt sắng sẽ mau chóng tiến tới trọn lành.
9. Cha sẽ chúc lành cho các gia đình nơi ảnh Thánh Tâm Cha được trưng bày và tôn kính.
10. Cha sẽ ban cho các linh mục sức mạnh đánh động những tâm hồn chai đá nhất.
11. Cha sẽ viết tên những ai truyền bá việc sùng kính này nơi Thánh Tâm Cha, và những tên đó sẽ không khi nào bị xóa.
12. Tình yêu toàn năng của Thánh Tâm Cha sẽ ban cho tất cả những ai rước Lễ chín Thứ Sáu đầu tháng liên tiếp ơn thống hối trong giờ lâm chung; những người này sẽ không chết trong khi mất lòng Cha; cũng không chết mà không được lãnh các Phép Bí Tích; Thánh Tâm Cha sẽ là nơi nương náu an toàn bảo đảm cho những người này trong giờ phút cuối cùng cuộc đời họ."
Thánh Magarita nói tiếp:
"... và Chúa cho con thấy Chúa hết sức khao khát được mọi người yêu mến, Chúa khao khát lôi kéo người ta ra khỏi đường lối diệt vong mà Satan xô đẩy biết bao người vào đó. Tình yêu khao khát của Thánh Tâm Chúa thúc đẩy Chúa tỏ ra cho mọi người thấy Thánh Tâm Chúa chứa đựng mọi kho tàng yêu mến, xót thương, ân sủng, thánh hóa và cứu độ, để những ai ao ước tận hiến cho Chúa, hết lòng làm vinh danh Chúa và làm cho nhiều người yêu mến Chúa, được tràn đầy mọi kho tàng thánh thiện mà Thánh Tâm Chúa là nguồn mạch. Chúa phải được tôn thờ dưới hình ảnh Thánh Tâm, và ảnh Thánh Tâm phải được trưng bày tôn kính cách đặc biệt, Chúa sẽ tuôn đổ tràn đầy thánh sủng và ân huệ. Việc tận hiến này là nỗ lực sau cùng của lòng yêu thương Chúa ban cho nhân loại trong thời đại sau cùng này để kéo nhân loại ra khỏi bạo quyền của Satan mà Chúa muốn tận diệt, và do đó đưa nhân loại vào cuộc sống tự do ngọt ngào của tình Chúa yêu thương ngự trị mà Chúa muốn bồi đắp trong tâm hồn những ai yêu mến việc tận hiến này."
Sơ lược về thánh Mary Margarette Alacoque:
Thánh Mary Margarette Alacoque sinh ngày 22 tháng 7 năm 1647 tại l'Hautecour, Burgundy, Pháp. Khi thánh nữ tám tuổi, cha của thánh nữ qua đời và gia đình gởi thánh nữ vào trường các nữ tu dòng thánh Clara Khó Nghèo tại Charolles. Thánh nữ bị bịnh đau khớp xương làm cho liệt suốt năm năm cho tới tuổi mười lăm. Thánh nữ sớm yêu mến Phép Thánh Thể. Thánh nữ từ chối hôn nhân và năm 1671 nhập nữ tu viện Thăm Viếng tại Paray le Monial và tuyên khấn một năm sau đó. Khi thánh nữ hai mươi tuổi, Chúa Giêsu bắt đầu hiện ra với thánh nữ. Từ ngày 27 tháng 12 năm 1673 và liên tiếp một năm rưỡi, thánh nữ được Chúa mạc khải cho nhiều điều. Trong các mạc khải này Chúa cho thánh nữ biết thánh nữ được Chúa chọn làm dụng cụ truyền bá lòng tôn sùng Thánh Tâm Chúa, chỉ dạy thánh nữ những điều liên quan đến việc Đền Tạ Thánh Tâm Chúa chín Thứ Sáu đầu tháng và Giờ Thánh, và yêu cầu Giáo Hội lập Lễ Thánh Tâm Chúa.
Bị bề trên, Mẹ de Saumaise, từ chối khi theo đuổi các chỉ dẫn mà thánh nữ nhận được trong các thị kiến, sau cùng thánh nữ thuyết phục được Mẹ Bề Trên, nhưng không thuyết phục được nhóm các nhà thần học về tính cách xác thực của những lần Chúa hiện ra, cũng không đạt được sự tin tưởng của các chị em trong dòng. Thánh nữ được thánh Claud la Colombière, cha giải tội của nhà dòng trong một thời gian, ngài tuyên bố các lần Chúa hiện ra là đích thực. Năm 1683, việc chống đối chấm dứt khi Mẹ Melin được cử làm bề trên và cử thánh nữ Mary Margarette làm phụ tá. Về sau thánh nữ giữ chức giáo tập. Từ năm 1686, riêng nhà dòng bắt đầu mừng lễ Thánh Tâm Chúa. Hai năm sau một nguyện đường được xây dựng để tôn kính Thánh Tâm Chúa được xây dựng tại Paray le Monial. Việc tôn thờ Thánh Tâm Chúa đã sớm được thể hiện tại nhiều tu viện khác của dòng Thăm Viếng.
Thánh Mary Margarette Alacoque từ trần tại Paray le Monial ngày 17 tháng 10 năm 1690 và được phong hiển thánh năm 1920. Thánh Mary Margarette Alacoque, thánh Gioan Eudes, thánh Claud La Colombière được xưng tụng là "các thánh của Thánh Tâm Chúa". Năm 1675, Đức Thánh Cha Clement XIII chính thức nhìn nhận việc tôn thờ Thánh Tâm Chúa trong Giáo Hội.
**
Xin coi mạc khải về Đền Tạ Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Đức Mẹ 5 thứ Bảy đầu tháng trong phần Đức Mẹ hiện ra tại Fatima, và "Kết Hợp với Mẹ con cầu nguyện Kinh Mân Côi" do Ngưỡng Nhân Lưu Ấu Nhi góp nhặt.
-------------------------

Câu chuyện 17
ĐỨC MẸ HIỆN RA TẠI FATIMA, BỒ ĐÀO NHA, NĂM 1917
Những thập niên cuối thế kỷ 19 và hai thập niên đầu thế kỷ 20 là thời kỳ đen tối và cũng đặc biệt nhất trong lịch sử quốc gia và dân tộc Bồ Đào Nha. Quốc gia này vốn theo thể chế quân chủ và hầu như toàn tòng Công Giáo, cho tới những năm 1890-1899 và thập kỷ đầu thế kỷ 20, Bồ Đào Nha là một quốc gia quân chủ và mộ đạo gắn liền với Giáo Hội Công Giáo. Thống kê nói vào thời gian này có lúc cứ 9 người thì 2 người là linh mục hoặc tu sĩ.
Từ những năm cuối thế kỷ 19, các lực lượng chống hoàng gia và giáo hội bắt đầu thành hình. Năm 1900, các lực lượng này kết hợp với nhau trong chủ trương "vị vua cuối cùng sẽ bị treo cổ cùng với ruột gan của vị linh mục cuối cùng." Năm 1908, vua Charles I và hoàng thái tử bị ám sát. Năm 1910 vua Manuel I trốn sang Anh Quốc, và chính thể cộng hòa cách mạnh cầm quyền. Chính quyền này theo chủ trương Marxist, vô thần, xã hội, tự do tư tưởng. Chính quyền mới đã cai trị dựa trên căn bản khủng bố tàn bạo và gây sợ hãi.
Thống kê cho thấy trong các năm 1911-1916, ít nhất 17 ngàn linh mục, tu sĩ nam nữ bị giết, hoặc riêng rẽ hoặc tập thể. Đôi khi ruột gan và đầu của người bị giết bị treo vào cây sào đem riễu ngoài đường phố để khủng bố tinh thần các linh mục, tu sĩ, còn sót lại. Tất cả các thánh đường đều bị đóng cửa hoặc tiêu hủy. Không một ai dám đi dự Thánh Lễ, cả kinh Mân Côi cũng không dám cầu nguyện công khai. Ảnh tượng Chúa, Đức Mẹ và các thánh bị chà đạp giữa đường phố. Sự sợ hãi thống trị - và tôn giáo như đã chết. Trong khi đó Thế Chiến I, một trong những đại ác họa của nhân loại, xảy ra tại Âu Châu.
THIÊN THẦN DỌN ĐƯỜNG
Năm 1915, Lucia dos Santos, một cô bé mập mạp, 8 tuổi, thuộc xóm Aljustrel, giáo sứ Fatima, cùng với hai chị em cô Maria Rosa và Teresa Matias và cô Maria Justino thuộc xóm Velha, đang chăn cừu tại núi Cabeco. Ăn trưa xong, bốn cô đọc kinh Mân Côi theo truyền thống yêu mến Đức Mẹ tại miền Fatima. Chính lúc đó các cô thấy một bóng người trắng hơn tuyết bay là là trên ngọn cây trong thung lũng phía dưới chân các cô. Riêng Lucia thấy bóng dáng này ba lần, nhưng không biết là gì.
Đến năm 1916, bóng trắng này chính là thiên thần ba lần hiện ra với Lucia, và hai em họ là Jacinta và Francisco Marto. Lần thứ nhất khi ba chị em đang chăn cừu cho gia đình tại Chousa Velha. Thiên thần hiện ra với các em trong hang đá nơi các em ăn trưa và đọc kinh Mân Côi xong. Thiên thần nói với các em:
"Các bé đừng sợ. Tôi là Thiên Thần Hòa Bình. Mời các bé cầu nguyện chung với tôi."
Nói xong, thiên thần quì sấp mình tới khi trán chạm đất. Các bé cũng bắt chước thiên thần trong tư thế phủ phục đó. Khi đó thiên thần dâng lời nguyện:
"Lạy Thiên Chúa, con tin, con thờ lạy, con trông cậy, và con yêu mến Chúa. Con tha thiết xin Chúa tha thứ cho những kẻ không tin, không thờ lạy, không cậy trông, và không yêu mến Chúa."
Sau khi dâng ba lần lời nguyện này, thiên thần nói với các bé:
"Các bé hãy cầu nguyện như vậy. Thánh Tâm Chúa Giêsu và Đức Mẹ Maria lắng nghe lời các bé cầu nguyện."
Thiên thần hiện ra lần thứ hai với các bé tại núi Cabeco, trên đường các bé dẫn đàn cừu về nhà khoảng 9 hoặc 10 giờ sáng vì trời quá nóng. Thiên thần hỏi:
"Các bé đang làm gì thế? Các bé hãy cầu nguyện, cầu nguyện thiệt nhiều! Thánh Tâm Chúa Giêsu và Đức Maria yêu thương các bé. Các bé hãy liên tục dâng lời cầu nguyện và hy sinh lên Thiên Chúa Tối Cao."
Lucia hỏi: "Làm cách nào chúng con dâng được các hy sinh?"
Thiên thần đáp: "Các bé hy sinh trong bất cứ điều gì có thể, và dâng lên Thiên Chúa làm của lễ đền tạ vì tội lỗi xúc phạm đến Thiên Chúa và làm của lễ cầu xin cho người tội lỗi ăn năn trở lại. Bằng cách này, các bé xin được hòa bình cho quê hương các bé. Tôi là Thiên Thần bảo vệ, Thiên Thần của nước Bồ Đào Nha. Trên hết, các bé hãy tiếp nhận và vâng chịu những đau khổ Chúa sẽ gởi đến cho các bé."
Thiên thần hiện ra lần thứ ba vào mùa thu năm 1916. Cũng chính tại hốc đá núi Cabeco, ba chị em mục tử đọc kinh Mân Côi và lời cầu nguyện Thiên Thần dạy xong. Thiên thần hiện ra, trong tay cầm Chén Thánh, và trên Chén Thánh, Thiên Thần cầm Bánh Thánh. Từ Bánh Thánh những Giọt Máu chảy vào trong Chén Thánh. Để Chén Thánh và Bánh Thánh trên không trung, Thiên Thần quì sấp mình xuống đất, đọc ba lần lời cầu nguyện sau đây:
"Lạy Thiên Chúa Ba Ngôi Cực Thánh, Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Linh, con thờ lạy Chúa thẳm sâu và dâng lên Chúa Thân Xác, Máu và Linh Hồn Cực Châu Báu và Thiên Tính của Chúa Giêsu Kitô, hiện diện trong các Nhà Chầu trên khắp thế giới, để đền tạ những tội xúc phạm, những tội bất kính và hững hờ chính Chúa Giêsu Kitô phải chịu. Nhờ công nghiệp vô cùng Trái Tim Cực Thánh Chúa Giêsu và công nghiệp vô cùng Đức Maria, con nài xin Chúa thánh hóa các người tội lỗi khốn nạn."
Thiên Thần đứng dậy, cầm Chén Thánh và Bánh Thánh, đặt Bánh Thánh vào lưỡi Lucia. Thiên Thần cho Jacinta và Francisco uống Máu Thánh. Khi phân phát Mình và Máu Thánh Chúa cho ba bé, Thiên Thần nói:
"Các em hãy ăn Mình và uống Máu Thánh Chúa Giêsu Kitô bị loài người xúc phạm kinh khủng. Các bé hãy làm việc đền tạ vì tội lỗi nhân loại và an ủi Thiên Chúa của các bé."
Thiên Thần lại sấp mình xuống đất đọc chung với các bé ba lần lời nguyện: "Lạy Thiên Chúa Ba Ngôi Cực Thánh ..." Sau đó Thiên Thần biến đi.
ĐỨC MẸ HIỆN RA LẦN THỨ NHẤT
Chúa Nhật, 13 tháng 5, 1917, sau khi đọc kinh Mân Côi, ba chị em Lucia, Jacinta và Francisco, đang chơi vui ở sườn đồi Cova da Iria, Fatima, bất chợp các bé thấy làn ánh sáng lạ như chớp. Ba chị em bàn nhau gom cừu định dẫn về vì sợ bão. Khi gần tới cây sồi lớn, các bé thấy một làn chớp sáng hơn nữa từ cây sồi phát ra. Lucia, Jacinta và Francisco dừng chân nhìn lên và thấy một Vị Phụ Nữ xinh đẹp đứng trên đỉnh cây sồi. Người nói: "Các con đừng sợ. Mẹ không làm hại các con đâu."
Các bé lặng lẽ ngây ngất chiêm ngưỡng Đấng Hiện Ra.
Sau một lúc chiêm ngưỡng say sưa, Lucia mạnh dạn hỏi: "Thưa Bà, Bà từ đâu tới?"
Vị Phụ Nữ từ ái trả lời: "Mẹ từ thiên đàng đến."
Cô bé hỏi tiếp: "Và Bà muốn chúng con làm gì?"
Người đáp: "Mẹ đến xin cả ba các con đến đây sáu tháng liên tiếp, vào ngày 13 mỗi tháng, cũng giờ này. Khi đó Mẹ sẽ cho các con biết Mẹ là Ai, và Mẹ muốn điều gì. Sau đó Mẹ sẽ trở lại đây lần thứ bảy."
Được khích lệ, Lucia hỏi thêm: "Con có được lên thiên đàng không?"
"Có, con sẽ được lên thiên đàng."
"Còn Jacinta?"
"Có."
"Còn Francisco?"
"Nó cũng được lên thiên đàng, nhưng nó phải đọc rất nhiều kinh Mân Côi."
Lucia hỏi về người bạn mới qua đời: "Chị Maria das Neves có ở trên thiên đàng không?"
"Có."
"Còn Amelia?"
"Cô đó sẽ phải ở luyện ngục cho tới tận thế."
Sau khi trả lời các câu hỏi của Lucia, Đức Mẹ đưa ra lời yêu cầu quan trọng: "Các con có vui lòng tận hiến cho Thiên Chúa và chịu các đau khổ Chúa muốn gởi đến cho các con, để đền tạ tội lỗi xúc phạm đến Thiên Chúa và van xin cho các kẻ tội lỗi ăn năn trở lại không?"
Lucia thấy lời yêu cầu này tương tự lời yêu cầu của Thiên Thần lúc trước, và tin rằng hai em họ cũng đồng ý, cô đáp: "Thưa Bà, chúng con vui lòng."
Các bé xúc động, và quì xuống sốt sắng dâng lời nguyện thiên thần dạy:
"Lạy Thiên Chúa Ba Ngôi Cực Thánh, con thờ lạy Chúa. Lạy Chúa, con yêu mến Chúa trong Phép Thánh Thể."
Lúc sau, Đức Mẹ nói: "Các con hãy đọc kinh Mân Côi hàng ngày để xin hòa bình và chấm dứt chiến tranh."
Tới đây Đức Mẹ biến đi.
ĐỨC MẸ HIỆN RA LẦN THỨ HAI
Ngày 13 tháng 6, 1917, Lucia, Jacinta và Francisco không dẫn đàn cừu đi chăn, mà lên đồi Cova da Iria với nhiều người đi theo. Mọi người đọc kinh Mân Côi, nhưng lâu quá không thấy Đức Mẹ tới. Mọi người chia trí, các bé cũng đứng lên một lúc. Lucia lại yêu cầu mọi người cầu nguyện kinh Mân Côi, khi người ta muốn đọc kinh cầu, Lucia nói: "không đủ giờ đọc kinh cầu đâu." Ngay sau đó Lucia mừng rỡ reo lên: "Jacinta à, kìa Đức Mẹ tới ! Tia sáng vừa mới lóe lên." Lập tức người ta thấy ba bé trong tình trạng xuất thần.
Sau một lúc im lặng chiêm ngưỡng, Lucia hỏi: "Thưa Bà, Bà muốn con làm gì?"
Đức Mẹ nói: "Mẹ muốn các con đến đây ngày 13 tháng tới, và Mẹ muốn các con đọc kinh Mân Côi hàng ngày."
Sau đó Đức Mẹ vui vẻ nói: "Mẹ muốn các con học chữ. Rồi Mẹ sẽ nói cho các con biết Mẹ muốn gì."
Nhớ đến những ơn người ta nhờ Lucia chuyển lên Đức Mẹ, cô nói: "Có một người tật nguyền xin Đức Mẹ chữa anh ta."
Đức Mẹ đáp: "Con hãy nói cho anh ấy biết nếu anh ta ăn năn thống hối, anh ta sẽ được chữa lành trong vòng một năm."
Lucia sung sướng vì được Đức Mẹ nhận lời, đã xin: "Con muốn xin Đức Mẹ đưa chúng con về thiên đàng."
Đức Mẹ trả lời: "Được, chẳng bao lâu nữa Mẹ sẽ đưa Jacinta và Francisco về thiên đàng, nhưng con phải ở lại thế gian lâu hơn. Chúa Giêsu muốn dùng con làm cho thế giới biết và kính yêu Mẹ. Chúa Giêsu muốn thiết lập trên khắp thế giới việc kính yêu Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ. Mẹ hứa ban ơn rỗi linh hồn. Những linh hồn này sẽ được Thiên Chúa yêu thương như những bông hoa Mẹ trang hoàng Thánh Ngai Thiên Chúa."
"Con sẽ phải ở lại thế gian lâu hơn" như lưỡi kiếm xuyên thấu trái tim thơ ngây của Lucia.
Cô bé hỏi: "Con phải ở lại thế gian này một mình sao?"
Đức Mẹ trả lời: "Không, con à. Có phải điều này làm cho con đau khổ lắm không? Con đừng nản lòng. Mẹ sẽ không bao giờ bỏ rơi con đâu. Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ sẽ là nơi con náu ẩn và là đường đưa con tới Thiên Chúa."
Khi nói lời này, Đức Mẹ mở rộng hai bàn tay và ánh sáng từ bàn tay Đức Mẹ tỏa ra bao bọc các bé.
Mải mê chiêm ngưỡng Đức Mẹ, các bé thấy Người đưa chuỗi tràng hạt ra như thể nài nỉ các bé nhận và ấp xâu chuỗi vào trái tim. Kế đó các bé bị thu hút bởi Trái Tim bị những mũi gai lớn đâm thấu mọi phía. Các bé hiểu rằng đang chiêm ngưỡng Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Maria bị xúc phạm vì tội lỗi loài người, và Trái Tim này mong được đền tạ.
Đến đây, Đức Mẹ biến đi. Lucia kêu lên: "Nhìn kìa, Nếu các ông bà muốn thấy Đức Mẹ. Người ra đi kia kìa! Đức Mẹ đi kia kìa!"
ĐỨC MẸ HIỆN RA LẦN THỨ BA
HỎA NGỤC, CHIẾN TRANH VÀ TRÁI TIM VÔ NHIỄM NGUYÊN TỘI MẸ MARIA
Ngày 13 tháng 7, 1917, Lucia, Jacinta và Francisco có rất nhiều người cùng đi lên đồi Cova da Iria. Tới nơi, Lucia xướng và mọi người đáp kinh Mân Côi. Đọc kinh xong, Lucia đứng lên, nhìn về hướng đông, từ đó Đức Mẹ thường đi tới. Lập tức Lucia la lên bảo mọi người đang dùng dù che nắng giữa trưa: "Xin các ông bà gấp dù lại! Các ông bà hãy gấp dù lại! Đức Mẹ đã tới rồi đó!"

Các bé vui sướng chiêm ngưỡng Đức Mẹ. Lúc sau, Lucia hỏi Đức Mẹ: "Thưa Đức Mẹ, hôm nay Đức Mẹ muốn chúng con làm gì?"


"Mẹ muốn các con trở lại đây ngày 13 tháng tới và tiếp tục đọc kinh Mân Côi hàng này dâng kính Đức Mẹ Mân Côi, để xin được hòa bình cho thế giới và chấm dứt chiến tranh, vì chỉ một mình Mẹ mới cứu giúp được các con."
Lucia nói tiếp: "Thưa Bà, con muốn xin Bà cho chúng con biết Bà là Ai. Và xin Bà làm phép lạ để mọi nguời tin Bà đã hiện ra với chúng con."
Vắn tắt Đức Mẹ loan báo quyết định của Người: "Các con hãy tiếp tục đến đây mỗi tháng. Đến tháng 10, Mẹ sẽ nói cho các con biết Mẹ là Ai và Mẹ muốn gì. Và Mẹ sẽ làm một phép lạ mọi người đều thấy và phải tin."
Lucia xin Đức Mẹ chữa lành một số người, và Đức Mẹ hứa chữa cho một số nếu những người đó đọc kinh Mân Côi.
Sau đó Đức Mẹ nói: "Các con hãy hy sinh bản thân các con cho các kẻ tội lỗi, và năng nhắc lại, nhất là sau mỗi lần các con làm việc hy sinh cho kẻ tội lỗi: 'Lạy Chúa Giêsu, chính vì lòng yêu mến Chúa, xin cho các kẻ tội lỗi ăn năn thống hối, và để đền tạ những tội lỗi xúc phạm đến Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Maria'."
Khi nói những lời này, Đức Mẹ mở rộng hai bàn tay như dáng điệu của linh mục khi chúc: "Chúa ở cùng anh chị em" trong Thánh Lễ. Lập tức Lucia kêu lên kinh sợ. Chỉ những người ở gần các bé nhất nghe được tiếng kêu này. Nhưng tất cả những người có thể nhìn được mặt các bé đều thấy rõ thình lình sắc diện các bé biểu lộ vẻ kinh hoàng và đau khổ. Vì khi Đức Mẹ mở hai bàn tay ra, những tia sáng phản chiếu từ tay Đức Mẹ như xuyên qua trái đất, và hỏa ngục mở ra trước cặp mắt kinh hoàng của các bé. Rúng động toàn thân, các bé ngước mắt lên cầu khẩn. Bằng giọng hết sức nhân từ xót thương Đức Mẹ nói:
"Các con đã nhìn thấy hỏa ngục, nơi linh hồn những kẻ tội lỗi phải tới. Để cứu các linh hồn đó, Thiên Chúa muốn thiết lập khắp thế giới việc sùng kính Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ.
“Nếu nhân loại thi hành điều Mẹ dạy, nhiều linh hồn sẽ được cứu vớt và sẽ có hòa bình.
"Chiến tranh này sắp chấm dứt, nhưng nếu loài người không thôi xúc phạm đến Thiên Chúa, một chiến tranh khốc liệt hơn sẽ bùng nổ trong triều đại Đức Thánh Cha Piô XI. Khi nào các con thấy một đêm bừng sáng do làn ánh sáng lạ, các con biết đó là dấu Thiên Chúa cho biết Người sắp phạt thế giới vì tội ác của nhân loại bằng chiến tranh, đói khát, bắt bớ Giáo Hội và Đức Thánh Cha.
"Để ngăn cản điều này, Mẹ đến yêu cầu dâng hiến nước Nga cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ, và rước Lễ đền tạ các ngày thứ Bảy đầu tháng.
"Nếu người ta tuân theo những lời Mẹ yêu cầu, nước Nga sẽ trở lại và sẽ có hòa bình. Nếu không, nước Nga sẽ gieo rắc tai ương khắp thế giới, xúi giục chiến tranh, đàn áp Giáo Hội, những người lành sẽ tử đạo, Đức Thánh Cha sẽ phải đau khổ nhiều, nhiều quốc gia sẽ bị xóa trên bản đồ.
"Sau cùng, Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ sẽ vinh thắng. Đức Thánh Cha sẽ dâng nước Nga cho Mẹ và nước đó sẽ trở lại, và một thời gian hòa bình sẽ được ban cho thế giới.
"Ở Bồ Đào Nha, đức tin sẽ mãi mãi được duy trì."
Vì những lý do không tiết lộ, Đức Mẹ muốn thị kiến về hỏa ngục và lời tiên tri khủng khiếp về tai họa của thế giới phải được giữ kín. Đức Mẹ bảo các bé: "Các con đừng nói điều này với bất cứ ai. Tuy nhiên các con có thế nói cho Francisco biết" (Francisco được thấy Đức Mẹ, nhưng không nghe được các lời Đức Mẹ nói).
Ngưng một lúc, Đức Mẹ nói tiếp: "Khi các con đọc kinh Mân Côi, sau mỗi mầu nhiệm, các con hãy dâng lời nguyện:
'Lạy Chúa Giêsu, xin tha thứ tội lỗi chúng con, xin cứu chúng con khỏi hỏa ngục, xin hướng dẫn mọi linh hồn lên thiên đàng, nhất là những linh hồn cần đến lòng Chúa thương xót hơn'."
ĐỨC MẸ HIỆN RA LẦN THỨ BỐN

KHÔNG VÀO NGÀY 13 THÁNG 8, MÀ 18 THÁNG 8, 1917


Ngày 13 tháng 8, 1917, khu đồi Cova da Ira đông đầy người chờ đợi các bé được thị kiến đến đón Đức Mẹ hiện ra. Nhưng đã quá trưa không thấy bóng dáng các bé đâu, mọi người nóng lòng trao đổi những nghi vấn về việc xảy ra cho các bé. Các bé không đến Cova da Iria được vì bị viên thị trưởng xí gạt bắt cóc đem đi mất. Tại tòa thị chính, các em bị phỉnh gạt, hăm dọa bỏ vào chảo dầu sôi, nạt nộ đủ cách, bị nhốt qua đêm trong nhà giam cùng với các phạm nhân, nhưng rồi sau cùng, viên thị trưởng vốn là người vô thần chịu đầu hàng và ngày hôm sau tha các em.
Bốn ngày sau khi các em được trở về, ngày 18 tháng 8, 1917, lúc khoảng 4 giờ chiều, người ta thấy nhiệt độ thình lình giảm xuống, đồng thời mặt trời nhuộm cả vùng quê và mọi vật bằng nhiều mầu sắc khác nhau như đã xảy ra tại Cova da Iria hôm 13 tháng này. Đức Mẹ hiện ra với các em trên cây sồi tại Os Valinhos, một đồng cỏ ỡ giữa Aljustrel và Núi Cabeco.
Sau khi ngây ngất vì những yêu kiều diễm lệ của Đức Mẹ, Lucia hỏi: "Thưa Đức Mẹ, Đức Mẹ muốn con làm gì?"
Đức Mẹ đáp: "Mẹ muốn các con tiếp tục đến Cova da Iria ngày 13 mỗi tháng và tiếp tục đọc kinh Mân Côi hàng ngày. Đến tháng chót, Mẹ sẽ làm phép lạ để mọi người phải tin. Tiếc thay, nếu người ta không đem các con tới thị trấn, hẳn phép lạ còn vĩ đại hơn."
Đức Mẹ chấm dứt phần thông điệp bằng giọng vui vẻ nói: "Chúa Hài Đồng Giêsu sẽ cùng với thánh Giuse đến ban phép lành cho thế giới, và Thiên Chúa sẽ ban hòa bình cho thế giới."
Lúc đó Lucia nhớ bà Maria Cerreira đã bảo cô hỏi Đức Mẹ về số tiền người ta dâng cúng mà bà đang giữ, cô bé hỏi: "Phải làm gì với số tiền người ta để lại dâng cúng tại Cova da Iria?"
Đức Mẹ đáp: "Sẽ làm hai chiếc kiệu mừng Lễ Đức Mẹ Mân Côi. Con và Jacinta với hai cô gái khác, mặc áo trắng, khiêng một kiệu, Francisco và ba bé trai khác khiêng chiếc kia. Số tiền trên hai chiếc kiệu đó sẽ phải dùng để mừng Lễ Đức Mẹ Mân Côi."
Lucia dâng lên lời cầu khẩn người ta nhờ bé chuyển lên Đức Mẹ: "Nhiều người bệnh hoạn nhờ con xin Đức Mẹ chữa họ."
"Được, Mẹ sẽ chữa lành một số người trong vòng một năm."
Đức Mẹ nói tiếp mà nét mặt Người rất buồn: "Các con hãy cầu nguyện, hãy cầu nguyện thiệt nhiều, và các con hãy dâng hy sinh cho các kẻ tội lỗi, nhiều linh hồn sa hỏa ngục chỉ vì không có ai dâng hy sinh và cầu nguyện cho."
ĐỨC MẸ HIỆN RA NGÀY 13 THÁNG 9, 1917
Có tới ba mươi ngàn người từ rất xa đến cùng với những người ở gần, ở địa phương, đón Đức Mẹ hiện ra tại Cova da Iria ngày 13 tháng 9, 1917. Trong số này không thiếu những nhân viên chìm của chính quyền, và người vô thần. Giáo quyền cũng quan tâm theo dõi.
Giờ ngọ (12 giờ trưa) điểm, mặt trời trong vắt chói chang trên nền trời. Tiếng chuông báo kinh Truyền Tin vọng lên từ tháp chuông thánh đường Anthony. Mọi người theo dõi, mặt trời dịu dần, mờ đi tới độ nhìn thấy những ngôi sao. Bất chợt Lucia ngưng đọc kinh, mặt rạng rỡ, cô reo lên: "Kìa, Đức Mẹ đó! Tôi thấy Đức Mẹ!"
Nhiều người nhìn thấy bầu ánh sáng trắng di chuyển từ hướng Đông đi tới và ngưng lại trên cây sồi.
Trong khi mọi người chứng kiến những thay đổi ánh sáng của mặt trời, các em đắm chìm trong thị kiến Đức Mẹ. Sau một lúc chiêm ngắm, Lucia hỏi: "Đức Mẹ muốn chúng con làm gì?"
Đức Mẹ đáp: "Các con hãy tiếp tục cầu nguyện kinh Mân Côi để xin chấm dứt chiến tranh. Đến tháng 10, Thiên Chúa sẽ hiện ra, Đức Mẹ Bảy Sự (Đức Mẹ Sầu Bi) và Đức Mẹ Núi Carmel cũng sẽ hiện ra. Thánh Giuse cùng với Chúa Hài Đồng sẽ đến ban phép lành cho thế giới."
Đến đây Đức Mẹ ngưng nói, nét mặt bớt uy nghiêm và bằng giọng hết sức dịu dàng, Đức Mẹ nói tiếp: "Thiên Chúa hài lòng với những hy sinh các con dâng, nhưng Chúa không muốn các con ngủ với thắt lưng vải đó. Các con chỉ mang thắt lưng đó ban ngày thôi."
(Ba em tự sáng chế và mang thắt lưng bằng vải cứng đâm vào da để dâng hy sinh cầu nguyện cho kẻ tội lỗi như Đức Mẹ dạy các em).
Kế đó, Lucia nói với Đức Mẹ: "Người ta nhờ con xin Đức Mẹ nhiều điều, một người câm điếc xin được chữa lành, những ơn xin ăn năn thống hối ... và những ơn xin chữa lành mọi thứ bệnh tật."
Đức Mẹ trả lời: "Mẹ sẽ chữa một số, nhưng không phải tất cả, trong vòng một năm."
Nhớ lại lời bà Maria Carreira và một số người ngoan đạo khác mong muốn một nhà nguyện được kiến thiết ngay tại chính nơi Đức Mẹ hiện ra, và nhờ Lucia hỏi Đức Mẹ có cho phép dùng một phần tiền dâng cúng tại Cova da Iria vào mục đích này không. Lucia hỏi: "Đức Mẹ có muốn một nhà nguyện nhỏ được kiến thiết tại chính nơi này với số tiền người ta để lại dâng cúng không?"
Đức Mẹ đáp: "Có, Mẹ muốn một nhà nguyện nhỏ được xây cất ngay tại chỗ này để dâng kính Đức Mẹ Mân Côi. Nhưng con nói với người ta chỉ dùng một nửa số tiền vào việc xây nhà nguyện thôi. Nửa số tiền con lại sẽ dùng vào việc tôn kính và mừng lễ Đức Mẹ Mân Côi. Hai cỗ kiệu được mua bằng số tiền dâng cúng, phần còn lại được khiêng trên hai kiệu tới nhà thờ giáo xứ trong ngày lễ Đức Mẹ Mân Côi. Con và Jacinta với hai bé gái khác kiệu một cỗ; Francisco và ba bé trai khác khiêng chiếc kia."
Đức Mẹ biến đi sau khi hứa ban phép lạ cả thể vào ngày 13 tháng 10, 1917.
ĐỨC MẸ HIỆN RA NGÀY 13 THÁNG 10, 1917

PHÉP LẠ MẶT TRỜI VŨ


Ngày 13 tháng 10, 1917, trời mưa như trút, nhưng người ta đoàn đoàn lũ lũ từ muôn phương xa xôi đã bằng mọi phương tiện đến Cova da Iria, nhiều người đến từ hôm trước. Lucia, Jacinta và Francisco phải được nhiều người lớn hộ tống mới đến được nơi cây sồi. Quá giờ ngọ (giờ chính quyền), nhưng chưa thấy dấu hiệu Đức Mẹ hiện ra, nhiều người trong đó có cả một linh mục, vốn hoài nghi, cố lôi các em ra khỏi chỗ các em đang chờ đón Đức Mẹ. Lucia và hai em kiên trì, cưỡng lại mọi sức xô đẩy.
Chỉ ít phút sau đó, Lucia ngẩng đầu lên để tiếng nói vọng đi xa: "Xin im lặng! Xin mọi người im lặng! Đức Mẹ đang đến! Chúng tôi vừa mới thấy làn chớp sáng của Người." Bây giờ mới đúng là giờ ngọ theo mặt trời.
Lucia, Jacinta và Francisco, lúc này hoàn toàn đắm mình trong Đức Mẹ sáng chói, hôm nay Đức Mẹ rực rỡ hơn những lần trước. Đức Mẹ sáng chói đến độ những tia sáng từ Đức Mẹ tỏa ra, dù không làm hư mắt các bé, cũng khiến các bé hấp háy lim dim mắt. Ngoại trừ ánh sáng rực rỡ hơn, Đức Mẹ vẫn y hệt những lần hiện ra trước. Đức Mẹ cũng mặc chiếc áo ánh sáng trắng đó, tay Người cũng chắp lại và xâu chuỗi đeo giữa hai bàn tay vòng qua lưng bàn tay phải, vẻ diễm kiều của Người vẫn y như vậy. Lucia quá ngây ngất quên cả nói, Jacinta thúc cùi chỏ (khuỷu tay) vào Lucia và nói: "Lucia, chị nói với Đức Mẹ đi chứ! Đức Mẹ đang chờ đợi đó!"
Bừng tỉnh, Lucia nói với Vị Khách từ thiên đàng: "Thưa Đức Mẹ, Đức Mẹ muốn chúng con làm gì?"
Đức Mẹ nói: "Mẹ muốn một nhà nguyện được xây cất tại chính chỗ này để dâng kính ĐỨC MẸ MÂN CÔI. Các con hãy tiếp tục đọc kinh Mân Côi hàng ngày. Chiến tranh này sắp chấm dứt và các binh sĩ sẽ hồi hương."
Vì Đức Mẹ đã hứa hôm nay Người sẽ cho biết Người là Ai, Lucia hỏi: "Xin Bà vui lòng cho chúng con biết tên của Bà."
Đức Mẹ trả lời: "Mẹ là ĐỨC MẸ MÂN CÔI."
Nhớ đến vô số lời khấn nguyện người ta nhờ cô dâng lên, Lucia nói: "Con có nhiều ơn muốn xin, nhiều người xin ơn lành bệnh và thống hối ăn năn."
Đức Mẹ trả lời: "Mẹ sẽ ban một số ơn xin, nhưng không phải tất cả. Những người đó phải cải đổi đời sống và xin tha thứ tội lỗi của họ."
Rồi với nét mặt hết sức buồn sầu làm các bé xúc động, Đức Mẹ nói thêm: "Người ta không được xúc phạm đến Thiên Chúa thêm nữa, vì Thiên Chúa đã bị xúc phạm quá nhiều rồi."
Sau khi nói lời cuối cùng này, Đức Mẹ ra đi, quay mình lướt lên từ từ về hướng đông. Lucia nhìn mặt trời và lớn tiếng kêu: "Hãy nhìn mặt trời kìa!" Phép lạ vĩ đại mặt trời vũ bắt đầu.
***

Sơ lược về Lucia, Jacinta và Francisco sau ngày Đức Mẹ hiện ra.


Khi hiện ra lần thứ nhất, ngày 13 tháng 5 năm 1917, Đức Mẹ hứa sớm đưa Francisco và Jacinta về thiên đàng, Lucia còn phải ở lại để truyền bá việc yêu mến đền tạ Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ.
* Ngày 4 tháng 4 năm 1919, Francisco được Mẹ Maria đưa về thiên đàng qua bệnh phổi.
* Ngày 20 tháng 2 năm 1920, Mẹ đưa Jacinta về thiên đàng cũng qua bệnh phổi.
* Ngày 16 tháng 6 năm 1921, chị Lucia vào nội trú tại nhà dòng các nữ tu dòng thánh Dorothy tại Aliso de Villa. Ngày 2 tháng 10 năm 1925, chị vào nhà tập lấy tên là Irma Maria des Dores (chị Maria Đức Mẹ Sầu Bi). Chị khấn trọn đời ngày 3 tháng 10 năm 1934, và hiện nay (1999) chị vẫn còn sống.
***

Các đoàn hành hương ngày càng đông, và các phép lạ ngày càng nhiều. Ngày 26 tháng 6, 1927, đức giám mục José Correira da Silva chính thức tới thăm Fatima. Ngày 13 tháng 10, 1930, trước hơn một trăm ngàn người hiện diện, đức giám mục đọc văn kiện cảm động kết thúc bằng lời tuyên bố:


"Chúng tôi cho rằng đúng:
1.- Tuyên bố xứng đáng tin tưởng những thị kiến các bé mục tử được thấy tại Cova da Iria, giáo xứ Fatima, thuộc giáo phận chúng tôi, vào những ngày 13 các tháng từ tháng 5 đến tháng 10, năm 1917.
2. Chính thức cho phép việc tôn kính Đức Mẹ tại Fatima.
José, Giám Mục Leiria
Leiria, ngày 13 tháng 10, 1930
ĐỀN TẠ TRÁI TIM MẸ CÁC THỨ BẢY ĐẦU THÁNG và DÂNG HIẾN NƯỚC NGA
Để bổ túc thông điệp về "Rước Lễ đền tạ các ngày thứ Bảy đầu tháng", ngày 10 tháng 12 năm 1925, Mẹ Maria và Chúa Hài Đồng hiện ra với chị Lucia tại nhà dòng ở thành phố TUY, Tây Ban Nha. Đức Mẹ cho chị Lucia thấy Trái Tim Mẹ, và Chúa Hài Đồng buồn rầu nói:
"Con hãy xót thương Trái Tim rất hiền dịu này liên tiếp chịu tử đạo vì sự bội bạc của loài người mà chẳng có ai an ủi bằng việc đền tạ."
Kế đó, Đức Mẹ ban thông điệp chính yếu này:

"Này con của Mẹ, con hãy nhìn Trái Tim Mẹ bị gai nhọn vây quanh, loài người đâm những gai nhọn này vào Trái Tim Mẹ mỗi lần người ta lộng ngôn và bội bạc.


"Ít nhất, con hãy cố gắng an ủi Mẹ. Mẹ hứa ban ơn cứu rỗi, giúp đỡ cần thiết trong giờ cuối cùng của cuộc đời, cho những ai thành tâm đền tạ Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ bằng cách XƯNG TỘI, RƯỚC MÌNH THÁNH CHÚA, CẦU NGUYỆN NĂM CHỤC KINH MÂN CÔI VÀ CÙNG VỚI MẸ SUY GẪM MƯỜI LĂM MẦU NHIỆM MÂN CÔI TRONG MƯỜI LĂM PHÚT, NĂM THỨ BẢY ĐẦU THÁNG LIÊN TIẾP."
Trong một tài liệu đề ngày 21 tháng 9, 1939, đức giám mục giáo phận Leiria giải thích một số điểm về việc đền tạ Trái Tim Mẹ Maria như sau:
"Việc xưng tội có thể được thực hiện trong vòng 8 ngày trước ngày thứ Bảy đầu mỗi tháng, miễn là rước Lễ trong tình trạng có ân nghĩa với Chúa. Nếu một người quên lập tâm đền tạ Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Đức Maria, thì việc lập tâm có thể được lập vào lần xưng tội kế tiếp.
"Việc suy gẫm gồm một hoặc nhiều mầu nhiệm; việc này hiển nhiên bao gồm hết cả mười lăm mầu nhiệm hoặc riêng rẽ từng mầu nhiệm một, tùy theo cá nhân ưa thích hoặc lòng tận hiến; TUY NHIÊN MỖI THÁNG SUY GẪM MỘT MẦU NHIỆM THÌ TỐT HƠN."
Ngày 10 tháng 12, 1929, Đức Mẹ ban cho chị Lucia đầy đủ thông điệp về việc dâng hiến nước Nga cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Đức Mẹ khi chị đang quì chầu Thánh Thể lúc nửa đêm. Đức Mẹ nói:
"Thiên Chúa muốn Đức Thánh Cha kết hợp với toàn thể các giám mục khắp thế giới thi hành việc dâng hiến nước Nga cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ. Thiên Chúa sẽ cứu nước đó bằng cách này."
Việc này đã được các Đức Thánh Cha Piô XII, Phaolô VI thi hành nhưng không đạt điều kiện được yêu cầu.
Nước Nga và thế giới được Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II dâng hiến cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Maria ngày 13 tháng 5, 1982. Ròng rã một năm trời, Đức Gioan Phaolô II đã chuẩn bị mọi việc nhất là gởi thơ kêu gọi các giám mục toàn cầu kết hợp với Đức Thánh Cha trong việc dâng hiến này dịp Ngài tới Fatima cảm tạ Đức Mẹ đã duy trì mạng sống của Ngài. Lần này được coi là toàn thể các giám mục khắp thế giới, theo tỉ lệ tối đa, hợp ý với Đức Thánh Cha trong việc dâng hiến này. Và chỉ một số năm sau nước Nga và khối Đông Âu đã trở lại như lời Đức Mẹ hứa.
---------------------------------

Câu chuyện 18
ĐỨC MẸ HIỆN RA TẠI BEAURAING, NƯỚC BỈ, NĂM 1932-1933
Thôn Beauraing, thuộc miền Ardennes, cách thị trấn Namur 48 cây số về phía nam, cách biên giới Pháp-Bỉ 9 cây số về phía đông. Năm 1932, Beauraing là một thôn nhỏ ít ai biết và cũng không có tên trên nhiều bản đồ.
Khoảng 6g30 chiều ngày 29 tháng 11, 1932, Fernande và Albert Voisin, có 2 người con gái của ông bà Degeimbre cùng đi, đến đón em là Gilberte Voisin ở trường các Nữ Tu dòng Christian Doctrine. Gần cổng trường có hang đá Đức Mẹ Lộ Đức. Trong khi chờ đợi Gilberte từ tu viện đi ra, Albert Voisin tình cờ nhìn về phía hang đá Đức Mẹ, cậu thấy thứ gì sáng mờ mờ. Cậu có vẻ sợ hãi. Kế đến cả ba cô kia cũng nhìn thấy bóng sáng đó. Khi Gilberte Voisin từ trong tu viện đi ra, cô bé cũng nhìn thấy hiện tượng đó. Các cô cậu thôi không nhìn vào bóng sáng nữa mà ra về.
Ngày hôm sau, 30 tháng 11, 1932, các cô cậu lại thấy hiện tượng bóng sáng hôm trước tại đài Đức Mẹ. Ngày 1 tháng 12, 1832, cũng vậy. Hôm nay các cô cậu nói cho bà Degeimbre biết về bóng sáng các cô cậu nhìn thấy ở đài Đức Mẹ. Bà Degeimbre cùng với một vài người bà con và lối xóm đi đến nơi xem thế nào. Các bà đi cùng với Albert, Fernande Voisin và Andrée Degeimbre.
Tới nơi, Fernande, Albert Voisin và Andrée Degeimbre thấy Vị Phụ Nữ hiện ra, cả ba cô cậu lập tức quì gối đọc kinh Kính Mừng Maria. Bà Degeimbre và các người lớn khác không nhìn thấy gì. Vì nóng lòng muốn tìm hiểu, bà Degeimbre bước tới gần hang đá. Andrée Degeimbre, con gái bà, la lên: "Má! Má đừng bước thêm bước nào nữa! Má đứng ngay vào chỗ Đức Mẹ đứng đó!"
Đức Mẹ biến đi.
Chiều thứ Sáu, 2-12-1932, ông bố của Gilberte Voisin đến đón cô. Khoảng một tiếng đồng hồ sau, cả năm cô cậu và một nhóm người lớn trở lại hang đá Đức Mẹ. Vừa mới tới nơi lập tức các cô cậu cùng có cảm giác ngây ngất, xuất thần, quì xuống và lớn tiếng đọc kinh "Kính Mừng Maria" khiến các người lớn ngạc nhiên.
Những lần trước, các cô cậu chỉ thấy bóng dáng khuôn mặt người ta, nhưng lần này các cô cậu thấy một "Vị Phụ Nữ đẹp". Sau khi đọc kinh "Kính Mừng", Albert Voisin bất chợt hỏi: "Thưa Bà, Bà có phải là Đức Trinh Nữ Vô Nhiễm Nguyên Tội không?"
Vị Phụ Nữ gật đầu xác nhận.
Albert lại hỏi: "Đức Mẹ muốn chúng con làm gì?"
Đức Mẹ đáp: "Mẹ muốn các con tốt lành."
Tới đây Đức Mẹ biến đi.
Lối 9 giờ tối, các em trở lại hang đá Đức Mẹ, lần này những người lớn đi theo đông hơn. Lần này (lần thứ hai trong ngày) cũng xảy ra như lần trước, nhưng khác là riêng Andrée Degeimbre được Đức Mẹ bảo phải "tốt lành."
Chúa Nhật, 4-12-1932, cả năm cô cậu trở lại hang đá Đức Mẹ, có nhiều người lớn đi theo. Trong số này có một lão bà khiếm thị, và một thiếu niên khập khiễng cũng trạc tuổi các em. Khi Đức Mẹ hiện ra, Albert xin Đức Mẹ chữa hai người đó. Rồi không chờ kết quả lời xin Đức Mẹ chữa hai người, cậu hỏi tiếp: "Ngày nào chúng con phải tới?"
Đức Mẹ đáp: "Ngày Lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội."
Đến đây Andrée Degeimbre, lớn nhất trong 5 cô cậu, hỏi: "Chúng con có phải xin xây nhà nguyện dâng kính Đức Mẹ không?"
Đức Mẹ đáp: "Có."
Đức Mẹ biến đi.
Thứ Hai, 5 tháng 12, 1932, khi Đức Mẹ hiện ra, Albert Voisin xin Đức Mẹ làm phép lạ, nhưng Đức Mẹ không đáp. Khi cậu lặp lại lời xin và không được trả lời, cậu khóc. Nhưng khi cậu hỏi: "Bao giờ chúng con lại tới đây?"
Đức Mẹ đáp: "Tối nay."
Tối ngày 5 tháng 12, 1932, Đức Mẹ lại hiện ra như đã hứa. Ngày thứ Ba, 6 tháng 12, 1932, Đức Mẹ cũng hiện ra hai lần, nhắc lại lời yêu cầu các bé trở lại vào ngày Lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội, thứ Năm, 8 tháng 12, 1932.
Thứ Sáu, 6 tháng 12, 1932, rất đông người đã chờ sẵn tại hang đá Đức Mẹ khi năm thiếu niên được thị kiến tới nơi. Cả phóng viên báo chí cũng chờ sẵn. Qua báo chí, tin Đức Mẹ hiện ra tại Beauraing đã mau chóng phổ biến khắp nước Bỉ. Người ta từ khắp nơi trong nước bắt đầu đến Beauraing. Các em được thị kiến và hai gia đình bị báo giới và những người hiếu kỳ vây quanh để phỏng vấn, tìm hiểu. Khi đáp lời phỏng vấn, Fernande và Albert Voisin một đôi lần nói Đấng Hiện Ra là Đức Trinh Nữ.
Ngày 8 tháng 12, 1832, ngày Lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội, có tới mười ngàn người đến nơi Đức Mẹ hiện ra gần cổng nhà dòng tại Beauring. Hôm nay Đức Mẹ đến sớm hơn, ở lại lâu hơn, và rực rỡ hơn. Một phái đoàn y khoa, do bác sĩ Maistriaux hướng dẫn, đã thí nghiệm thể lý các em được thị kiến khi Đức Mẹ hiện ra và các em trong tình trạng xuất thần. Cây quẹt đỏ lửa châm vào lòng bàn tay, nhéo thật mạnh, cả đến đâm mũi nhọn vào má, nhưng các em không phản ứng gì. Khi thị kiến chấm dứt, các bác sĩ khám nghiệm các em thì những chỗ trên bàn tay bị đốt, chỗ má bị đâm, không còn dấu vết gì.
Ngày 17 tháng 12, 1932, các em được thị kiến lại nói chuyện với Đức Mẹ, các em đồng thanh hỏi: "Theo lời các linh mục, chúng con xin Đức Mẹ cho chúng con biết Đức Mẹ muốn chúng con làm gì?"
Người ta nghe các em đồng thanh đáp: "Vâng, chúng con sẽ xin xây nhà nguyện tại đây."
Ngày 23 tháng 12, 1932, khi trả lời câu hỏi chi tiết về linh địa, Đức Mẹ đáp: "Để mọi người tới hành hương."
Ngày Áp Lễ Giáng Sinh, có ít nhất sáu ngàn người đến hang đá Đức Mẹ. Lần này các em xin Đức Mẹ làm phép lạ chữa lành những người bệnh tật hiện diện. Nhưng hình như Đức Mẹ không nhận lời xin. Sau lần này, một vài em đôi khi không được thị kiến Đức Mẹ, riêng Albert Voisin ít nhất ba lần không được thị kiến khi Đức Mẹ hiện ra.
Thứ Hai, 2 tháng 1, 1933,
Đức Mẹ nói: "Ngày mai Mẹ sẽ nói riêng với từng người các con."
Ngày 3 tháng 1, 1933, Fernande Voisin không được thị kiến phần đầu, và chỉ được Đức Mẹ nói riêng với lời: "Adieu = Từ biệt."
Gilberte Degeimbre nghe Đức Mẹ nói: "Từ biệt. Mẹ sẽ cải hóa các tội nhân."
Albert Voisin nói Đức Mẹ dạy cậu điều gì mà cậu không được nhắc lại với người khác. Khi bị cật vấn, cậu chỉ nói: "Ồ, thông điệp đó khá buồn nếu người ta muốn biết."
Việc kiến thiết linh địa mới gặp khó khăn và hàng giáo phẩm cũng hoài nghi, không cho phép chính thức tổ chức hành hương tới Beauraing. Sáu tháng đầu năm 1933, sự kiện Đức Mẹ hiện ra tại đây hầu như chìm dần vào quên lãng, vì không có phép lạ nào xảy ra. Nhưng sự việc đổi mới khi Đức Mẹ làm phép lạ chữa lành ông Tilman Come, 58 tuổi.
Ông Tilman Come ở thôn Pontaury, cách Beauraing gần 50 cây số, bị tê bại vì liệt xương sống, ông đau đớn gần chết. Ông nài nỉ bà vợ đưa tới Beauraing. Ngày 11 tháng 6, 1933, ông bà lên đường. Dọc đường ông Tilman bị đau đớn kinh khủng. Khi tới hang đá Đức Mẹ, ông đọc được một vài kinh "Kính Mừng Maria." Sau khi chờ một lúc, không thấy bệnh tật thuyên giảm, ông tính quay về Pontaury. Ngay lúc đó một cơn đau dữ dội xảy đến với ông, ông lớn tiếng nói với bà vợ: "Tôi chết mất!" Tiếng kêu đau đớn này khiến đám đông người hành hương xót xa cho cái đau đớn của ông. Nhưng lập tức, trước mắt ngỡ ngàng của mọi người, ông Tilman Come đứng dậy, bước ra khỏi xe, đứng thẳng lên, dang tay dang chân, cái đau đớn đã biến mất.
Tin tức về phép lạ lành bệnh mau chóng loan truyền khắp Beauraing. Ông Tilman và mọi người hiện diện quì gối và từ trái tim thốt lên "lời tâm thành tạ ân." Sau đó ông Tilman nói cho những người chung quanh ông biết về giây phút lạ lùng đó. Ông nói ông không còn biết đến những gì chung quanh ông, trong một phút xuất thần ông thị kiến Đức Mẹ mỉm cười nhân từ nhìn ông và bảo ông Người "sẽ gặp ông ngày mai."
Trên đường về Pontaury, ông Tilman ghé lại Hastière tham dự Thánh Lễ, và khi về tới Pontaury ông chầu Mình Thánh Chúa tại nhà thờ. Sáng hôm sau ông đi bộ 3 cây số đến Mettet, đáp xe lửa đi Beauraing để giữ hẹn với Đức Mẹ, và trước đám đông đang chờ đợi, ông được thị kiến Đức Mẹ.
Lần này Đức Mẹ nói với ông Tilman: "Mẹ đến đây vì danh dự Nước Bỉ và để bảo vệ đất nước này khỏi lại bị xâm lăng. Các con phải mau mắn lên."
Tin này có nghĩa Nước Bỉ lại bị xâm lăng, điều này hầu như không thể xảy ra, vì Nước Bỉ đã được hiệp ước quốc tế bảo đảm.
Tin tức này lập tức loan truyền khắp nước. Bốn ngày sau, 16 tháng 6, 1933, ông Tilman trở lại hang đá, và có năm em được thị kiến trước, các em được Đức Mẹ nhắc lại yêu cầu: "Một nhà nguyện, một nhà nguyện lớn."
Từ đây ông Tilman trở nên người được thị kiến chính. Đức Mẹ hiện ra với ông nhiều lần cho tới tháng 8, 1933. Một trong những lần Đức Mẹ hiện ra với ông Tilman, Đức Mẹ cho biết Người muốn được tôn xưng là "ĐỨC MẸ BEAURAING" và ký thác cho ông nhiều bí mật. Ông Tilman đã được hội đồng y khoa và giáo sĩ chất vấn, khám nghiệm trong nhiều giờ.
Linh địa Beauraing được thiết lập không phải tại địa điểm nơi Đức Mẹ hiện ra gần nhà dòng, mà ở phía bên kia đường xe lửa. Đức Mẹ chỉ dẫn nhiều chi tiết về kiến thiết bàn thờ trong thánh đường này.
Sau phép lạ chữa ông Tilman Come, nhiều người khác được Đức Mẹ chữa lành tại linh địa Beauraing. Vào cuối tháng 8 năm 1933, hàng ngày có nhiều ngàn khách hành hương viếng nơi Đức Mẹ hiện ra tại đây.
Năm 1935, đức giám mục tại Namur chỉ định một ủy ban điều tra sự kiện Beauraing, nhưng ngài từ trần trước khi cuộc điều tra kết thúc. Đức giám mục André Marie Charue, kế vị, tiếp tục công việc của ngài.
Ngày 2 tháng 2 năm 1943, trong Đệ Nhị Thế Chiến, quân Đức chiến đóng Nước Bỉ, đức giám mục André cho phép việc tôn kính Đức Mẹ tại Beauraing. Ngày 2 tháng 7 năm 1949, đức giám mục chỉ thị cho các linh mục trong giáo phận xác nhận rằng: "ĐỨC NỮ VƯƠNG THIÊN ĐÀNG thực sự đã hiện ra với năm thiếu niên tại Beauraing. Ngài chính thức chấp nhận việc quyên góp xây dựng thánh đường và linh địa Beauraing. Thánh đường tôn kính MẸ THIÊN CHÚA, ĐỨC NỮ VƯƠNG THIÊN ĐÀNG được dâng hiến ngày 21 tháng 8 năm 1954.

-------------------------




tải về 0.94 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương